Mặt trời đầu đông vẫn tỏa nắng ấm áp, khiến người ta mơ màng buồn ngủ. Chu Phương Hoa vì mất nước trầm trọng, môi nẻ toác bật cả máu, giọt nước đầu tiên lưỡi liếm được cũng có vị mằn mặn. Không biết đã có bao lượt người thay phiên đến thẩm vấn cô ra, chỉ biết người cuối cùng là một cảnh sát ngoại quốc mặt mũi hiền lành, ánh mắt sắc bén, thân hình béo tốt, tên Erie. Gặp cô ta, câu đầu tiên người này cất lên là với tay quản giáo đứng bên cạnh: “Mau cho cô đây cốc nước, các anh đối đãi với phụ nữ thế này đúng là quá vô nhân đạo!”
Chu Phương Hoa nghe ra sự phẫn nộ thực sự trong giọng điệu của ông ta.
“Mợ Thi, tôi không đến để hỏi cô về tung tích Thi Thường Vân.” Đợi cô ta uống cạn đến giọt nước cuối cùng trong cốc, Erie mới cười hì hì nói, “Tôi chỉ tới hỏi hai câu thôi, cô cũng chỉ cần nói thật, tôi sẽ thả cô về nhà.”
Cô ta ngơ ngác ngẩng đầu lên, khóe miệng hơi động đậy, giống như đồng ý với thỏa thuận này.
“Thi Thường Vân có từng giao cho cô chiếc hòm mây nào không? Cô chỉ cần trả lời có hay không.”
“Có.”
“Câu hỏi thứ hai, trong chiếc hòm mây đó có phải có...” Erie đột nhiên ghé sát lại, thì thầm vào tai cô ta mấy tiếng, cô ta lập tức tái mét mặt nhìn chằm chằm ông ta, người cứng đờ như cương thi.
“Như vậy tức là phán đoán của tôi không sai, phải không, mợ Thi?”
Cô ta ngậm chặt miệng, như thể cực kỳ hối hận vì vừa rồi đáp “có”.
Erie chừng như rất hả hê trước vẻ hối tiếc của Chu Phương Hoa, bèn dẫn cô ta đi làm xong mọi thủ tục, còn gọi xe đưa cô ta về nhà. Dọc đường, ông ta luôn tươi cười, lịch sự nhưng trong lời nói lại có đôi phần tàn nhẫn: “Phóng thích một kẻ ác, khó hơn phóng thích một người tốt rất nhiều, thế nên chúng ta mới thường xuyên khiến Thượng đế lắc đầu thở dài. Nhất là đối với chúng ta, cuộc đời chỉ xoay quanh hai chuyện, yêu đương và ăn uống. Mợ Thi, không biết Bồ Tát mà các cô thờ phụng xử lý chuyện này ra làm sao.”
Chu Phương Hoa không hé miệng nửa lời, mặt mày lạnh tanh, nốt ruồi nhỏ bên dưới khóe mắt trái cô màu nâu nhàn nhạt, đường nét đôi môi rõ ràng, giống như bẩm sinh đã được vẽ bằng bút kẻ môi. Nếu là ở châu Âu, khuôn mặt của cô ta sẽ rất được ưa chuộng.
Thế nhưng, đúng như những gì Đỗ Xuân Hiểu nói riêng với Erie, tuy chỉ gặp Chu Phương Hoa có một lần song vẫn có ấn tượng rất sâu đậm, bởi người phụ nữ này có tướng bạc mệnh. Vậy nên sau này nghe tin Thượng Quan Giác Nhi uống thuốc độc tự vẫn, Đỗ Xuân Hiểu từng buột miệng thốt lên: “Kỳ lạ thật, người chết sao lại không phải mợ cả nhà họ Thi chứ?”
Hiện giờ mỗi lần hẹn Hạ Băng ra ngoài thảo luận tình tiết vụ án, Erie đều tiện miệng hỏi thăm ý kiến của Đỗ Xuân Hiểu. Nhưng sau khi manh mối phía Ngải Mi được moi ra, ông ta lại bắt đầu sợ người phụ nữ này, bởi cô vừa động tay vào, không những không tìm ra chân tướng cái chết của Jenny mà còn làm tăng thêm một vụ án thối nữa, chính là Tất Tiểu Thanh mất tích. Chỉ riêng điều này thôi đã khiến Erie có ý muốn rụt tay, bởi điều tra Tất Tiểu Thanh, nhất định sẽ phải động đến ông chủ Tần, động vào giới xã hội đen ở bến Thượng Hải là chuyện cực kỳ rắc rối, nhưng bỏ dở ở đây thì lại tiếc, nhiệt huyết với nghề của một thanh tra từng giờ từng phút nhắc nhở ông ta phải truy đến tận cùng mọi chuyện. Vì vậy khi được biết Hạ Băng đang âm thầm làm việc cho ông chủ Tần, ông ta không nén nổi tò mò, muốn moi lấy ít nội tình.
Đổi lại, Đỗ Xuân Hiểu cũng đưa ra yêu cầu, muốn Erie dùng quan hệ tới gặp Chu Phương Hoa, hỏi cô ta hai câu hỏi, đem câu trả lời về cho cô. Do đó lần gặp mặt này giữa Erie và Hạ Băng, Đỗ Xuân Hiểu được bao trùm trong bầu không khí nghiêm túc lạ thường, đặc biệt sau khi Đỗ Xuân Hiểu nghe kể về phản ứng của Chu Phương Hoa, cô tức thì nghiêm sắc mặt, lẩm bẩm: “Tuy là nằm trong dự liệu, nhưng e mợ cả nhà họ Thi về sau cũng lành ít dữ nhiều rồi.”
“Vậy chi bằng để cô ta lại trong đó?” Erie lập tức đánh hơi thấy mùi lạ.
“Ừm.” Đỗ Xuân Hiểu gật đầu, “Sợ rằng kết cục cũng giống nhau cả thôi, mấy ngày nay cần hết sức để ý đến cô ta, có động thái gì cũng dễ bề khống chế.”
Các thanh tra dưới trướng Erie theo dõi Chu Phương Hoa có vẻ rất nhẹ nhàng, bởi người phụ nữ này từ khi trở về, hầu như không hề bước chân ra khỏi nhà họ Thi. Vú nuôi tuy thường xuyên ra ngoài, cũng chỉ quanh quẩn giữa chợ và đám ngồi lê đôi mách, không hề có gì bất thường. Duy nhất một lần, vì Thi Phùng Đức phải lo liệu tang lễ của Thượng Quan Giác Nhi, lúc ra khỏi nhà, có đứng lại khoảng đất trống trong vườn hoa dưới ban công nơi con trai cả bị hại, Chu Phương Hoa không hiểu sao cũng theo sau bố chồng, ra đứng đó, thân hình quắt queo khiến người khác trông mà kinh hãi. Hai người đứng đó một lúc lâu, có vẻ còn nói gì đó, mới đầu là bình tĩnh trao đổi, sau đó càng nói càng kích động, đầu run lên bần bật, mỗi người một kiểu. Chu Phương Hoa kỳ quặc hơn cả, thậm chí còn giơ tay tát thẳng vào mặt bố chồng. Thi Phùng Đức bấy giờ mới im lặng, nhìn cô ta hồi lâu rồi quay người chui vào xe hơi.
Chuyện này được báo cáo lại với Erie, khiến ông ta vô cùng hứng thú.
Đỗ Xuân Hiểu đã chửi bới một chập trước mặt Tần Á Triết, cô sở dĩ đánh liều đi tìm “Diêm vương” trút giận là vì hai nguyên nhân: một, lần đó vốn dĩ chuộc người, nào ngờ suýt chút nữa thì đem mạng mình ra tế, đương nhiên cần quy trách nhiệm cho tay chân của Tần Á Triết phản ứng lề mề; hai, từ tình hình đêm hôm đó có thể thấy, Tần Á Triết không hề đếm xỉa đến tính mạng bọn họ.
Vậy nên Đỗ Xuân Hiểu cho rằng không cần phải quanh co lòng vòng với kẻ vốn đã ôm lòng hiểm ác nữa, dù gì sớm muộn cũng khó tránh cái chết, không nhân cơ hội chửi bới vài câu chẳng phải thua thiệt quá sao? Vì thế cô oang oang chửi, ra sức chửi, câu nào câu nấy hùng hổ bặm trợn.
“Ông chủ Tần không đếm xỉa đến mạng sống của bọn tôi cũng được thôi, nhưng chẳng lẽ đến bà năm ông cũng không cần nữa? Trắng trợn lừa hai bọn tôi làm quân xung kích, đặt lên thớt gỗ để người ta băm thành nhân sủi cảo, ông cũng không thèm nhíu mày. Cái mạng cỏn con này của bọn tôi, bù cho một mình bà năm vẫn còn thiếu tám mươi thỏi vàng... à không, chắc trừ đi số gạch vụn dưới đáy hòm thì chỉ đến mười mấy thỏi thôi. Lần này thì lớn chuyện rồi đấy, ông chủ Tần chắc mất mặt lắm, nếu đồn ra ngoài...”
Đang nói thao thao, miệng Đỗ Xuân Hiểu đột nhiên vểnh lên như mỏ chim, nhọn đến tức cười. Thì ra Tần Á Triết phải thẳng tay bóp chặt hai má cô mới khiến cô im miệng triệt để.
“Cô Đỗ, đã biết mạng sống của các người nằm trong tay tôi thì đừng lắm lời nữa. Tôi vẫn chưa tính sổ với cô vì không cứu được bà năm về, cô còn bày đặt so đo với tôi?” Trong lúc Tần Á Triết nói, bàn tay cơ hồ cũng muốn bóp vụn cằm Đỗ Xuân Hiểu.
Cô đau đến nỗi giàn giụa nước mắt, lại không sao mở miệng được, đành trừng mắt nhìn đối phương, đến khi ông ta chịu buông tay mới thôi.
Lúc quay về, Hạ Băng vừa nhìn thấy dấu đỏ trên quai hàm cô, bèn nổi giận: “Sao lần nào cậu đi gặp cái lão họ Tần kia cũng mang thương tích về thế? Lão ta dựa vào cái gì mà ngược đãi cậu? Lần sau để tôi đi!”
“Không cần đâu, là tôi tự chuốc lấy thôi.” Cô bưng mặt, tay còn lại vô thức lần sờ điếu thuốc trong túi, móc mãi cũng chỉ thấy bao thuốc không, bèn vò lại, ném vào cái vại đặt ở trước sân.
“Cậu chuốc lấy cái này làm gì? Chẳng thà kiếm ít tiền cho thiết thực.”
“Vì nếu không đánh lạc hướng ông ta, tôi sợ ông ta sẽ truy hỏi vì sao chúng ta thoát được vụ đó, rồi...” Cô ngừng lại mấy giây, nói giọng rầu rầu, “e là ông ta sẽ mau chóng biết chuyện Tiểu Tứ.”
Dứt lời, cả hai đều nín lặng. Cô cầm bát đồ ăn thừa trên bàn, bốc luôn miếng thịt mặn ăn vã, còn anh đưa tay chống cằm, như muốn nhìn xuyên qua lớp không khí ngập mùi thức ăn nguội ngắt, trong đầu ra sức tìm kiếm một đáp án nào đó.
Từ sau lễ an táng Thượng Quan Giác Nhi, Thi Phùng Đức cũng giống Chu Phương Hoa, không bước chân ra khỏi nhà. Nghe vú nuôi trong nhà nói thì là bệnh liệt giường, không dậy nổi. Bác sĩ tới thăm khám hai lần, đều kết luận là vướng mắc tâm lý, cần từ từ tháo gỡ. Erie thấy chuyện này càng lúc càng kỳ quặc, bèn tới thăm hỏi một chuyến, người ra tiếp là Chu Phương Hoa, cô ta vẫn để mặt mộc, trong vẻ tiều tụy lại thấp thoáng nét kiên cường.
“Sức khỏe bố chồng cô thế nào rồi?”
“Đỡ chút rồi, vẫn đang uống thuốc.” Không hiểu vì cớ gì, chóp mũi cô ta cứ đỏ ửng, dù lửa trong lò sưởi vẫn đang cháy rực, cô ta vẫn quấn chặt tấm khăn choàng Hà Lan đan tay dày dặn trên vai, đốt ngón tay cũng trắng bệch.
“Tôi muốn nói chuyện với ông ấy, có được không?”
Cô ta cắn môi một lát, quay lại nói: “Tình trạng ông ấy hiện giờ cũng không đến nỗi không thể nói chuyện, có điều rất nhanh mệt, nói ngắn thôi thì được.”
Dứt lời, cô ta đứng dậy dẫn Erie lên căn phòng rộng nhất trên tầng hai. Erie trông thấy cầu thang được trải thảm lông cừu đắt tiền, mỗi bước chân đặt xuống, nửa chiếc giày của ông ta lại bị lún vào.
“Trải tấm thảm trái mùa kiểu này, là để che đi vết máu để lại sau vụ hung án ư?” Ông ta vê râu, quay sang hỏi Chu Phương Hoa.
“Phải.” Giọng đối đáp bình tĩnh của cô ta khiến Erie có phần bất ngờ, đành gượng gạo huýt sáo miệng.
Phòng Thi Phùng Đức hoàn toàn lệch tông với phong cách Âu hóa tổng thể của dinh thự nhà họ Thi, bên trong vẫn kê giường khung gỗ căng thừng cọ kiểu cũ, hễ động đậy liền kêu cót két. Kệ đầu giường và tủ quần áo tuy đóng từ gỗ tử đàn quý giá, nhưng vì phòng quá nhỏ, nên đồ đạc đều có vẻ to quá cỡ, chen chúc như thể sắp chật cứng tới nơi. Trên kệ đầu giường là một chiếc đèn bàn có chụp bằng pha lê nhân tạo bật sáng trưng nhưng vẫn thấy u ám, rèm cửa sổ bằng nhung dày, buông rủ xuống sàn. Ở góc đối diện bày một chiếc đồng hồ kiểu tủ đứng, kêu tích tắc muốn nhức óc. Erie vừa nhìn thấy chiếc đồng hồ bèn cười bảo: “Xem ra ngài Thi có thói quen giống tôi, thích bày đồng hồ lớn kiểu này, có kêu mấy cũng không thấy ồn.”
Thi Phùng Đức vén màn lên, quả nhiên gầy gò hốc hác, tia máu giăng đầy lòng trắng mắt, mái tóc muối tiêu do lâu ngày không cắt tỉa, rối bù rủ trước trán. Trông thấy Erie, vẻ mặt ông ta ngơ ngác, nụ cười cứng đờ, phản ứng chậm chạp như phần lớn mọi người khi trông thấy người lạ, nhưng lại có vẻ đang kháng cự ánh mắt quan sát của đối phương.
“Ngài Thi, có những chuyện không nên canh cánh quá.” Sau màn tự giới thiệu, Erie thực ra đã hơi có ý buông xuôi trước Thi Phùng Đức, trước mặt ông ta giờ không phải một kẻ nói dối ra sức giấu diếm bí mật khổng lồ, mà là một người đàn ông đã quá mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần do liên tiếp chịu đựng những đòn đả kích, ông ta quả thật không nỡ lòng nào hỏi han điều gì.
“Là Thường Vân, có tin tức rồi sao?” Thi Phùng Đức đột nhiên sáng bừng mắt, phải giao phó hy vọng vào người ngoài mới thương tâm làm sao? Nhất là ở cương vị một người cha, ông ta nhận được tin tức về cốt nhục của mình từ phía cảnh sát quả thực buồn vui lẫn lộn, một mặt sợ nghe tin con trai bị bắt, một mặt lại hy vọng được biết về tung tích con trai. Erie trước nay vẫn luôn độc thân, nhưng cũng thấu hiểu chân tình giữa người với người, vì vậy ông ta lắc đầu, nháy mắt với Thi Phùng Đức, cười đáp: “Không có tin gì chính là tin tốt nhất, ngài Thi chắc hiểu rõ điều này.”
Thi Phùng Đức quả nhiên nặn ra một nụ cười, dưới ánh đèn pha lê ngũ sắc, nụ cười ấy cũng hàm chứa đủ mọi biểu cảm, thậm chí còn có cả âm trầm cùng chua xót.
Lúc xuống tầng, Chu Phương Hoa đi sau Erie buồn rầu nói: “Ngài không định hỏi gì bố chồng tôi mà chỉ muốn thăm ông ấy thôi sao?”
Erie quay đầu lại, nở nụ cười xảo quyệt: “Phụ nữ Trung Quốc thông minh hơn phụ nữ Pháp ở điểm, khả năng nhìn nhận của các cô quá mức tỉ mỉ, đây là ưu điểm, và cũng là điều đáng thương của các cô.”
Dứt lời, Erie nhìn chằm chằm vào Chu Phương Hoa.
Sao cô ta bỗng dưng rạng ngời thế nhỉ? Mọi đường nét sắc sảo trước kia giờ đều mềm mại ôn hòa, toát lên một thần thái long lanh khác thường.
Mặt trời đầu đông vẫn tỏa nắng ấm áp, khiến người ta mơ màng buồn ngủ. Chu Phương Hoa vì mất nước trầm trọng, môi nẻ toác bật cả máu, giọt nước đầu tiên lưỡi liếm được cũng có vị mằn mặn. Không biết đã có bao lượt người thay phiên đến thẩm vấn cô ra, chỉ biết người cuối cùng là một cảnh sát ngoại quốc mặt mũi hiền lành, ánh mắt sắc bén, thân hình béo tốt, tên Erie. Gặp cô ta, câu đầu tiên người này cất lên là với tay quản giáo đứng bên cạnh: “Mau cho cô đây cốc nước, các anh đối đãi với phụ nữ thế này đúng là quá vô nhân đạo!”
Chu Phương Hoa nghe ra sự phẫn nộ thực sự trong giọng điệu của ông ta.
“Mợ Thi, tôi không đến để hỏi cô về tung tích Thi Thường Vân.” Đợi cô ta uống cạn đến giọt nước cuối cùng trong cốc, Erie mới cười hì hì nói, “Tôi chỉ tới hỏi hai câu thôi, cô cũng chỉ cần nói thật, tôi sẽ thả cô về nhà.”
Cô ta ngơ ngác ngẩng đầu lên, khóe miệng hơi động đậy, giống như đồng ý với thỏa thuận này.
“Thi Thường Vân có từng giao cho cô chiếc hòm mây nào không? Cô chỉ cần trả lời có hay không.”
“Có.”
“Câu hỏi thứ hai, trong chiếc hòm mây đó có phải có...” Erie đột nhiên ghé sát lại, thì thầm vào tai cô ta mấy tiếng, cô ta lập tức tái mét mặt nhìn chằm chằm ông ta, người cứng đờ như cương thi.
“Như vậy tức là phán đoán của tôi không sai, phải không, mợ Thi?”
Cô ta ngậm chặt miệng, như thể cực kỳ hối hận vì vừa rồi đáp “có”.
Erie chừng như rất hả hê trước vẻ hối tiếc của Chu Phương Hoa, bèn dẫn cô ta đi làm xong mọi thủ tục, còn gọi xe đưa cô ta về nhà. Dọc đường, ông ta luôn tươi cười, lịch sự nhưng trong lời nói lại có đôi phần tàn nhẫn: “Phóng thích một kẻ ác, khó hơn phóng thích một người tốt rất nhiều, thế nên chúng ta mới thường xuyên khiến Thượng đế lắc đầu thở dài. Nhất là đối với chúng ta, cuộc đời chỉ xoay quanh hai chuyện, yêu đương và ăn uống. Mợ Thi, không biết Bồ Tát mà các cô thờ phụng xử lý chuyện này ra làm sao.”
Chu Phương Hoa không hé miệng nửa lời, mặt mày lạnh tanh, nốt ruồi nhỏ bên dưới khóe mắt trái cô màu nâu nhàn nhạt, đường nét đôi môi rõ ràng, giống như bẩm sinh đã được vẽ bằng bút kẻ môi. Nếu là ở châu Âu, khuôn mặt của cô ta sẽ rất được ưa chuộng.
Thế nhưng, đúng như những gì Đỗ Xuân Hiểu nói riêng với Erie, tuy chỉ gặp Chu Phương Hoa có một lần song vẫn có ấn tượng rất sâu đậm, bởi người phụ nữ này có tướng bạc mệnh. Vậy nên sau này nghe tin Thượng Quan Giác Nhi uống thuốc độc tự vẫn, Đỗ Xuân Hiểu từng buột miệng thốt lên: “Kỳ lạ thật, người chết sao lại không phải mợ cả nhà họ Thi chứ?”
Hiện giờ mỗi lần hẹn Hạ Băng ra ngoài thảo luận tình tiết vụ án, Erie đều tiện miệng hỏi thăm ý kiến của Đỗ Xuân Hiểu. Nhưng sau khi manh mối phía Ngải Mi được moi ra, ông ta lại bắt đầu sợ người phụ nữ này, bởi cô vừa động tay vào, không những không tìm ra chân tướng cái chết của Jenny mà còn làm tăng thêm một vụ án thối nữa, chính là Tất Tiểu Thanh mất tích. Chỉ riêng điều này thôi đã khiến Erie có ý muốn rụt tay, bởi điều tra Tất Tiểu Thanh, nhất định sẽ phải động đến ông chủ Tần, động vào giới xã hội đen ở bến Thượng Hải là chuyện cực kỳ rắc rối, nhưng bỏ dở ở đây thì lại tiếc, nhiệt huyết với nghề của một thanh tra từng giờ từng phút nhắc nhở ông ta phải truy đến tận cùng mọi chuyện. Vì vậy khi được biết Hạ Băng đang âm thầm làm việc cho ông chủ Tần, ông ta không nén nổi tò mò, muốn moi lấy ít nội tình.
Đổi lại, Đỗ Xuân Hiểu cũng đưa ra yêu cầu, muốn Erie dùng quan hệ tới gặp Chu Phương Hoa, hỏi cô ta hai câu hỏi, đem câu trả lời về cho cô. Do đó lần gặp mặt này giữa Erie và Hạ Băng, Đỗ Xuân Hiểu được bao trùm trong bầu không khí nghiêm túc lạ thường, đặc biệt sau khi Đỗ Xuân Hiểu nghe kể về phản ứng của Chu Phương Hoa, cô tức thì nghiêm sắc mặt, lẩm bẩm: “Tuy là nằm trong dự liệu, nhưng e mợ cả nhà họ Thi về sau cũng lành ít dữ nhiều rồi.”
“Vậy chi bằng để cô ta lại trong đó?” Erie lập tức đánh hơi thấy mùi lạ.
“Ừm.” Đỗ Xuân Hiểu gật đầu, “Sợ rằng kết cục cũng giống nhau cả thôi, mấy ngày nay cần hết sức để ý đến cô ta, có động thái gì cũng dễ bề khống chế.”
Các thanh tra dưới trướng Erie theo dõi Chu Phương Hoa có vẻ rất nhẹ nhàng, bởi người phụ nữ này từ khi trở về, hầu như không hề bước chân ra khỏi nhà họ Thi. Vú nuôi tuy thường xuyên ra ngoài, cũng chỉ quanh quẩn giữa chợ và đám ngồi lê đôi mách, không hề có gì bất thường. Duy nhất một lần, vì Thi Phùng Đức phải lo liệu tang lễ của Thượng Quan Giác Nhi, lúc ra khỏi nhà, có đứng lại khoảng đất trống trong vườn hoa dưới ban công nơi con trai cả bị hại, Chu Phương Hoa không hiểu sao cũng theo sau bố chồng, ra đứng đó, thân hình quắt queo khiến người khác trông mà kinh hãi. Hai người đứng đó một lúc lâu, có vẻ còn nói gì đó, mới đầu là bình tĩnh trao đổi, sau đó càng nói càng kích động, đầu run lên bần bật, mỗi người một kiểu. Chu Phương Hoa kỳ quặc hơn cả, thậm chí còn giơ tay tát thẳng vào mặt bố chồng. Thi Phùng Đức bấy giờ mới im lặng, nhìn cô ta hồi lâu rồi quay người chui vào xe hơi.
Chuyện này được báo cáo lại với Erie, khiến ông ta vô cùng hứng thú.
Đỗ Xuân Hiểu đã chửi bới một chập trước mặt Tần Á Triết, cô sở dĩ đánh liều đi tìm “Diêm vương” trút giận là vì hai nguyên nhân: một, lần đó vốn dĩ chuộc người, nào ngờ suýt chút nữa thì đem mạng mình ra tế, đương nhiên cần quy trách nhiệm cho tay chân của Tần Á Triết phản ứng lề mề; hai, từ tình hình đêm hôm đó có thể thấy, Tần Á Triết không hề đếm xỉa đến tính mạng bọn họ.
Vậy nên Đỗ Xuân Hiểu cho rằng không cần phải quanh co lòng vòng với kẻ vốn đã ôm lòng hiểm ác nữa, dù gì sớm muộn cũng khó tránh cái chết, không nhân cơ hội chửi bới vài câu chẳng phải thua thiệt quá sao? Vì thế cô oang oang chửi, ra sức chửi, câu nào câu nấy hùng hổ bặm trợn.
“Ông chủ Tần không đếm xỉa đến mạng sống của bọn tôi cũng được thôi, nhưng chẳng lẽ đến bà năm ông cũng không cần nữa? Trắng trợn lừa hai bọn tôi làm quân xung kích, đặt lên thớt gỗ để người ta băm thành nhân sủi cảo, ông cũng không thèm nhíu mày. Cái mạng cỏn con này của bọn tôi, bù cho một mình bà năm vẫn còn thiếu tám mươi thỏi vàng... à không, chắc trừ đi số gạch vụn dưới đáy hòm thì chỉ đến mười mấy thỏi thôi. Lần này thì lớn chuyện rồi đấy, ông chủ Tần chắc mất mặt lắm, nếu đồn ra ngoài...”
Đang nói thao thao, miệng Đỗ Xuân Hiểu đột nhiên vểnh lên như mỏ chim, nhọn đến tức cười. Thì ra Tần Á Triết phải thẳng tay bóp chặt hai má cô mới khiến cô im miệng triệt để.
“Cô Đỗ, đã biết mạng sống của các người nằm trong tay tôi thì đừng lắm lời nữa. Tôi vẫn chưa tính sổ với cô vì không cứu được bà năm về, cô còn bày đặt so đo với tôi?” Trong lúc Tần Á Triết nói, bàn tay cơ hồ cũng muốn bóp vụn cằm Đỗ Xuân Hiểu.
Cô đau đến nỗi giàn giụa nước mắt, lại không sao mở miệng được, đành trừng mắt nhìn đối phương, đến khi ông ta chịu buông tay mới thôi.
Lúc quay về, Hạ Băng vừa nhìn thấy dấu đỏ trên quai hàm cô, bèn nổi giận: “Sao lần nào cậu đi gặp cái lão họ Tần kia cũng mang thương tích về thế? Lão ta dựa vào cái gì mà ngược đãi cậu? Lần sau để tôi đi!”
“Không cần đâu, là tôi tự chuốc lấy thôi.” Cô bưng mặt, tay còn lại vô thức lần sờ điếu thuốc trong túi, móc mãi cũng chỉ thấy bao thuốc không, bèn vò lại, ném vào cái vại đặt ở trước sân.
“Cậu chuốc lấy cái này làm gì? Chẳng thà kiếm ít tiền cho thiết thực.”
“Vì nếu không đánh lạc hướng ông ta, tôi sợ ông ta sẽ truy hỏi vì sao chúng ta thoát được vụ đó, rồi...” Cô ngừng lại mấy giây, nói giọng rầu rầu, “e là ông ta sẽ mau chóng biết chuyện Tiểu Tứ.”
Dứt lời, cả hai đều nín lặng. Cô cầm bát đồ ăn thừa trên bàn, bốc luôn miếng thịt mặn ăn vã, còn anh đưa tay chống cằm, như muốn nhìn xuyên qua lớp không khí ngập mùi thức ăn nguội ngắt, trong đầu ra sức tìm kiếm một đáp án nào đó.
Từ sau lễ an táng Thượng Quan Giác Nhi, Thi Phùng Đức cũng giống Chu Phương Hoa, không bước chân ra khỏi nhà. Nghe vú nuôi trong nhà nói thì là bệnh liệt giường, không dậy nổi. Bác sĩ tới thăm khám hai lần, đều kết luận là vướng mắc tâm lý, cần từ từ tháo gỡ. Erie thấy chuyện này càng lúc càng kỳ quặc, bèn tới thăm hỏi một chuyến, người ra tiếp là Chu Phương Hoa, cô ta vẫn để mặt mộc, trong vẻ tiều tụy lại thấp thoáng nét kiên cường.
“Sức khỏe bố chồng cô thế nào rồi?”
“Đỡ chút rồi, vẫn đang uống thuốc.” Không hiểu vì cớ gì, chóp mũi cô ta cứ đỏ ửng, dù lửa trong lò sưởi vẫn đang cháy rực, cô ta vẫn quấn chặt tấm khăn choàng Hà Lan đan tay dày dặn trên vai, đốt ngón tay cũng trắng bệch.
“Tôi muốn nói chuyện với ông ấy, có được không?”
Cô ta cắn môi một lát, quay lại nói: “Tình trạng ông ấy hiện giờ cũng không đến nỗi không thể nói chuyện, có điều rất nhanh mệt, nói ngắn thôi thì được.”
Dứt lời, cô ta đứng dậy dẫn Erie lên căn phòng rộng nhất trên tầng hai. Erie trông thấy cầu thang được trải thảm lông cừu đắt tiền, mỗi bước chân đặt xuống, nửa chiếc giày của ông ta lại bị lún vào.
“Trải tấm thảm trái mùa kiểu này, là để che đi vết máu để lại sau vụ hung án ư?” Ông ta vê râu, quay sang hỏi Chu Phương Hoa.
“Phải.” Giọng đối đáp bình tĩnh của cô ta khiến Erie có phần bất ngờ, đành gượng gạo huýt sáo miệng.
Phòng Thi Phùng Đức hoàn toàn lệch tông với phong cách Âu hóa tổng thể của dinh thự nhà họ Thi, bên trong vẫn kê giường khung gỗ căng thừng cọ kiểu cũ, hễ động đậy liền kêu cót két. Kệ đầu giường và tủ quần áo tuy đóng từ gỗ tử đàn quý giá, nhưng vì phòng quá nhỏ, nên đồ đạc đều có vẻ to quá cỡ, chen chúc như thể sắp chật cứng tới nơi. Trên kệ đầu giường là một chiếc đèn bàn có chụp bằng pha lê nhân tạo bật sáng trưng nhưng vẫn thấy u ám, rèm cửa sổ bằng nhung dày, buông rủ xuống sàn. Ở góc đối diện bày một chiếc đồng hồ kiểu tủ đứng, kêu tích tắc muốn nhức óc. Erie vừa nhìn thấy chiếc đồng hồ bèn cười bảo: “Xem ra ngài Thi có thói quen giống tôi, thích bày đồng hồ lớn kiểu này, có kêu mấy cũng không thấy ồn.”
Thi Phùng Đức vén màn lên, quả nhiên gầy gò hốc hác, tia máu giăng đầy lòng trắng mắt, mái tóc muối tiêu do lâu ngày không cắt tỉa, rối bù rủ trước trán. Trông thấy Erie, vẻ mặt ông ta ngơ ngác, nụ cười cứng đờ, phản ứng chậm chạp như phần lớn mọi người khi trông thấy người lạ, nhưng lại có vẻ đang kháng cự ánh mắt quan sát của đối phương.
“Ngài Thi, có những chuyện không nên canh cánh quá.” Sau màn tự giới thiệu, Erie thực ra đã hơi có ý buông xuôi trước Thi Phùng Đức, trước mặt ông ta giờ không phải một kẻ nói dối ra sức giấu diếm bí mật khổng lồ, mà là một người đàn ông đã quá mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần do liên tiếp chịu đựng những đòn đả kích, ông ta quả thật không nỡ lòng nào hỏi han điều gì.
“Là Thường Vân, có tin tức rồi sao?” Thi Phùng Đức đột nhiên sáng bừng mắt, phải giao phó hy vọng vào người ngoài mới thương tâm làm sao? Nhất là ở cương vị một người cha, ông ta nhận được tin tức về cốt nhục của mình từ phía cảnh sát quả thực buồn vui lẫn lộn, một mặt sợ nghe tin con trai bị bắt, một mặt lại hy vọng được biết về tung tích con trai. Erie trước nay vẫn luôn độc thân, nhưng cũng thấu hiểu chân tình giữa người với người, vì vậy ông ta lắc đầu, nháy mắt với Thi Phùng Đức, cười đáp: “Không có tin gì chính là tin tốt nhất, ngài Thi chắc hiểu rõ điều này.”
Thi Phùng Đức quả nhiên nặn ra một nụ cười, dưới ánh đèn pha lê ngũ sắc, nụ cười ấy cũng hàm chứa đủ mọi biểu cảm, thậm chí còn có cả âm trầm cùng chua xót.
Lúc xuống tầng, Chu Phương Hoa đi sau Erie buồn rầu nói: “Ngài không định hỏi gì bố chồng tôi mà chỉ muốn thăm ông ấy thôi sao?”
Erie quay đầu lại, nở nụ cười xảo quyệt: “Phụ nữ Trung Quốc thông minh hơn phụ nữ Pháp ở điểm, khả năng nhìn nhận của các cô quá mức tỉ mỉ, đây là ưu điểm, và cũng là điều đáng thương của các cô.”
Dứt lời, Erie nhìn chằm chằm vào Chu Phương Hoa.
Sao cô ta bỗng dưng rạng ngời thế nhỉ? Mọi đường nét sắc sảo trước kia giờ đều mềm mại ôn hòa, toát lên một thần thái long lanh khác thường.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Mặt trời đầu đông vẫn tỏa nắng ấm áp, khiến người ta mơ màng buồn ngủ. Chu Phương Hoa vì mất nước trầm trọng, môi nẻ toác bật cả máu, giọt nước đầu tiên lưỡi liếm được cũng có vị mằn mặn. Không biết đã có bao lượt người thay phiên đến thẩm vấn cô ra, chỉ biết người cuối cùng là một cảnh sát ngoại quốc mặt mũi hiền lành, ánh mắt sắc bén, thân hình béo tốt, tên Erie. Gặp cô ta, câu đầu tiên người này cất lên là với tay quản giáo đứng bên cạnh: “Mau cho cô đây cốc nước, các anh đối đãi với phụ nữ thế này đúng là quá vô nhân đạo!”
Chu Phương Hoa nghe ra sự phẫn nộ thực sự trong giọng điệu của ông ta.
“Mợ Thi, tôi không đến để hỏi cô về tung tích Thi Thường Vân.” Đợi cô ta uống cạn đến giọt nước cuối cùng trong cốc, Erie mới cười hì hì nói, “Tôi chỉ tới hỏi hai câu thôi, cô cũng chỉ cần nói thật, tôi sẽ thả cô về nhà.”
Cô ta ngơ ngác ngẩng đầu lên, khóe miệng hơi động đậy, giống như đồng ý với thỏa thuận này.
“Thi Thường Vân có từng giao cho cô chiếc hòm mây nào không? Cô chỉ cần trả lời có hay không.”
“Có.”
“Câu hỏi thứ hai, trong chiếc hòm mây đó có phải có...” Erie đột nhiên ghé sát lại, thì thầm vào tai cô ta mấy tiếng, cô ta lập tức tái mét mặt nhìn chằm chằm ông ta, người cứng đờ như cương thi.
“Như vậy tức là phán đoán của tôi không sai, phải không, mợ Thi?”
Cô ta ngậm chặt miệng, như thể cực kỳ hối hận vì vừa rồi đáp “có”.
Erie chừng như rất hả hê trước vẻ hối tiếc của Chu Phương Hoa, bèn dẫn cô ta đi làm xong mọi thủ tục, còn gọi xe đưa cô ta về nhà. Dọc đường, ông ta luôn tươi cười, lịch sự nhưng trong lời nói lại có đôi phần tàn nhẫn: “Phóng thích một kẻ ác, khó hơn phóng thích một người tốt rất nhiều, thế nên chúng ta mới thường xuyên khiến Thượng đế lắc đầu thở dài. Nhất là đối với chúng ta, cuộc đời chỉ xoay quanh hai chuyện, yêu đương và ăn uống. Mợ Thi, không biết Bồ Tát mà các cô thờ phụng xử lý chuyện này ra làm sao.”
Chu Phương Hoa không hé miệng nửa lời, mặt mày lạnh tanh, nốt ruồi nhỏ bên dưới khóe mắt trái cô màu nâu nhàn nhạt, đường nét đôi môi rõ ràng, giống như bẩm sinh đã được vẽ bằng bút kẻ môi. Nếu là ở châu Âu, khuôn mặt của cô ta sẽ rất được ưa chuộng.
Thế nhưng, đúng như những gì Đỗ Xuân Hiểu nói riêng với Erie, tuy chỉ gặp Chu Phương Hoa có một lần song vẫn có ấn tượng rất sâu đậm, bởi người phụ nữ này có tướng bạc mệnh. Vậy nên sau này nghe tin Thượng Quan Giác Nhi uống thuốc độc tự vẫn, Đỗ Xuân Hiểu từng buột miệng thốt lên: “Kỳ lạ thật, người chết sao lại không phải mợ cả nhà họ Thi chứ?”
Hiện giờ mỗi lần hẹn Hạ Băng ra ngoài thảo luận tình tiết vụ án, Erie đều tiện miệng hỏi thăm ý kiến của Đỗ Xuân Hiểu. Nhưng sau khi manh mối phía Ngải Mi được moi ra, ông ta lại bắt đầu sợ người phụ nữ này, bởi cô vừa động tay vào, không những không tìm ra chân tướng cái chết của Jenny mà còn làm tăng thêm một vụ án thối nữa, chính là Tất Tiểu Thanh mất tích. Chỉ riêng điều này thôi đã khiến Erie có ý muốn rụt tay, bởi điều tra Tất Tiểu Thanh, nhất định sẽ phải động đến ông chủ Tần, động vào giới xã hội đen ở bến Thượng Hải là chuyện cực kỳ rắc rối, nhưng bỏ dở ở đây thì lại tiếc, nhiệt huyết với nghề của một thanh tra từng giờ từng phút nhắc nhở ông ta phải truy đến tận cùng mọi chuyện. Vì vậy khi được biết Hạ Băng đang âm thầm làm việc cho ông chủ Tần, ông ta không nén nổi tò mò, muốn moi lấy ít nội tình.
Đổi lại, Đỗ Xuân Hiểu cũng đưa ra yêu cầu, muốn Erie dùng quan hệ tới gặp Chu Phương Hoa, hỏi cô ta hai câu hỏi, đem câu trả lời về cho cô. Do đó lần gặp mặt này giữa Erie và Hạ Băng, Đỗ Xuân Hiểu được bao trùm trong bầu không khí nghiêm túc lạ thường, đặc biệt sau khi Đỗ Xuân Hiểu nghe kể về phản ứng của Chu Phương Hoa, cô tức thì nghiêm sắc mặt, lẩm bẩm: “Tuy là nằm trong dự liệu, nhưng e mợ cả nhà họ Thi về sau cũng lành ít dữ nhiều rồi.”
“Vậy chi bằng để cô ta lại trong đó?” Erie lập tức đánh hơi thấy mùi lạ.
“Ừm.” Đỗ Xuân Hiểu gật đầu, “Sợ rằng kết cục cũng giống nhau cả thôi, mấy ngày nay cần hết sức để ý đến cô ta, có động thái gì cũng dễ bề khống chế.”
Các thanh tra dưới trướng Erie theo dõi Chu Phương Hoa có vẻ rất nhẹ nhàng, bởi người phụ nữ này từ khi trở về, hầu như không hề bước chân ra khỏi nhà họ Thi. Vú nuôi tuy thường xuyên ra ngoài, cũng chỉ quanh quẩn giữa chợ và đám ngồi lê đôi mách, không hề có gì bất thường. Duy nhất một lần, vì Thi Phùng Đức phải lo liệu tang lễ của Thượng Quan Giác Nhi, lúc ra khỏi nhà, có đứng lại khoảng đất trống trong vườn hoa dưới ban công nơi con trai cả bị hại, Chu Phương Hoa không hiểu sao cũng theo sau bố chồng, ra đứng đó, thân hình quắt queo khiến người khác trông mà kinh hãi. Hai người đứng đó một lúc lâu, có vẻ còn nói gì đó, mới đầu là bình tĩnh trao đổi, sau đó càng nói càng kích động, đầu run lên bần bật, mỗi người một kiểu. Chu Phương Hoa kỳ quặc hơn cả, thậm chí còn giơ tay tát thẳng vào mặt bố chồng. Thi Phùng Đức bấy giờ mới im lặng, nhìn cô ta hồi lâu rồi quay người chui vào xe hơi.
Chuyện này được báo cáo lại với Erie, khiến ông ta vô cùng hứng thú.
Đỗ Xuân Hiểu đã chửi bới một chập trước mặt Tần Á Triết, cô sở dĩ đánh liều đi tìm “Diêm vương” trút giận là vì hai nguyên nhân: một, lần đó vốn dĩ chuộc người, nào ngờ suýt chút nữa thì đem mạng mình ra tế, đương nhiên cần quy trách nhiệm cho tay chân của Tần Á Triết phản ứng lề mề; hai, từ tình hình đêm hôm đó có thể thấy, Tần Á Triết không hề đếm xỉa đến tính mạng bọn họ.
Vậy nên Đỗ Xuân Hiểu cho rằng không cần phải quanh co lòng vòng với kẻ vốn đã ôm lòng hiểm ác nữa, dù gì sớm muộn cũng khó tránh cái chết, không nhân cơ hội chửi bới vài câu chẳng phải thua thiệt quá sao? Vì thế cô oang oang chửi, ra sức chửi, câu nào câu nấy hùng hổ bặm trợn.
“Ông chủ Tần không đếm xỉa đến mạng sống của bọn tôi cũng được thôi, nhưng chẳng lẽ đến bà năm ông cũng không cần nữa? Trắng trợn lừa hai bọn tôi làm quân xung kích, đặt lên thớt gỗ để người ta băm thành nhân sủi cảo, ông cũng không thèm nhíu mày. Cái mạng cỏn con này của bọn tôi, bù cho một mình bà năm vẫn còn thiếu tám mươi thỏi vàng... à không, chắc trừ đi số gạch vụn dưới đáy hòm thì chỉ đến mười mấy thỏi thôi. Lần này thì lớn chuyện rồi đấy, ông chủ Tần chắc mất mặt lắm, nếu đồn ra ngoài...”
Đang nói thao thao, miệng Đỗ Xuân Hiểu đột nhiên vểnh lên như mỏ chim, nhọn đến tức cười. Thì ra Tần Á Triết phải thẳng tay bóp chặt hai má cô mới khiến cô im miệng triệt để.
“Cô Đỗ, đã biết mạng sống của các người nằm trong tay tôi thì đừng lắm lời nữa. Tôi vẫn chưa tính sổ với cô vì không cứu được bà năm về, cô còn bày đặt so đo với tôi?” Trong lúc Tần Á Triết nói, bàn tay cơ hồ cũng muốn bóp vụn cằm Đỗ Xuân Hiểu.
Cô đau đến nỗi giàn giụa nước mắt, lại không sao mở miệng được, đành trừng mắt nhìn đối phương, đến khi ông ta chịu buông tay mới thôi.
Lúc quay về, Hạ Băng vừa nhìn thấy dấu đỏ trên quai hàm cô, bèn nổi giận: “Sao lần nào cậu đi gặp cái lão họ Tần kia cũng mang thương tích về thế? Lão ta dựa vào cái gì mà ngược đãi cậu? Lần sau để tôi đi!”
“Không cần đâu, là tôi tự chuốc lấy thôi.” Cô bưng mặt, tay còn lại vô thức lần sờ điếu thuốc trong túi, móc mãi cũng chỉ thấy bao thuốc không, bèn vò lại, ném vào cái vại đặt ở trước sân.
“Cậu chuốc lấy cái này làm gì? Chẳng thà kiếm ít tiền cho thiết thực.”
“Vì nếu không đánh lạc hướng ông ta, tôi sợ ông ta sẽ truy hỏi vì sao chúng ta thoát được vụ đó, rồi...” Cô ngừng lại mấy giây, nói giọng rầu rầu, “e là ông ta sẽ mau chóng biết chuyện Tiểu Tứ.”
Dứt lời, cả hai đều nín lặng. Cô cầm bát đồ ăn thừa trên bàn, bốc luôn miếng thịt mặn ăn vã, còn anh đưa tay chống cằm, như muốn nhìn xuyên qua lớp không khí ngập mùi thức ăn nguội ngắt, trong đầu ra sức tìm kiếm một đáp án nào đó.
Từ sau lễ an táng Thượng Quan Giác Nhi, Thi Phùng Đức cũng giống Chu Phương Hoa, không bước chân ra khỏi nhà. Nghe vú nuôi trong nhà nói thì là bệnh liệt giường, không dậy nổi. Bác sĩ tới thăm khám hai lần, đều kết luận là vướng mắc tâm lý, cần từ từ tháo gỡ. Erie thấy chuyện này càng lúc càng kỳ quặc, bèn tới thăm hỏi một chuyến, người ra tiếp là Chu Phương Hoa, cô ta vẫn để mặt mộc, trong vẻ tiều tụy lại thấp thoáng nét kiên cường.
“Sức khỏe bố chồng cô thế nào rồi?”
“Đỡ chút rồi, vẫn đang uống thuốc.” Không hiểu vì cớ gì, chóp mũi cô ta cứ đỏ ửng, dù lửa trong lò sưởi vẫn đang cháy rực, cô ta vẫn quấn chặt tấm khăn choàng Hà Lan đan tay dày dặn trên vai, đốt ngón tay cũng trắng bệch.
“Tôi muốn nói chuyện với ông ấy, có được không?”
Cô ta cắn môi một lát, quay lại nói: “Tình trạng ông ấy hiện giờ cũng không đến nỗi không thể nói chuyện, có điều rất nhanh mệt, nói ngắn thôi thì được.”
Dứt lời, cô ta đứng dậy dẫn Erie lên căn phòng rộng nhất trên tầng hai. Erie trông thấy cầu thang được trải thảm lông cừu đắt tiền, mỗi bước chân đặt xuống, nửa chiếc giày của ông ta lại bị lún vào.
“Trải tấm thảm trái mùa kiểu này, là để che đi vết máu để lại sau vụ hung án ư?” Ông ta vê râu, quay sang hỏi Chu Phương Hoa.
“Phải.” Giọng đối đáp bình tĩnh của cô ta khiến Erie có phần bất ngờ, đành gượng gạo huýt sáo miệng.
Phòng Thi Phùng Đức hoàn toàn lệch tông với phong cách Âu hóa tổng thể của dinh thự nhà họ Thi, bên trong vẫn kê giường khung gỗ căng thừng cọ kiểu cũ, hễ động đậy liền kêu cót két. Kệ đầu giường và tủ quần áo tuy đóng từ gỗ tử đàn quý giá, nhưng vì phòng quá nhỏ, nên đồ đạc đều có vẻ to quá cỡ, chen chúc như thể sắp chật cứng tới nơi. Trên kệ đầu giường là một chiếc đèn bàn có chụp bằng pha lê nhân tạo bật sáng trưng nhưng vẫn thấy u ám, rèm cửa sổ bằng nhung dày, buông rủ xuống sàn. Ở góc đối diện bày một chiếc đồng hồ kiểu tủ đứng, kêu tích tắc muốn nhức óc. Erie vừa nhìn thấy chiếc đồng hồ bèn cười bảo: “Xem ra ngài Thi có thói quen giống tôi, thích bày đồng hồ lớn kiểu này, có kêu mấy cũng không thấy ồn.”
Thi Phùng Đức vén màn lên, quả nhiên gầy gò hốc hác, tia máu giăng đầy lòng trắng mắt, mái tóc muối tiêu do lâu ngày không cắt tỉa, rối bù rủ trước trán. Trông thấy Erie, vẻ mặt ông ta ngơ ngác, nụ cười cứng đờ, phản ứng chậm chạp như phần lớn mọi người khi trông thấy người lạ, nhưng lại có vẻ đang kháng cự ánh mắt quan sát của đối phương.
“Ngài Thi, có những chuyện không nên canh cánh quá.” Sau màn tự giới thiệu, Erie thực ra đã hơi có ý buông xuôi trước Thi Phùng Đức, trước mặt ông ta giờ không phải một kẻ nói dối ra sức giấu diếm bí mật khổng lồ, mà là một người đàn ông đã quá mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần do liên tiếp chịu đựng những đòn đả kích, ông ta quả thật không nỡ lòng nào hỏi han điều gì.
“Là Thường Vân, có tin tức rồi sao?” Thi Phùng Đức đột nhiên sáng bừng mắt, phải giao phó hy vọng vào người ngoài mới thương tâm làm sao? Nhất là ở cương vị một người cha, ông ta nhận được tin tức về cốt nhục của mình từ phía cảnh sát quả thực buồn vui lẫn lộn, một mặt sợ nghe tin con trai bị bắt, một mặt lại hy vọng được biết về tung tích con trai. Erie trước nay vẫn luôn độc thân, nhưng cũng thấu hiểu chân tình giữa người với người, vì vậy ông ta lắc đầu, nháy mắt với Thi Phùng Đức, cười đáp: “Không có tin gì chính là tin tốt nhất, ngài Thi chắc hiểu rõ điều này.”
Thi Phùng Đức quả nhiên nặn ra một nụ cười, dưới ánh đèn pha lê ngũ sắc, nụ cười ấy cũng hàm chứa đủ mọi biểu cảm, thậm chí còn có cả âm trầm cùng chua xót.
Lúc xuống tầng, Chu Phương Hoa đi sau Erie buồn rầu nói: “Ngài không định hỏi gì bố chồng tôi mà chỉ muốn thăm ông ấy thôi sao?”
Erie quay đầu lại, nở nụ cười xảo quyệt: “Phụ nữ Trung Quốc thông minh hơn phụ nữ Pháp ở điểm, khả năng nhìn nhận của các cô quá mức tỉ mỉ, đây là ưu điểm, và cũng là điều đáng thương của các cô.”
Dứt lời, Erie nhìn chằm chằm vào Chu Phương Hoa.
Sao cô ta bỗng dưng rạng ngời thế nhỉ? Mọi đường nét sắc sảo trước kia giờ đều mềm mại ôn hòa, toát lên một thần thái long lanh khác thường.