Arty mình ướt đẫm mồ hôi. Giá con mẹ phù thủy đừng gây nên cảnh khó khăn này cho hắn thì hay biết mấy! Bộ áo quần mới bây giờ đã bốc mùi hôi, y như mỗi khi hắn...
Mà nếu hắn không nghe bà ta thì sao? Chắc chắn bà ta ở trong phòng ấy, chính cái giường trong phòng là của bà ấy. Như thế có nghĩa là bà ta có chìa khóa phòng. Nếu hắn không nghe, thế nào bà ta cũng vào đấy và phát hiện ra chúng. Người ta sẽ có đủ thời gian đem chuyên gia đến tháo quả bom ra.
Hắn băng nhanh qua sân ga, đi dọc theo dãy nhà hàng buôn bán dẫn đến khách sạn Biltmore, lấy xe trong ga ra khách sạn. Cái va-li và cái rađiô hắn đã để sẵn trong xe rồi. Hắn lái xe ngược lên theo đường Hữu Ngạn đến cầu Triborough. Đây là đường đến phi trường La Guardia nhanh nhất, hắn phải rời New York gấp, máy bay đi Phoenix khởi hành lúc giờ .
Hắn trở lại bãi đậu xe mà hắn mới rời cách đây mấy giờ. Ý nghĩ hắn đã thực hiện kế hoạch lấy tiền chuộc rất tuyệt vời bắt đầu làm hắn lo ngại. Lần này, hắn để chiếc Volkswagen xa trạm kiểm soát, nơi những người đáp máy bay con thoi đi Washington trở về thường đậu. Khu vực đậu xe này luôn luôn lộn xộn, đông đúc. Hắn đã đục mờ số máy, còn số đăng ký xe thì không phải số xe hắn. Hắn đã lấy số xe của chiếc đã bị hư cách đây năm năm. Ngoài ra, hắn có thể đi một tháng người ta mới để ý đến chiếc Volkswagen của hắn để tại đây.
Hắn lấy hai cái va-li trong thùng xe ra - cái nhẹ đựng áo quần, băng cát-sét, cái nặng đựng tiền - và cái hộp đựng máy vô tuyến điện thoại. Ngoài các thứ ấy ra không có gì trong xe làm hắn lưu luyến nữa.
Hắn đi nhanh đến bến xe đò. Chiếc xe đưa khách ra sân bay chạy đến, hắn bước lên. Những người khách khác thờ ơ nhìn hắn, hắn cảm thấy bị hất hủi. Chỉ vì hắn không ăn mặc tươm tất mà thôi. Hắn ngồi xuống bên cạnh một cô gái tuổi, cô gái rất hấp dẫn. Hắn nhận thấy cô ta quay mặt đi chỗ khác, nét mặt lộ vẻ ghê tởm. Đồ mất dạy, nếu nó biết mình thông minh và giàu có, liệu nó có dám khinh mình không!
Chiếc xe chở khách đậu tại ranh giới phi cảng, chỉ cách phòng đợi của hãng Hàng không American Airlines mét. Nhân viên hàng không ghi hành lý, hắn không mang theo hết hành lý được. Hắn lấy vé ra, tên trên vé là Rommel - Rommel, con Cáo sa mạc. Hắn tính sẽ dùng tên này khi đến Arizona.
- Ông gởi cả ba va-li hành lý chứ, thưa ông.
- Không, cái này không. - Hắn lấy riêng cái va-li đựng tiền đặt sang một bên.
- Rất tiếc, thưa ông, tôi nghĩ ông không thể xách cái va-li to tướng như thế này lên máy bay được.
- Tôi phải xách! - Hắn cố giữ bình tĩnh khi nói - Tôi có số giấy tờ cần thiết phải làm trên máy bay.
Người nhân viên nhún vai.
- Tùy ông, thưa ông, nhưng tôi nghĩ cô tiếp viên sẽ đem cất vào tủ ở buồng máy bay nếu cô ta thấy cần.
Lúc ấy là giờ , hắn thấy đói, nhưng trước hết hắn phải gọi điện thoại đã. Hắn tìm buồng điện thoại xa nhất trong phi cảng, và viết sẵn lên giấy để khi nói khỏi sai lầm. Hắn tưởng tượng ra thái độ của Peterson khi nhận được lời nhắn này.
Hắn gọi được phòng dịch vụ mai táng rất nhanh. Cáo hạ thấp giọng, nói:
- Có người sắp nhờ ông lo việc tẩn liệm người chết đấy.
- Thưa ông, được thôi. Xin cho biết ai đầu dây nói thế? - Giọng nói nghe rất hăm hở.
- Ông có vui lòng chuyển giúp một lời nhắn không?
- Sẵn lòng.
Giọng Cáo thay đổi, nghe có vẻ hách dịch:
- Anh hãy ghi ra giấy, rồi sau đó đọc lại cho tôi nghe, và hãy chú ý nhắn lại cho đúng. - Hắn bắt đầu đọc, lòng hân hoan khi nghe hơi thở hồi hộp của người bên kia đầu dây vang lên trong ống nghe. - Bây giờ anh đọc lại đi. - Hắn ra lệnh. Giọng bên kia run run vâng lời hắn đọc lại, rồi tiếp theo là tiếng than dài - Lạy Chúa, tôi van xin ông...
Cáo gác máy, mỉm cười.
Hắn vào phòng ăn của phi cảng, gọi thịt heo hun khói, bánh mì, nước cam và cà phê. Hắn ăn từ từ, nhìn mọi người vội vã lui tới quanh hắn.
Hắn cảm thấy bắt đầu được thư giãn. Cuốc điện thoại cho phòng dịch vụ đám tang làm hắn bị kíƈɦ ŧɦíƈɦ tột độ, hắn không thể nào nín cười cho được. Mới đầu, hắn định báo cho chúng biết một vụ nổ sắp xảy ra trong thành phố New York. Đến phút cuối, hắn thay đổi là trong bang New York. Hắn tưởng tượng cảnh bọn cảnh sát đang chạy đôn chạy đáo mà tức cười.
Arizona vùng sa mạc hoang vắng.
Nhìn vào mắt thằng bé là đủ rồi, từ rày về sau hắn khỏi chạy trốn cặp mắt ấy. Hắn đang hình dung cảnh Ga lớn Trung tâm vào lúc giờ . Quả bom nổ, cả tầng trên sập tan tành xuống Neil và Sharon, hàng trăm ngàn tấn khối xi măng đè lên chúng.
Thật dễ tạo ra một quả bom, hơn là sửa một chiếc xe hơi nhiều. Người ta chỉ cần đọc những gì họ đã viết về vấn đề này là làm được. Bây giờ chắc tất cả mọi người đều muốn biết Cáo là ai, có lẽ rồi người ta sẽ viết về hắn, như người ta đã viết về Rommel.
Hắn uống hết cà phê, đưa lưng bàn tay lau miệng. Hắn nhìn qua cửa kính thấy người mang hành lý vội vã đi đến cửa ra sân bay. Hắn nhớ vụ nổ bom ở phi trường La Guardia vào dịp Nô-en cách đây hai năm. Vụ nổ làm cho mọi người kinh hoàng, phải đóng cửa phi trường, hắn đã xem cảnh tượng ấy trên tivi.
Hắn tưởng tượng thấy mình ngồi trong quán rượu ở Phoenix tối nay, xem chương trình thời sự trên tivi nói về vụ nổ ở Ga lớn Trung tâm. Người ta sẽ nói vụ này trên các máy truyền hình khắp thế giới. Nhưng nếu bọn cảnh sát hốt hoảng, không biết bắt đầu tìm kiếm ở đâu, còn vui hơn nữa. Những người đặt bom ở các cơ quan đã làm thế đấy, họ gọi điện thoại cho biết họ gài bom rất nhiều nơi, thế là cảnh sát không biết đâu mà mò. Chúng đành phải lùa ra hết những người trong các nơi mà người đặt bom đã báo cho chúng biết.
Hắn còn có thể làm như thế được, nhưng hắn sẽ nói gì với họ? Hắn nhìn ra trước, cả một phi trường đông đúc náo nhiệt. Người đi lui đi tới khắp nơi, thế nhưng phi trường La Guardia ít quan trọng hơn phi trường Kennedy.
Tất cả cảnh tượng này đều giống ở Ga lớn Trung tâm, hay là giống bến xe đò. Mọi người chen lấn nhau, không ai chú ý đến ai. Người ta chỉ chú ý đến nơi họ đi, không thèm nhìn đến mình, không thèm cười với mình. Mẹ kiếp!
Bỗng hắn nảy ra sáng kiến, giả sử bây giờ hắn báo cho cảnh sát hay. Giả sử hắn báo cho cảnh sát rằng Sharon, Neil và quả bom hiện ở tại một trung tâm giao thông vận tải của thành phố New York. Như thế cảnh sát sẽ cho di tản người vừa trong các phi trường, vừa trong các ga xe lửa, vừa trong nhà ga Pennsylvania cũng như Ga lớn Trung tâm. Chúng sẽ lục soát những chỗ ngồi ở phòng đợi, trong các tủ gởi hành lý. Thực vậy, họ sẽ không biết đâu mà mò. Còn đám người kia, đám hành khách khốn khổ, buộc lòng phải tháo chạy, phải bỏ lỡ chuyến tàu, bỏ lỡ máy bay, bỏ lỡ chuyến xe.
Người ta sẽ không bao giờ tìm ra Sharon và Neil, không bao giờ. Người duy nhất biết cái phòng ấy là một phù thủy, nhưng hắn đã thanh toán mụ rồi. Bây giờ chỉ có một mình hắn thôi, hắn chỉ cần gọi một cuốc điện thoại là hắn có thể chận đường vào và lối ra của cái thành phố lớn nhất thế giới này. Ông Peterson tưởng mình là người giỏi có tờ báo trong tay, có tiền gởi ngân hàng và có cô bạn gái trẻ đẹp. Cáo bật cười. Cặp vợ chồng ngồi bàn bên cạnh nhìn hắn, kinh ngạc.
Hắn phải gọi điện thoại trước khi lên máy bay, hắn sẽ gọi cho ai nhỉ?
Gọi cho phòng dịch vụ đám tang lần nữa à? Không.
Ai sẽ tin chuyện này không phải là đùa bỡn? Hắn tìm ra rồi! Hắn mỉm cười, nghĩ đến phản ứng của người nghe bên kia đầu dây, hắn gọi thêm một tách cà phê nữa. Lúc giờ , hắn đi ra khỏi quán ăn uống, nắm chặt cái va-li trên tay. Hắn bằng lòng chờ đến phút cuối mới để hành lý xách tay lên quầy kiểm tra bằng tia X. Người nào cũng đều vội vã, nên không ai quan tâm đến cái va-li của hắn. Các công ty hàng không đều làm việc rất đúng giờ.
Lúc giờ , hắn lẻn vào buồng điện thoại gần cửa ra máy bay, phòng số , bỏ vào máy số tiền cần thiết rồi quay số. Khi bên kia đầu dây có người nhấc máy nghe, hắn nói nhỏ lời nhắn, hắn gác máy nhè nhẹ, đi về phía phòng đăng ký rồi qua phòng kiểm tra không gặp một khó khăn gì.
Dấu hiệu "Lên máy bay gấp" nhấp nháy sáng, thì hắn đi qua phòng đợi, hắn đi đến phía lối đi có mái che dẫn ra máy bay.
Khi ấy là giờ .