Theo lịch, mẹ sẽ bay từ Hy Lạp về nhà vào ngày thứ Tư, và nỗi lo lắng của tôi đang tăng lên. Elliott đã ghé qua sau cuộc điện thoại điên rồ của tôi vào chiều tối thứ Hai để làm tôi dịu xuống. Có điều gì đó an ủi tôi một cách mãnh liệt trong cách ông tiếp nhận mọi điều tôi phải kể cho ông nghe, kể cả thực tế là Aaron Klein, người kế tục được chỉ định của ông tại Wallace và Madison giờ đây tin rằng Mack phải chịu trách nhiệm về cái chết của mẹ anh ta.
"Điều đó nghe thật phi lý". Elliott nói một cách dứt khoát. "Aaron quên mất đã kể với ta là vào thời điểm đó chẳng có cái gì bị lấy đi khỏi căn hộ. Ta hãy còn nhớ những lời của cậu ấy rất rõ ràng. "Tại sao người nào đó gϊếŧ mẹ tôi, ăn trộm chìa khóa của bà mà lại không muốn đánh cướp căn hộ chứ?" Ta bảo cậu ấy rằng kẻ gϊếŧ mẹ cậu ấy có lẽ là một kẻ nghiện ma túy, bị hoảng loạn khi nhận ra rằng bà ấy đã chết. Trong nhiều năm tháng, Aaron đã chỉ chăm chăm cố tìm cho ra kẻ nào đó để đổ lỗi cho cái chết của mẹ cậu ấy, nhưng ta sẽ bị nguyền rủa nếu để cậu ta cố gắng gán ghép nó cho Mack".
Chẳng có gì khách sáo hay bị che giấu trong phản ứng gay gắt của Elliott. Bản thân cha tôi cũng không thể phản ứng mãnh liệt hơn. Tôi cho rằng đó chính là giây phút mà bất kỳ sự ngần ngại nào của tôi về mối quan hệ gần gũi đang tiến triển giữa mẹ tôi và Elliott đã biến mất vĩnh viễn. Đó cũng là giây phút tôi quyết định gọi ông ấy thân mật là Elliott.
Chúng tôi đều đồng ý rằng điều không thể tránh né là tôi sẽ bị gọi lên thẩm vấn về Mack và rằng chúng tôi phải cố thuê một luật sư biện hộ. "Ta sẽ không cho phép Mack bị xét xử và bị kết án trên báo chí". Elliott thề thốt. "Ta sẽ tìm quanh và kiếm cho được người luật sư tốt nhất mà ta có thể tìm ra".
Chúng tôi cũng đồng ý là phải để cho mẹ biết điều gì đang diễn ra.
"Sẽ không lâu thì một phóng viên táo bạo cũng sẽ liên kết sự biến mất của Mack với cô gái bị mất tích vì dính dáng đến Ngày của Mẹ". Elliott khẳng định. "Tuy nhiên điều còn tồi tệ hơn là ta không thể qua mặt các tay thám tử về việc cố tình để rò rỉ thông tin đó ra cho giới truyền thông. Mẹ con không được trông có vẻ như bà đang che giấu họ".
Elliott gọi điện thoại và gợi ý nhẹ nhàng là bà nên về nhà sớm. Thời điểm mẹ về vào chiều tối thứ Tư thì những gì Elliott dự đoán đều xảy ra đúng cả. Giới truyền thông, giống như lũ chó săn đánh hơi thấy mùi máu tươi, đã mở lại hồ sơ trường hợp ba cô gái khác biến mất dạng khỏi các hộp đêm, và tường thuật lại thực tế rằng Mack và các bạn học cao đẳng của anh đã có mặt tại The Scence vào cái đêm cô gái thứ nhất, Emily Valley biến mất. Sự nối kết Ngày của Mẹ giữa những cuộc điện thoại theo thông lệ của Mack với lời nhắn của Leesey Andrews cho cha cô ấy dĩ nhiên cũng là tin tức trang nhất.
Mẹ, với cánh tay Elliott choàng qua vai, phải vất vả len lỏi để vượt qua những camera và micro khi bà và Elliott về đến Sutton Place. Lời chào của bà dành cho tôi chính xác là điều tôi chờ đợi nhưng lại hi vọng nó sẽ không xảy ra. Với những nét quầng thâm dưới cặp mắt đã sưng phồng lên vì khóc nhiều, lần đầu tiên được nhìn thấy mỗi ngày trong sáu mươi hai năm cuộc đời bà, mẹ tôi nói: "Carolyn, chúng ta đã đồng ý để Mack sống cuộc đời riêng của nó. Giờ đây vì sự can thiệp của con, con trai của mẹ có thể sẽ bị săn đuổi như một kẻ tội phạm. Elliott rất tử tế đã mời mẹ đến nhà ông ấy ở. Các túi xách của mẹ vẫn còn trong xe ông ấy và mẹ định sẽ đi đến đó. Trong lúc này con có thể hài lòng với mớ hỗn độn đó trên đường phố và cần phải xin lỗi hàng xóm vì đã phá hủy sự riêng tư của họ. Trước khi đi, mẹ muốn nghe cuộn băng đó".
Tôi lặng lẽ lấy cuộn băng ra, rồi ngồi xuống với bà trong nhà bếp và bật nó lên. Giọng Mack, đùa cợt với giáo viên kịch nghệ của anh, "Nghe em có giống Laurence Olivier hay Tom Hanks không?" - Rồi sự thay đổi đầy kịch tính trong giọng điệu của anh khi anh bắt đầu trích đọc đoạn thơ của Shakespear.
Khi tôi tắt máy, khuôn mặt mẹ trở nên xanh xao, thống khổ. "Có điều gì đó không ổn". Bà thì thào. "Tại sao nó không đến với mẹ? Chẳng có gì có thể tồi tệ đến mức mẹ không thể giúp đỡ nó được". Rồi bà đưa tay ra cho tôi. "Đưa mẹ cuộn băng, Carolyn". Bà nói.
"Mẹ ơi, con không thể". Tôi nói. "Con không ngạc nhiên nếu chúng ta sẽ nhận một trát hầu tòa cho điều đó. Mẹ nghĩ Mack đang gặp rắc rối. Một giải thích khác nữa là anh ấy chỉ đơn thuần đọc một bài tập kịch mà thôi. Sáng mai Elliott và con sẽ gặp một luật sư biện hộ các vụ án hình sự. Con cần phải có nó để bật cho ông ấy nghe".
Chẳng thốt thêm lời nào, mẹ quay lưng lại tôi. Elliott thì thầm: "Ta sẽ gọi cho con sau" trước khi ông chạy ào về phía hành lang đuổi theo sau bà. Khi họ đã đi khuất, tôi lại bật cuộn băng lên nghe một lần nữa. "...Ta chỉ có một mình khóc lóc vì bị ruồng bỏ và quấy rầy thiên đường lặng câm bằng những tiếng kêu than vô vọng của ta".
Mack có thể đã đóng kịch, hoặc có thể anh ấy đã nói về chính mình, nhưng với sự kết hợp của nỗi đau và niềm cay đắng. Tôi nghĩ rằng giờ đây những ngôn từ ấy thực sự có thể áp dụng cho tôi. Vài phút sau đó, chuông điện thoại trong căn hộ reo vang. Khi tôi nhấc máy lên nói "Alô", người nào đó ở đầu dây bên kia đã cúp máy.
Theo lịch, mẹ sẽ bay từ Hy Lạp về nhà vào ngày thứ Tư, và nỗi lo lắng của tôi đang tăng lên. Elliott đã ghé qua sau cuộc điện thoại điên rồ của tôi vào chiều tối thứ Hai để làm tôi dịu xuống. Có điều gì đó an ủi tôi một cách mãnh liệt trong cách ông tiếp nhận mọi điều tôi phải kể cho ông nghe, kể cả thực tế là Aaron Klein, người kế tục được chỉ định của ông tại Wallace và Madison giờ đây tin rằng Mack phải chịu trách nhiệm về cái chết của mẹ anh ta.
"Điều đó nghe thật phi lý". Elliott nói một cách dứt khoát. "Aaron quên mất đã kể với ta là vào thời điểm đó chẳng có cái gì bị lấy đi khỏi căn hộ. Ta hãy còn nhớ những lời của cậu ấy rất rõ ràng. "Tại sao người nào đó gϊếŧ mẹ tôi, ăn trộm chìa khóa của bà mà lại không muốn đánh cướp căn hộ chứ?" Ta bảo cậu ấy rằng kẻ gϊếŧ mẹ cậu ấy có lẽ là một kẻ nghiện ma túy, bị hoảng loạn khi nhận ra rằng bà ấy đã chết. Trong nhiều năm tháng, Aaron đã chỉ chăm chăm cố tìm cho ra kẻ nào đó để đổ lỗi cho cái chết của mẹ cậu ấy, nhưng ta sẽ bị nguyền rủa nếu để cậu ta cố gắng gán ghép nó cho Mack".
Chẳng có gì khách sáo hay bị che giấu trong phản ứng gay gắt của Elliott. Bản thân cha tôi cũng không thể phản ứng mãnh liệt hơn. Tôi cho rằng đó chính là giây phút mà bất kỳ sự ngần ngại nào của tôi về mối quan hệ gần gũi đang tiến triển giữa mẹ tôi và Elliott đã biến mất vĩnh viễn. Đó cũng là giây phút tôi quyết định gọi ông ấy thân mật là Elliott.
Chúng tôi đều đồng ý rằng điều không thể tránh né là tôi sẽ bị gọi lên thẩm vấn về Mack và rằng chúng tôi phải cố thuê một luật sư biện hộ. "Ta sẽ không cho phép Mack bị xét xử và bị kết án trên báo chí". Elliott thề thốt. "Ta sẽ tìm quanh và kiếm cho được người luật sư tốt nhất mà ta có thể tìm ra".
Chúng tôi cũng đồng ý là phải để cho mẹ biết điều gì đang diễn ra.
"Sẽ không lâu thì một phóng viên táo bạo cũng sẽ liên kết sự biến mất của Mack với cô gái bị mất tích vì dính dáng đến Ngày của Mẹ". Elliott khẳng định. "Tuy nhiên điều còn tồi tệ hơn là ta không thể qua mặt các tay thám tử về việc cố tình để rò rỉ thông tin đó ra cho giới truyền thông. Mẹ con không được trông có vẻ như bà đang che giấu họ".
Elliott gọi điện thoại và gợi ý nhẹ nhàng là bà nên về nhà sớm. Thời điểm mẹ về vào chiều tối thứ Tư thì những gì Elliott dự đoán đều xảy ra đúng cả. Giới truyền thông, giống như lũ chó săn đánh hơi thấy mùi máu tươi, đã mở lại hồ sơ trường hợp ba cô gái khác biến mất dạng khỏi các hộp đêm, và tường thuật lại thực tế rằng Mack và các bạn học cao đẳng của anh đã có mặt tại The Scence vào cái đêm cô gái thứ nhất, Emily Valley biến mất. Sự nối kết Ngày của Mẹ giữa những cuộc điện thoại theo thông lệ của Mack với lời nhắn của Leesey Andrews cho cha cô ấy dĩ nhiên cũng là tin tức trang nhất.
Mẹ, với cánh tay Elliott choàng qua vai, phải vất vả len lỏi để vượt qua những camera và micro khi bà và Elliott về đến Sutton Place. Lời chào của bà dành cho tôi chính xác là điều tôi chờ đợi nhưng lại hi vọng nó sẽ không xảy ra. Với những nét quầng thâm dưới cặp mắt đã sưng phồng lên vì khóc nhiều, lần đầu tiên được nhìn thấy mỗi ngày trong sáu mươi hai năm cuộc đời bà, mẹ tôi nói: "Carolyn, chúng ta đã đồng ý để Mack sống cuộc đời riêng của nó. Giờ đây vì sự can thiệp của con, con trai của mẹ có thể sẽ bị săn đuổi như một kẻ tội phạm. Elliott rất tử tế đã mời mẹ đến nhà ông ấy ở. Các túi xách của mẹ vẫn còn trong xe ông ấy và mẹ định sẽ đi đến đó. Trong lúc này con có thể hài lòng với mớ hỗn độn đó trên đường phố và cần phải xin lỗi hàng xóm vì đã phá hủy sự riêng tư của họ. Trước khi đi, mẹ muốn nghe cuộn băng đó".
Tôi lặng lẽ lấy cuộn băng ra, rồi ngồi xuống với bà trong nhà bếp và bật nó lên. Giọng Mack, đùa cợt với giáo viên kịch nghệ của anh, "Nghe em có giống Laurence Olivier hay Tom Hanks không?" - Rồi sự thay đổi đầy kịch tính trong giọng điệu của anh khi anh bắt đầu trích đọc đoạn thơ của Shakespear.
Khi tôi tắt máy, khuôn mặt mẹ trở nên xanh xao, thống khổ. "Có điều gì đó không ổn". Bà thì thào. "Tại sao nó không đến với mẹ? Chẳng có gì có thể tồi tệ đến mức mẹ không thể giúp đỡ nó được". Rồi bà đưa tay ra cho tôi. "Đưa mẹ cuộn băng, Carolyn". Bà nói.
"Mẹ ơi, con không thể". Tôi nói. "Con không ngạc nhiên nếu chúng ta sẽ nhận một trát hầu tòa cho điều đó. Mẹ nghĩ Mack đang gặp rắc rối. Một giải thích khác nữa là anh ấy chỉ đơn thuần đọc một bài tập kịch mà thôi. Sáng mai Elliott và con sẽ gặp một luật sư biện hộ các vụ án hình sự. Con cần phải có nó để bật cho ông ấy nghe".
Chẳng thốt thêm lời nào, mẹ quay lưng lại tôi. Elliott thì thầm: "Ta sẽ gọi cho con sau" trước khi ông chạy ào về phía hành lang đuổi theo sau bà. Khi họ đã đi khuất, tôi lại bật cuộn băng lên nghe một lần nữa. "...Ta chỉ có một mình khóc lóc vì bị ruồng bỏ và quấy rầy thiên đường lặng câm bằng những tiếng kêu than vô vọng của ta".
Mack có thể đã đóng kịch, hoặc có thể anh ấy đã nói về chính mình, nhưng với sự kết hợp của nỗi đau và niềm cay đắng. Tôi nghĩ rằng giờ đây những ngôn từ ấy thực sự có thể áp dụng cho tôi. Vài phút sau đó, chuông điện thoại trong căn hộ reo vang. Khi tôi nhấc máy lên nói "Alô", người nào đó ở đầu dây bên kia đã cúp máy.