Phải đợi đến mùa xuân, chúng tôi mới làm đám cưới. Trong thời gian ấy, anh chỉ có thể đi lại với một cái gậy. Tôi ở lại Áo với anh ba tháng. Cô Patty chỉ ở lại với chúng tôi ba tuần. Cô nói cô nghĩ tôi có thể xoay xở được mà không cần có cô và cô muốn xem Violet sống ra sao. Cô đã giúp Fiona được rất nhiều. Fiona từ chối không tin là nó đã cưới một tên giết người không ghê tay. Đối với nó, hắn chỉ là một người tình lãng mạn mà nó được biết từ hồi nào đến giờ. Hắn tỏ ra rất mực đáng yêu và tình cảm thì lúc nào cũng chan chứa. Tôi nghĩ mọi chuyện mới lạ lùng làm sao và lần đầu tiên tôi cảm thấy kinh ngạc về bản chất phức tạp của con người. Tôi cho rằng khi hắn ở bên vợ, hắn là tất cả những điều mà Fiona nói về hắn – tuy vậy suốt trong thời gian âu yếm đó, hắn chờ đợi thời cơ để ra tay giết người vợ xinh đẹp mà lúc nào hắn cũng nâng niu như một báu vật. Tôi tự hỏi hắn là loại người gì mà lại sống dưới hai bộ mặt trái ngược như vậy. Tốn bao nhiêu giấy mực cho vụ án được gọi bằng cái tên “Chú rể Satăng”. Báo chí cho biết Hans Dowling là con của một người đàn bà người Đức và một người đàn ông Ănglê. Hắn đã giết hai người phụ nữ. Có một người trước Lydia. Động cơ rõ ràng là để chiếm đoạt gia tài. Cả hai người đàn bà bạc mệnh đều để lại tiền bạc cho hắn. Vụ giết người được chuẩn bị kĩ nhất là nhằm vào chị em nhà Verringer, qua đó hắn không chỉ thừa hưởng tài sản của Fiona mà còn của em nó vì sau khi Eugenie chết, tài sản của cô em sẽ được chuyển sang cho cô chị. Chính cái toan tính lấy cả tiền của em lẫn chị đã giữ cho Fiona còn có ngày nhìn thấy mặt trời. Nếu không thì nó đã tiêu đời từ lâu.
Jason là mối bận tâm chính của tôi. Cùng nhau, chúng tôi tập trung vào việc đưa anh trở lại sinh hoạt của một người bình thường. Có những giờ tập đi, trong đó tôi là cái nạng của anh, tôi ở bên anh trong suốt những ngày này và chúng tôi thường thực hành những cuộc đấu khẩu đầy hứng thú, điều đã trở thành một đặc điểm trong mối quan hệ giữa hai người.
Tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết, từ khi tôi được biết anh đang bình phục; và tôi thường kinh ngạc về nỗi có một niềm hạnh phúc lớn lao đến thế thoát thai từ một vụ án độc ác kinh người.
Daisy rất buồn vì tôi không quay lại trường, và những lời ca ngợi đến điều về ảnh hưởng của Schaffenbrucken bị bỏ ra ngoài cuốn sách quảng cáo về nhà trường, nhưng bà làm cho các bậc phụ huynh hiểu rõ rằng cô giáo trẻ đã mang hơi hướng của Schaffenbrucken đến trường nay trở thành phu nhân Verringer, vợ của nhà quý tộc lớn nhất vùng Devon. Và tôi nghĩ bà lấy điều đó làm an ủi.
Elsa bị dẫn độ sang Áo và đứng trước vành móng ngựa ở đây. Ả không trực tiếp ra tay giết người nhưng bị cáo buộc là có âm mưu giết người và tiếp tay cho kẻ sát nhân. Ả thừa nhận tất cả tội ác, một điều giúp Fiona chấp nhận sự thật. Elsa bị khép vào cái án tù giam nhiều năm.
Có biết bao nhiêu đề tài bàn tán xung quanh chuyện này ở Colby và tôi có thể hình dung những cuộc trao đổi diễn ra bên quầy tính tiền ở trạm bưu điện. Daisy viết thư cho tôi, rất hài lòng vì không có bậc phụ huynh nào muốn chuyển con gái đi trường khác. Thế là chúng tôi về nhà và làm đám cưới ở nhà thờ Colby, chuông nhà thờ ngân vang với một thông điệp vui vẻ thông báo việc tôi trở thành một thành viên của dòng họ Verringer.
Elsa trở thành một người tù nổi tiếng hơn cả một người đạo cao đức trọng. Dần dần, cô ả được hưởng một đặc quyền cho phép ả viết một cuốn sách thuật chuyện đời mình. Cuốn sách để lộ nhiều điều.
Elsa giải thích bản thân ả và gia đình sống trong cảnh nghèo túng ở Croston như thế nào. Người mẹ tiết kiệm chắt bóp từng đồng, còn người cha thì vung tiền như nước cho những trận say nghiêng ngả đất trời. Trước vụ cháy, ông ta làm việc cho ngài điền chủ Edward Compton. Sau khi nhà chủ bị cháy trụi, ông ta chỉ làm việc bữa đực bữa cái cho nhà này nhà kia và cuối cùng một trận say bí tỉ đã khiến ông ta thiệt mạng. Ở nhà, bọn trẻ nói tiếng Đức; ở trường, chúng học tiếng Anh, vì thế mà hai chị em thông thạo cả hai thứ tiếng. Elsa và người em trai tên là Hans rất gắn bó với nhau; chúng thường chơi với nhau ở khu nhà cháy, tưởng tượng rằng chúng là chủ nhân của tòa lâu đài này và sống trong nhung lụa. Hans thề độc rằng lớn lên nó sẽ tìm cách để được sở hữu một nơi như thế để nó và Elsa sẽ cùng nhau sống sung sướng suốt đời. Đó là một giấc mơ thường trực trong suốt những năm gian khổ sống trong nghèo đói. Hans nuôi lòng căm thù những người giàu có. Hắn thường ra nghĩa địa nhìn ngôi mộ của Edward Compton. “Mày bị đốt cháy cho đến chết. Đáng đời lắm. Mày đã có tất cả. Chúng tao chả có gì. Nhưng một ngày kia, tao sẽ có tất cả những gì tao muốn… Elsa và tao.” Chúng thường đi nhà thờ, đứng trước những bức tượng hoặc tấm biển đồng tưởng niệm gia đình Edward Compton… Đó là một lời thề nghiêm trang. Hắn bảo Elsa đó là một trận chiến giữa chúng – những kẻ khố rách áo ôm với những người giàu nứt đố đổ vách. Nếu người giàu phải chết để cung cấp cho chúng những cái chúng cần, thì cũng là phải lẽ thôi.
Elsa nhớ cái đêm ả cùng em trai đứng ở tòa lâu đài cháy bỏ hoang, hắn ngước nhìn mặt trăng và làm một lời thề độc. Đó là đêm trăng tròn… vầng trăng của người thợ săn. Hắn long trọng tuyên bố: “Em là một người thợ săn. Em sẽ săn tìm cái mà em định có và khi có nó thì chị thân yêu ạ, nó cũng là của chị.” Nói rồi hắn đi vào nhà thở, ở đây hắn lại nghiêm trang lặp lại lời thề về dự định của hắn. Đây là câu nói cửa miệng giữa hai chị em hắn: “Hãy nhớ cái đêm trăng tròn của người thợ săn.”
Elsa cố sức giúp em. Ả hoảng sợ sau vụ giết người đầu tien xảy ra ở Na Uy, nhưng nó trôi qua gọn nhẹ không có một khó khăn nào. Đám cưới, một vụ tai nạn trên núi, người chồng mới cưới tan nát cả trong cõi lòng ẵm trọn số tiền của vợ và dông tuốt. Nhưng vụ làm ăn thứ nhất chỉ kiếm được một số tiền nho nhỏ và hắn quyết định tìm kiếm nạn nhân ở những bậc thang cao hơn. Rồi hắn nghe cái tên Schaffenbrucken – một trong những trường danh giá nhất và đắt nhất châu Âu, tọa lạc ở Thụy Sĩ. Tất cả các quý cô ở đây đều ở tuổi cập kê. Thế là chúng vạch kế hoạch.
Thật thú vị khi đọc những miêu tả này, có một cái gì đó trong tính cách của Elsa toát lên trong các trang sách. Ả thích tiếp xúc với nhiều người, khoái những nơi vui nhộn và tiếng cười – không thể tưởng tượng được một con người như thế lại là một kẻ sát nhân mưu toan giết người không run tay.
Ả biết rõ ràng là hai chị em đã làm một sai lầm chết người. Thằng em đã sai một bước khi không tìm hiểu đầy đủ thông tin về thân thế của tôi, và trong một phút thiếu suy nghĩ đã đưa ra cái tên Edward Compton. Hắn gần như có một niềm tin huyền bí là hắn sẽ thành công trong trường hợp của tôi bởi vì chúng tôi đã gặp hắn vào đúng ngày rằm. Có vẻ như đó là một khoảng thời gian có ý nghĩa với hắn, nó làm cho hắn quá chắc thắng và… đâm ra bất cẩn. Ả cũng sai lầm khi cứ ở lại trường Colby sau khi đã khám phá ra việc tôi dạy học ở đây – tất cả như một trò chơi khăm của định mệnh.
“Đó là một trò đùa quái ác của tạo hóa,” ả viết, “khi chúng tôi lại chọn địa điểm hành động là một cái trường trong đó một nạn nhân trong dự tính của chúng tôi đang làm việc.”
Hai chị em ả thường hái những bông hoa dại mọc trong tòa lâu đài đổ nát của dòng họ Compton. Chúng học được là những loài thảo mộc này vừa có tác dụng chữa bệnh vừa có thể dùng để giết người. Chúng khám phá ra có nhiều loài hoa mà mọi người cho là vô hại lại chứa độc tố đủ để giết người. Chúng đã tuyên thệ làm nghề sát nhân nên chúng cần đến những hiểu biết này. Chúng biết được là cây mao địa hoàng có chứa chất digitoxin, mặc dù được dùng như một loại cây thuốc chữa bệnh, nếu dùng một lượng lớn có thể gây đến tử vong. Lá và rễ cây thông đỏ có chứa chất độc, các loại nấm khác nhau mọc trong rừng cũng có thể đưa người ta về chầu ông bà ông vải. Elsa trở thành chuyên gia trong lãnh vực này, ả thử trên súc vật trước để biết tính năng từng loại độc dược.
“Thật lạ,” ả viết, “tôi rất thích Eugenie. Nó là một đứa tôi thích nhất trong đám con gái, nhưng khi tôi cần trừ khủ con bé tôi không nghĩ nó là Eugenie. Đơn giản nó chỉ là một chướng ngại vật trên con đường chúng tôi tiến đến tòa lâu đài hằng mong ước. Hans nói cậu ta cũng có cảm tưởng tương tự. Không phải nó căm thù các nạn nhân của mình. Trái lại, nó còn yêu thương họ kể cả khi nó thực hiện hành vi giết người thì nó cũng làm điều đó với một vẻ hoa mỹ. Không hề có một chút xíu thù hận nào trong thái độ của nó đối với nạn nhân, chỉ là một phần nhỏ trong kế hoạch lớn và những người con gái ấy cần phải được thanh toán ngay.”
Đó là một cuốn sách tiết lộ nhiều điều về các khía cạnh của con người, giải thích rất nhiều điều mà từ bấy đến nay chúng tôi vẫn thường thắc mắc. Tất nhiên tôi không sao hiểu nổi Elsa. Nhưng liệu có ai hoàn toàn hiểu về một người khác không?
Hai năm sau chuyến đi của tôi đến Áo, Teresa cưới John Markham. Năm ấy nó 19 tuổi. Đám cưới của nó tổ chức ở Molderbury vì cha mẹ nó vẫn ở Rhodesia. Nó tôn thờ chồng và hạnh phúc của nó tràn ra mọi nẻo. Tôi chắc đó là một cuộc hôn nhân tròn trặn bởi vì nếu như có bao giờ John có ý định hỏi cưới tôi – một điều tôi tin là đúng – và nếu như anh có thất vọng khi tôi lấy Jason, thì anh cũng chấp nhận sự thật như nó vốn có và tìm hạnh phúc ở nơi khác. Anh là một kiểu người có thể thành công dù có bất cứ điều gì xảy ra trên đường đời trong đó có cả cuộc sống tình cảm của anh. John là một người chống tốt tính, ân cần và yêu thương đối với Teresa cũng như anh sẽ là thế đối với tôi nếu anh là chồng tôi. Anh là tất cả những gì mà Teresa khao khát.
Nhưng tất cả vẫn còn ở phía trước.
Còn bây giờ cuộc hôn nhân của chúng tôi là một điều đáng mơ ước từ khi chúng tôi ngạc nhiên ngộ ra rằng Jason và tôi là những người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc khi bên nhau chứ không phải với bất cứ ai khác.
Chúng tôi cười khoan khoái trước làn sóng kích động dấy lên trong vùng. Đám cưới của chúng tôi hoàn toàn đánh bạt ấn tượng quái đản về vụ án giết người hết sức giật gân liên quan đến trường.
Các kí ức sống dậy.
“Người vợ đầu tiên của ông ta thì sao? Không biết cô giáo có biết không? Lại còn vụ bà Martindale nữa chứ. Ông ta dám làm thế lắm. Người ta chẳng bảo họ Verringer có một ông tổ là quỷ sứ sao?”
Chúng tôi cười trước những lời đồn đại. Tôi rất thích điều này, nó chứng tỏ với tôi và Jason rằng không còn gì phải nghi ngờ, tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ điều gì khi gắn bó số phận với anh. Tôi muốn anh biết điều đó và ghi nhớ suốt đời.
Lức ấy là mùa giáng sinh, hai năm sau đám cưới của chúng tôi. Bây giờ chúng tôi đã là một ông bố bà mẹ rất tự hào về con trai mình.
Jason nôn nóng muốn vợ chồng tôi lên London chơi.
“Em có thể mưa sắm. Ở đây có rất nhiều thứ mà em cần.”
Tôi không ngại. Có một cô bảo mẫu tuyệt vời cho Jason con và tôi không phải băn khoăn về chuyện để con ở nhà.
Khi chúng tôi đến ngôi nhà của gia đình ở London, chồng tôi muốn đưa tôi đến nhà hát ở đây đang có một vở diễn mà anh rất muốn xem. Điều thú vị là khi đến nhà hát chúng tôi thấy vở diễn đêm nay là vở East Lynne và khi ngước mắt lên nhìn chương trình, một dòng chữ to đập vào mắt tôi: “Marcia và Jack Martindale. Cùng tái xuất hiện trong vai diễn đầu tiên của họ.”
Màn kéo lên và chị ta đứng đấy. Phu nhân Isabel. Tôi cũng không rõ mình ngồi xem như thế nào trong suốt buổi biểu diễn, sau đó chúng tôi ra hậu trường gặp chị và Jack.
“Sống lại một cách kì diệu từ dưới đáy đại dương phải không chị?” tôi cười, hỏi.
“Ồ, anh ấy là người sống sót,” Marcia đáp với vẻ tỉnh bơ như đang trong một vai diễn.
Chúng tôi kể cho chị nghe về những phỏng đoán của dân Colby về sự ra đi của chị, một điều làm chị rất khoái. Và cả Jack, chồng chị, cũng vui lây.
“Để tôi bảo các vị tôi sẽ làm gì.” chị nói, “Giáng sinh này chúng tôi sẽ về Colby. Thế không vui à, Jack? Chúng ta sẽ cưỡi ngựa đi hết các phố phường ở đấy để cho những kẻ lắm mồm giỏi nghề đưa chuyện biết là chúng ta vẫn sống nhởn nhơ trên đời.”
Họ làm thế thật. Marcia khăng khăng muốn đưa Jack về Nhà của Quạ, rồi hai vợ chồng họ đến thăm đứa con nhỏ ở nông trại.
Chúng tôi rất hào hứng với chuyến viếng thăm của họ và tha hồ cười về những chuyện xảy ra với cặp vợ chồng này.
“Họ sẽ làm theo cách của họ suốt đời.”
“Em tự hỏi không biết giờ đây bà Baddicombe sẽ nói gì.”
“Thực tình anh lấy làm tiếc. Anh thường tự nhủ: Nàng phải yêu mình nhiều lắm mới chịu cưới mình khi có cả một tấm màn nghi ngờ vây bọc quanh mình.”
“Phải, bây giờ anh có thể tự nhủ không còn lí do để nghi ngờ nữa.”
“Không, thật thế. Tuy vậy nó không bao giờ làm cho anh hết ngạc nhiên. Này, có nhiều điều em chưa biết về chồng của em đó.”
“Em rất sung sướng. Em mong muốn được cải thiện hiểu biết của mình”
Phải đợi đến mùa xuân, chúng tôi mới làm đám cưới. Trong thời gian ấy, anh chỉ có thể đi lại với một cái gậy. Tôi ở lại Áo với anh ba tháng. Cô Patty chỉ ở lại với chúng tôi ba tuần. Cô nói cô nghĩ tôi có thể xoay xở được mà không cần có cô và cô muốn xem Violet sống ra sao. Cô đã giúp Fiona được rất nhiều. Fiona từ chối không tin là nó đã cưới một tên giết người không ghê tay. Đối với nó, hắn chỉ là một người tình lãng mạn mà nó được biết từ hồi nào đến giờ. Hắn tỏ ra rất mực đáng yêu và tình cảm thì lúc nào cũng chan chứa. Tôi nghĩ mọi chuyện mới lạ lùng làm sao và lần đầu tiên tôi cảm thấy kinh ngạc về bản chất phức tạp của con người. Tôi cho rằng khi hắn ở bên vợ, hắn là tất cả những điều mà Fiona nói về hắn – tuy vậy suốt trong thời gian âu yếm đó, hắn chờ đợi thời cơ để ra tay giết người vợ xinh đẹp mà lúc nào hắn cũng nâng niu như một báu vật. Tôi tự hỏi hắn là loại người gì mà lại sống dưới hai bộ mặt trái ngược như vậy. Tốn bao nhiêu giấy mực cho vụ án được gọi bằng cái tên “Chú rể Satăng”. Báo chí cho biết Hans Dowling là con của một người đàn bà người Đức và một người đàn ông Ănglê. Hắn đã giết hai người phụ nữ. Có một người trước Lydia. Động cơ rõ ràng là để chiếm đoạt gia tài. Cả hai người đàn bà bạc mệnh đều để lại tiền bạc cho hắn. Vụ giết người được chuẩn bị kĩ nhất là nhằm vào chị em nhà Verringer, qua đó hắn không chỉ thừa hưởng tài sản của Fiona mà còn của em nó vì sau khi Eugenie chết, tài sản của cô em sẽ được chuyển sang cho cô chị. Chính cái toan tính lấy cả tiền của em lẫn chị đã giữ cho Fiona còn có ngày nhìn thấy mặt trời. Nếu không thì nó đã tiêu đời từ lâu.
Jason là mối bận tâm chính của tôi. Cùng nhau, chúng tôi tập trung vào việc đưa anh trở lại sinh hoạt của một người bình thường. Có những giờ tập đi, trong đó tôi là cái nạng của anh, tôi ở bên anh trong suốt những ngày này và chúng tôi thường thực hành những cuộc đấu khẩu đầy hứng thú, điều đã trở thành một đặc điểm trong mối quan hệ giữa hai người.
Tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết, từ khi tôi được biết anh đang bình phục; và tôi thường kinh ngạc về nỗi có một niềm hạnh phúc lớn lao đến thế thoát thai từ một vụ án độc ác kinh người.
Daisy rất buồn vì tôi không quay lại trường, và những lời ca ngợi đến điều về ảnh hưởng của Schaffenbrucken bị bỏ ra ngoài cuốn sách quảng cáo về nhà trường, nhưng bà làm cho các bậc phụ huynh hiểu rõ rằng cô giáo trẻ đã mang hơi hướng của Schaffenbrucken đến trường nay trở thành phu nhân Verringer, vợ của nhà quý tộc lớn nhất vùng Devon. Và tôi nghĩ bà lấy điều đó làm an ủi.
Elsa bị dẫn độ sang Áo và đứng trước vành móng ngựa ở đây. Ả không trực tiếp ra tay giết người nhưng bị cáo buộc là có âm mưu giết người và tiếp tay cho kẻ sát nhân. Ả thừa nhận tất cả tội ác, một điều giúp Fiona chấp nhận sự thật. Elsa bị khép vào cái án tù giam nhiều năm.
Có biết bao nhiêu đề tài bàn tán xung quanh chuyện này ở Colby và tôi có thể hình dung những cuộc trao đổi diễn ra bên quầy tính tiền ở trạm bưu điện. Daisy viết thư cho tôi, rất hài lòng vì không có bậc phụ huynh nào muốn chuyển con gái đi trường khác. Thế là chúng tôi về nhà và làm đám cưới ở nhà thờ Colby, chuông nhà thờ ngân vang với một thông điệp vui vẻ thông báo việc tôi trở thành một thành viên của dòng họ Verringer.
Elsa trở thành một người tù nổi tiếng hơn cả một người đạo cao đức trọng. Dần dần, cô ả được hưởng một đặc quyền cho phép ả viết một cuốn sách thuật chuyện đời mình. Cuốn sách để lộ nhiều điều.
Elsa giải thích bản thân ả và gia đình sống trong cảnh nghèo túng ở Croston như thế nào. Người mẹ tiết kiệm chắt bóp từng đồng, còn người cha thì vung tiền như nước cho những trận say nghiêng ngả đất trời. Trước vụ cháy, ông ta làm việc cho ngài điền chủ Edward Compton. Sau khi nhà chủ bị cháy trụi, ông ta chỉ làm việc bữa đực bữa cái cho nhà này nhà kia và cuối cùng một trận say bí tỉ đã khiến ông ta thiệt mạng. Ở nhà, bọn trẻ nói tiếng Đức; ở trường, chúng học tiếng Anh, vì thế mà hai chị em thông thạo cả hai thứ tiếng. Elsa và người em trai tên là Hans rất gắn bó với nhau; chúng thường chơi với nhau ở khu nhà cháy, tưởng tượng rằng chúng là chủ nhân của tòa lâu đài này và sống trong nhung lụa. Hans thề độc rằng lớn lên nó sẽ tìm cách để được sở hữu một nơi như thế để nó và Elsa sẽ cùng nhau sống sung sướng suốt đời. Đó là một giấc mơ thường trực trong suốt những năm gian khổ sống trong nghèo đói. Hans nuôi lòng căm thù những người giàu có. Hắn thường ra nghĩa địa nhìn ngôi mộ của Edward Compton. “Mày bị đốt cháy cho đến chết. Đáng đời lắm. Mày đã có tất cả. Chúng tao chả có gì. Nhưng một ngày kia, tao sẽ có tất cả những gì tao muốn… Elsa và tao.” Chúng thường đi nhà thờ, đứng trước những bức tượng hoặc tấm biển đồng tưởng niệm gia đình Edward Compton… Đó là một lời thề nghiêm trang. Hắn bảo Elsa đó là một trận chiến giữa chúng – những kẻ khố rách áo ôm với những người giàu nứt đố đổ vách. Nếu người giàu phải chết để cung cấp cho chúng những cái chúng cần, thì cũng là phải lẽ thôi.
Elsa nhớ cái đêm ả cùng em trai đứng ở tòa lâu đài cháy bỏ hoang, hắn ngước nhìn mặt trăng và làm một lời thề độc. Đó là đêm trăng tròn… vầng trăng của người thợ săn. Hắn long trọng tuyên bố: “Em là một người thợ săn. Em sẽ săn tìm cái mà em định có và khi có nó thì chị thân yêu ạ, nó cũng là của chị.” Nói rồi hắn đi vào nhà thở, ở đây hắn lại nghiêm trang lặp lại lời thề về dự định của hắn. Đây là câu nói cửa miệng giữa hai chị em hắn: “Hãy nhớ cái đêm trăng tròn của người thợ săn.”
Elsa cố sức giúp em. Ả hoảng sợ sau vụ giết người đầu tien xảy ra ở Na Uy, nhưng nó trôi qua gọn nhẹ không có một khó khăn nào. Đám cưới, một vụ tai nạn trên núi, người chồng mới cưới tan nát cả trong cõi lòng ẵm trọn số tiền của vợ và dông tuốt. Nhưng vụ làm ăn thứ nhất chỉ kiếm được một số tiền nho nhỏ và hắn quyết định tìm kiếm nạn nhân ở những bậc thang cao hơn. Rồi hắn nghe cái tên Schaffenbrucken – một trong những trường danh giá nhất và đắt nhất châu Âu, tọa lạc ở Thụy Sĩ. Tất cả các quý cô ở đây đều ở tuổi cập kê. Thế là chúng vạch kế hoạch.
Thật thú vị khi đọc những miêu tả này, có một cái gì đó trong tính cách của Elsa toát lên trong các trang sách. Ả thích tiếp xúc với nhiều người, khoái những nơi vui nhộn và tiếng cười – không thể tưởng tượng được một con người như thế lại là một kẻ sát nhân mưu toan giết người không run tay.
Ả biết rõ ràng là hai chị em đã làm một sai lầm chết người. Thằng em đã sai một bước khi không tìm hiểu đầy đủ thông tin về thân thế của tôi, và trong một phút thiếu suy nghĩ đã đưa ra cái tên Edward Compton. Hắn gần như có một niềm tin huyền bí là hắn sẽ thành công trong trường hợp của tôi bởi vì chúng tôi đã gặp hắn vào đúng ngày rằm. Có vẻ như đó là một khoảng thời gian có ý nghĩa với hắn, nó làm cho hắn quá chắc thắng và… đâm ra bất cẩn. Ả cũng sai lầm khi cứ ở lại trường Colby sau khi đã khám phá ra việc tôi dạy học ở đây – tất cả như một trò chơi khăm của định mệnh.
“Đó là một trò đùa quái ác của tạo hóa,” ả viết, “khi chúng tôi lại chọn địa điểm hành động là một cái trường trong đó một nạn nhân trong dự tính của chúng tôi đang làm việc.”
Hai chị em ả thường hái những bông hoa dại mọc trong tòa lâu đài đổ nát của dòng họ Compton. Chúng học được là những loài thảo mộc này vừa có tác dụng chữa bệnh vừa có thể dùng để giết người. Chúng khám phá ra có nhiều loài hoa mà mọi người cho là vô hại lại chứa độc tố đủ để giết người. Chúng đã tuyên thệ làm nghề sát nhân nên chúng cần đến những hiểu biết này. Chúng biết được là cây mao địa hoàng có chứa chất digitoxin, mặc dù được dùng như một loại cây thuốc chữa bệnh, nếu dùng một lượng lớn có thể gây đến tử vong. Lá và rễ cây thông đỏ có chứa chất độc, các loại nấm khác nhau mọc trong rừng cũng có thể đưa người ta về chầu ông bà ông vải. Elsa trở thành chuyên gia trong lãnh vực này, ả thử trên súc vật trước để biết tính năng từng loại độc dược.
“Thật lạ,” ả viết, “tôi rất thích Eugenie. Nó là một đứa tôi thích nhất trong đám con gái, nhưng khi tôi cần trừ khủ con bé tôi không nghĩ nó là Eugenie. Đơn giản nó chỉ là một chướng ngại vật trên con đường chúng tôi tiến đến tòa lâu đài hằng mong ước. Hans nói cậu ta cũng có cảm tưởng tương tự. Không phải nó căm thù các nạn nhân của mình. Trái lại, nó còn yêu thương họ kể cả khi nó thực hiện hành vi giết người thì nó cũng làm điều đó với một vẻ hoa mỹ. Không hề có một chút xíu thù hận nào trong thái độ của nó đối với nạn nhân, chỉ là một phần nhỏ trong kế hoạch lớn và những người con gái ấy cần phải được thanh toán ngay.”
Đó là một cuốn sách tiết lộ nhiều điều về các khía cạnh của con người, giải thích rất nhiều điều mà từ bấy đến nay chúng tôi vẫn thường thắc mắc. Tất nhiên tôi không sao hiểu nổi Elsa. Nhưng liệu có ai hoàn toàn hiểu về một người khác không?
Hai năm sau chuyến đi của tôi đến Áo, Teresa cưới John Markham. Năm ấy nó tuổi. Đám cưới của nó tổ chức ở Molderbury vì cha mẹ nó vẫn ở Rhodesia. Nó tôn thờ chồng và hạnh phúc của nó tràn ra mọi nẻo. Tôi chắc đó là một cuộc hôn nhân tròn trặn bởi vì nếu như có bao giờ John có ý định hỏi cưới tôi – một điều tôi tin là đúng – và nếu như anh có thất vọng khi tôi lấy Jason, thì anh cũng chấp nhận sự thật như nó vốn có và tìm hạnh phúc ở nơi khác. Anh là một kiểu người có thể thành công dù có bất cứ điều gì xảy ra trên đường đời trong đó có cả cuộc sống tình cảm của anh. John là một người chống tốt tính, ân cần và yêu thương đối với Teresa cũng như anh sẽ là thế đối với tôi nếu anh là chồng tôi. Anh là tất cả những gì mà Teresa khao khát.
Nhưng tất cả vẫn còn ở phía trước.
Còn bây giờ cuộc hôn nhân của chúng tôi là một điều đáng mơ ước từ khi chúng tôi ngạc nhiên ngộ ra rằng Jason và tôi là những người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc khi bên nhau chứ không phải với bất cứ ai khác.
Chúng tôi cười khoan khoái trước làn sóng kích động dấy lên trong vùng. Đám cưới của chúng tôi hoàn toàn đánh bạt ấn tượng quái đản về vụ án giết người hết sức giật gân liên quan đến trường.
Các kí ức sống dậy.
“Người vợ đầu tiên của ông ta thì sao? Không biết cô giáo có biết không? Lại còn vụ bà Martindale nữa chứ. Ông ta dám làm thế lắm. Người ta chẳng bảo họ Verringer có một ông tổ là quỷ sứ sao?”
Chúng tôi cười trước những lời đồn đại. Tôi rất thích điều này, nó chứng tỏ với tôi và Jason rằng không còn gì phải nghi ngờ, tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ điều gì khi gắn bó số phận với anh. Tôi muốn anh biết điều đó và ghi nhớ suốt đời.
Lức ấy là mùa giáng sinh, hai năm sau đám cưới của chúng tôi. Bây giờ chúng tôi đã là một ông bố bà mẹ rất tự hào về con trai mình.
Jason nôn nóng muốn vợ chồng tôi lên London chơi.
“Em có thể mưa sắm. Ở đây có rất nhiều thứ mà em cần.”
Tôi không ngại. Có một cô bảo mẫu tuyệt vời cho Jason con và tôi không phải băn khoăn về chuyện để con ở nhà.
Khi chúng tôi đến ngôi nhà của gia đình ở London, chồng tôi muốn đưa tôi đến nhà hát ở đây đang có một vở diễn mà anh rất muốn xem. Điều thú vị là khi đến nhà hát chúng tôi thấy vở diễn đêm nay là vở East Lynne và khi ngước mắt lên nhìn chương trình, một dòng chữ to đập vào mắt tôi: “Marcia và Jack Martindale. Cùng tái xuất hiện trong vai diễn đầu tiên của họ.”
Màn kéo lên và chị ta đứng đấy. Phu nhân Isabel. Tôi cũng không rõ mình ngồi xem như thế nào trong suốt buổi biểu diễn, sau đó chúng tôi ra hậu trường gặp chị và Jack.
“Sống lại một cách kì diệu từ dưới đáy đại dương phải không chị?” tôi cười, hỏi.
“Ồ, anh ấy là người sống sót,” Marcia đáp với vẻ tỉnh bơ như đang trong một vai diễn.
Chúng tôi kể cho chị nghe về những phỏng đoán của dân Colby về sự ra đi của chị, một điều làm chị rất khoái. Và cả Jack, chồng chị, cũng vui lây.
“Để tôi bảo các vị tôi sẽ làm gì.” chị nói, “Giáng sinh này chúng tôi sẽ về Colby. Thế không vui à, Jack? Chúng ta sẽ cưỡi ngựa đi hết các phố phường ở đấy để cho những kẻ lắm mồm giỏi nghề đưa chuyện biết là chúng ta vẫn sống nhởn nhơ trên đời.”
Họ làm thế thật. Marcia khăng khăng muốn đưa Jack về Nhà của Quạ, rồi hai vợ chồng họ đến thăm đứa con nhỏ ở nông trại.
Chúng tôi rất hào hứng với chuyến viếng thăm của họ và tha hồ cười về những chuyện xảy ra với cặp vợ chồng này.
“Họ sẽ làm theo cách của họ suốt đời.”
“Em tự hỏi không biết giờ đây bà Baddicombe sẽ nói gì.”
“Thực tình anh lấy làm tiếc. Anh thường tự nhủ: Nàng phải yêu mình nhiều lắm mới chịu cưới mình khi có cả một tấm màn nghi ngờ vây bọc quanh mình.”
“Phải, bây giờ anh có thể tự nhủ không còn lí do để nghi ngờ nữa.”
“Không, thật thế. Tuy vậy nó không bao giờ làm cho anh hết ngạc nhiên. Này, có nhiều điều em chưa biết về chồng của em đó.”
“Em rất sung sướng. Em mong muốn được cải thiện hiểu biết của mình”