Mây đen che kín mặt trời, cơn cuồng phong nổi lên cuốn theo trận tuyết lớn đổ xuống, Thang Viễn xuống xe bus, có một cô lớn tuổi tốt bụng cùng trên xe gọi cậu vào căn nhà phía đối diện tránh gió tuyết nhưng cậu từ chối, siết chặt lại chiếc áo phao trên người, xác nhận hai xiên kẹo hồ lô và bánh ngọt trên người vẫn chưa rơi mất, rồi đội mũ trùm kín đầu đi ra ngoài trời gió tuyết.
"Ái dà! Người lớn nhà nào mà ác thế, bắt thằng bé một mình đi ra ngoài...". Tiếng làu bàu của bà cô bị gió tuyết thổi bạt đi, dần dần chỉ còn nghe thấy loáng thoáng. Thang Viễn lau tuyết bám trên mặt, lập tức gương mặt nhỏ bé đỏ ửng lên như trái táo vì lạnh.
Mỗi lần lên phố đi chợ cậu đều than thở vì sao mình lại ở một nơi hẻo lánh thế này, nhưng Thang Viễn chỉ dám giận mà không dám nói, chính cậu là người muốn ra ngoài, chẳng như vị tổ tông thần tiên thoát tục trong nhà cậu kia, mà dù sao cậu cũng không dám cho vị tổ tông đó ra ngoài!
Lại đội trời tuyết men theo đường núi đi một hồi lâu, Thang Viễn chỉ là một cậu bé mười tuổi, nhưng dù một mình đi đường núi cậu cũng không hề sợ hãi, thậm chí còn rất thông thuộc địa hình nơi đây. Cho dù tuyết lớn chắn tầm nhìn, cậu vẫn dễ dàng tránh được những ổ voi giữa đường hoặc những tảng đá sắc nhọn. Cậu đi sâu vào trong khu rừng thêm mười mấy phút nữa, sau khi đi vòng qua khu rừng rậm, Thang Viễn đã nhìn thấy một góc mái của căn nhà nhỏ quen thuộc dưới tán cây hòe đã lộ ra.
Căn nhà nhỏ này nhìn rất bình thường, giống như căn nhà tường trắng mái đỏ mà nông dân bình thường hay dựng trong núi. Chỉ có điều vì đã lâu năm, nên ngói trên mái nhà đã bay màu, tường trắng cũng đã xỉn lại, nhìn có vẻ như lâu lắm không có người đến ở.
Sau khi nhìn thấy căn nhà nhỏ, Thang Viễn không giảm tốc độ, mà còn chạy nhanh hơn, khi sắp sửa đâm sầm vào hàng rào bên ngoài căn nhà, cậu mới đưa tay ra chống lên hàng rào, cơ thể loắt choắt nhanh nhẹn nhảy phắt qua rào, hai chân đáp đất nhẹ nhàng.
Sau đó lại một tiếng "bộp" vang lên, cậu cúi đầu nhìn, lập tức nhăn nhó lại, cậu vội vàng nhặt cây kẹo hồ lô lên, ban nãy cậu nhảy mạnh quá nên rơi xuống đất. May mà lúc mua cậu đã bảo người bán hàng gói một lớp giấy bản bên ngoài, nên cái kẹo mới không dính bẩn.
Thang Viễn rũ sạch tuyết bám trên đầu, trên người, rồi mới đẩy cửa đi vào. Trời tuyết mờ mịt bị nhốt bên ngoài sau cánh cửa gỗ, khiến cậu lập tức cảm thấy ấm áp. Cậu vừa đi vào trong nhà, vừa cởi áo, nào áo phao, áo khoác, găng tay, áo giữ nhiệt... Khi cậu ra đến sân sau nhà, thì trên người chỉ còn mỗi cái may ô với quần cộc.
Thang Viễn cầm hai xiên kẹo hồ lô và túi bánh ngọt, ngắm nhìn cảnh sắc mà dù cậu nhìn bao nhiêu lần vẫn phải cảm thán, rồi lật đật trở lại trong nhà. Hiện giờ đang giữa mùa đông, mà phía sân sau ấm áp như mùa xuân, giống như trên trời cổ một tấm kính vô hình chụp xuống, ngăn cách hoàn toàn với cái giá lạnh ngoài kia. Trong vườn hoa cỏ mọc xanh mướt, trăm hoa đua nở, thật không khác gì cảnh sắc mùa hè.
Cái hậu hoa viên này với căn nhà ngói kia chẳng hợp nhau tí nào, nó giống như bỗng nhiên đi từ hoang mạc phía bắc đến vườn cảnh Tô Châu, những hòn giả sơn, cây cầu nhỏ bắc qua lạch nước, những mái lương đình, những gác mái, tuy đều nhỏ nhắn, nhưng không thiếu thứ gì, có thể thấy chủ nhân rất dụng công xây dựng. Thậm chí bên dưới lương đình, còn có một khe nước suối, đang bốc hơi nước nghi ngút, nhìn như tiên cảnh.
"Bánh Trôi, con về rồi à?" Khi Thang Viễn đang nhìn ngắm một chú ong mật hút mật ở nhụy hoa mẫu đơn, thì một giọng nói nhẹ nhàng cất lên khiến cậu giật mình.
"Tôi không phải là bánh trôi! Là Thang Viễn! Thang Viễn! Mau gọi tôi là Thang Viễn! Nếu không tôi sẽ không đưa ông kẹo hồ lô đâu!" Thang Viễn nhảy lên, đi qua cây cầu nhỏ bắc trên lạch nước, trèo lên hòn giả sơn, nhìn thấy trong lương đình có một chàng trai trẻ tuổi đang ngồi quay lưng lại với cậu, đang đánh cờ vây. Người đó mặc chiếc áo đạo sĩ bằng the màu xanh đậm của thời cổ, cổ giao lĩnh, ống tay lớn, bốn phía có hoa văn cuốn màu xanh, nhìn kỹ thì trên áo còn thêu tám quẻ Chu Dịch, sắp xếp theo một cách rất kỳ bí.
Người này có mái tóc đen dài, đến gần nhìn thì còn thấy mái tóc ấy hơi có ánh màu xanh. Phần lớn mái tóc chỉ được búi tạm một cách lỏng lẻo, dùng ba chiếc trâm ngà cài đại lên, rủ xuống trước ngực, mượt mà như một súc lụa thượng hạng. Nghe tiếng bước chân mỗi lúc một gần của Thang Viễn, anh ta cũng quay đầu lại.
Chàng trai trẻ nhìn rất tuấn tú, da trắng, lông mày dài, thanh tú như một bức tranh thủy mặc trang nhã, chỉ có điều ở giữa đôi lông mày lại có một cái sẹo đỏ thẫm khá ghê rợn, phá hỏng hết cả gương mặt, người khác nhìn vào phải xuýt xoa tiếc nuối, mà anh ta luôn nhắm mắt, rõ ràng mắt có tật, đã bị mù.
"Bánh Trôi, cái kẹo hồ lô trên tay con sắp chảy hết rồi". Anh ta tiếc nuối than thở.
"Ái dà!" Thang Viễn lập tức tỉnh lại, sức nóng ở hậu hoa viên chẳng khác gì mùa hè, chiếc kẹo hồ lô đã đóng băng, nhưng đường bên ngoài vẫn nhanh chóng bị chảy, lớp giấy bản bên ngoài bị đường chảy dính lại.
Vị đạo sĩ trẻ tuổi khẽ mỉm cười, như là nhìn thấy được thật, lấy một xiên kẹo hồ lô trên tay Thang Viễn ra một cách chính xác, thò ra ngoài lương đình.
Vị trí của lương đình là ở rìa ngoài cùng của khoảng sân, bên ngoài vẫn là những bông tuyết lớn đang bay tán loạn, chiếc kẹo hồ lô theo tay người cầm, như vừa chọc thủng lớp che chắn vô hình, lập tức phơi ra ngoài trời đang hơn âm hai mươi độ C.
Thang Viễn vừa nhìn theo đã lập tức mở to mắt, cậu lật đật chạy tới phía bên kia chiếc bàn đá ngồi xuống, bỏ bánh trái trong tay xuống bàn, rồi cũng học theo vị đạo sĩ trẻ tuổi, lấy chiếc kẹo hồ lô của cậu phơi ra phía ngoài lương đình, sau khi đếm từ một đến mười, mới lấy vào, bóc lớp giấy bản bên ngoài ra, quả nhiên chiếc kẹo hồ lô đã đông cứng trở lại.
"Chiêu này hay thật! Ông quả là một tên tham ăn có trình độ!" Thang Viễn cắn quả táo gai trên cùng, vì quả táo gai đã bị đông cứng lại, mồm cậu không nhai được, nên đành liếm lớp đường bên ngoài. "Này! Ông kể chuyện đi, ngồi không chán quá! Ở chỗ thâm sơn cùng cốc này chẳng bắt được tín hiệu tivi, trời thì đổ tuyết lớn quá!"
Vị đạo sĩ trẻ tuổi rất thoải mái với Thang Viễn, không thèm để ý đến cách ăn nói theo kiểu cá mè một lứa của cậu, còn tốt bụng sửa cho cậu: "Bánh Trôi, con nên gọi ta là sư phụ".
Thang Viễn khịt khịt mũi liên tục: "Không! Khi nào ông không gọi tôi là Bánh Trôi nữa, tôi sẽ gọi ông là sư phụ!"
Vị đạo sĩ trẻ tuổi cười nhẹ nhàng: "Khi ta tìm được con, trông con tròn trắng rất đáng yêu, không phải là giống bánh trôi sao?"
"Nhưng bây giờ tôi lớn rồi!" Thang Viễn bực tức gặm cái kẹo hồ lô trong mồm, cậu cằn nhằn.
"Này... chẳng phải con muốn nghe kể chuyện sao? Vậy thì ta kể cho con nghe chuyện ngày xưa ta nhận đệ tử...". Đạo sĩ trẻ tuổi lấy chiếc kẹo hồ lô về, bóc lớp giấy bản bên ngoài, mọi động tác đều rất nho nhã, "Ngày xưa, ờ... từ rất rất lâu rồi, đại đệ tử mà ta thu nhận, là người nước Triệu".
"Người nước Triệu? Bây giờ chỉ có người Trung Quốc thôi chứ!"
"Ấy... đã bảo là từ rất lâu rồi mà. Khi đó vẫn còn nước Triệu".
"Nước Triệu? Ông nghĩ tôi không đi học nên không biết gì à? Những sách trong thư phòng của ông, quyển nào tôi đọc được là đọc hết rồi nhé! Chỉ có Chiến Quốc thất hùng mới có Triệu thôi! Đó là bao nhiêu năm trước rồi hả?"
"À, thực ra sau khi Tần bị diệt, dòng dõi nước Triệu cũng vẫn tự xưng vương, nhưng rồi bị Hàn Tín tiêu diệt... Ồ, lại lạc đề rồi, không phải con muốn nghe kể chuyện sao? Cứ so đo như thế thì sao ta kể tiếp được?"
"Được được rồi, ông tiếp tục đi, đại sư huynh của tôi là người nước Triệu, rồi sao nữa?" Thang Viễn hừ một tiếng, miễn cưỡng đồng ý để nghe tiếp. Lúc này cậu lại phát hiện ra đường trên kẹo hồ lô bắt đầu chảy tiếp, cậu lại thò chiếc kẹo hồ lô ra ngoài lương đình. Kẹo hồ lô nhanh chóng bị tuyết phủ lên, quả táo gai cùng với bông tuyết lung linh dường như trở thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo.
Hờ! Đây mới là cách ăn kẹo hồ lô đúng đắn nhất! Cách ăn kẹo ngày xưa của cậu quả là không ăn thua!
Dáng điệu ăn kẹo hồ lô của đạo sĩ trẻ tuổi cũng rất nho nhã, lấy móng tay vạch hai nhát trên xiên kẹo hồ lô đã đông cứng, quả táo gai trên cùng ngoan ngoãn cắt thành bốn miếng, bay lên không trung. Anh bắt dính ngay một miếng bỏ vào miệng, vừa từ tốn ăn kẹo, vừa chậm rãi kể: "Năm xưa sư phụ con đi qua nước Triệu, đại sư huynh của con mới chỉ là một đứa trẻ, nó mời ta ăn một chiếc kẹo hoa quế, ta cho rằng đứa bé này rất có tiền đồ, liền thu nhận làm đại đệ tử".
Thang Viễn cảm thấy cạn lời, có thế mà cũng nhận được đệ tử? Một viên kẹo hoa quế mà đã lừa được một sư phụ "oách" thế này à? Đại sư huynh của cậu thật là may mắn! Không, phải nói thật là gian trá mới đúng! Thang Viễn cắn một miếng kẹo hồ lô, thúc giục: "Sau đó thì sao?"
"Sau đó? Sau đó ta phát hiện ra hắn lòng dạ bất chính, nên không dạy hắn nữa, ta rời khỏi nước Triệu, vân du đến Tần".
"Ơ này này, đúng là thờỉ đại Chiến Quốc à? Sau đó thì sao?" Tiếp tục bịa đi! Thang Viễn nghĩ bụng như vậy, nhưng không so đo làm gì. Chỉ là truyện kể thôi mà!
"Sau đó? Ta đến nước Tần, nhặt được một đứa bé đáng thương, liền thu nhận làm nhị đệ tử".
"Ồ, sau đó nữa?"
"Không còn sau đó nữa!" Đạo sĩ trẻ tuổi tỏ ra vô tội: "Không phải ta nói là ta kể chuyện thu nhận đệ tử ngày xưa ư? À, thực ra sau này ta còn nhận rất nhiều đệ tử, nhưng ta thấy Bánh Trôi con có vẻ không muốn nghe chi tiết cho lắm".
Thang Viễn ôm mặt thất vọng, cảm thấy đòi tay này kể chuyện đúng là một lựa chọn sai lầm. Ai cần biết đại sư huynh, nhị sư huynh là người nước nào?
Đạo sĩ thấy Thang Viễn cuối cùng đã thôi không hỏi, mới giãn đôi mày ra tỏ vẻ hài lòng, rồi bắt đầu thưởng thức chiếc kẹo hồ lô.
Thang Viễn thì không thích thú lắm với thứ chua chua ngọt ngọt này, ăn được hai quả thì thôi không ăn nữa, nhìn đạo sĩ trẻ tuổi đánh chén ngon lành, trong lòng cậu cảm thấy chán ngán. Cho nên đến khi đạo sĩ trẻ tuổi ăn đến miếng táo cuối cùng và mặt biến sắc, Thang Viễn lập tức cười trên đau khổ của người khác: "Sao nào? Ăn phải sâu rồi hả?"
Đạo sĩ trẻ tuổi chầm chậm nhè quả táo gai trong miệng ra, nhắm mắt lại, hơi run run, lẩm bẩm nói: "Nổi gió rồi..."
Nổi gió? Trong kết giới này làm gì có gió? Thang Viễn nghi hoặc nhìn ra ngoài lương đình, sợ hãi khi nhận ra gió tuyết bên ngoài đã mạnh thêm mấy phần, cánh rừng đối diện cũng không còn nhìn thấy gì nữa...
2
Bác sĩ thò đầu ra khỏi túi áo khoác của chủ tiệm, cơn cuồng phong trên đỉnh Dịch Sơn thổi mạnh khiến đôi tai thỏ lắc lư tứ tung, anh không dám bò ra ngoài nhiều, nếu không rất dễ bị gió thổi bay cả người.
Chủ tiệm không nói lời nào, đi men theo đường Dương Xa cũ, hay người dân ở đây vẫn gọi là Ngự Lộ, chậm rãi tiến bước, bác sĩ thì càng lúc càng sốt ruột. Một tháng nay, anh không ngừng khuyên chủ tiệm, để gã bỏ ý định lấy áo Xích Long làm đồ cổ đế vương cuối cùng để trấn yểm Càn Khôn đại trận, nhưng trong hơn ba chục ngày nay, chủ tiệm không tìm nổi một món đồ cổ đế vương nào để thay thế.
(Sau khi thống nhất sáu nước, Tần Thủy Hoàng đi xe dê kéo lên Dịch Sơn, sai Lý Tư soạn văn khắc bia đá, nên con đường đó gọi là Dương Xa (xe dê kéo).)
Áo Xích Long là do Tống Huy Tông Triệu Cật tự tay vẽ, là chiếc áo thần kỳ có thể giúp người mặc bảo vệ cơ thể không bị thối rữa, chỉ cần chủ tiệm cởi bỏ áo Xích Long thì sẽ nhanh chóng thối rữa mà chết...
"Khốn kiếp, vẫn còn chưa đòi được cơ thể lại cho tôi cơ mà! Sao có thể cho anh chết dễ dàng thế được?" Bác sĩ lẩm bẩm.
"Yên tâm, tôi sẽ nghĩ cách khiến ngài ấy trả lại cơ thể cho cậu". Chủ tiệm cười hiền lành.
Nhưng vấn đề quan trọng không phải là thế! Bác sĩ cáu, nhưng rồi anh nhận ra, chủ tiệm đã đi vào trong một hang núi, nếu không bên ngoài gió rít từng cơn, chủ tiệm cũng chẳng thể nghe thấy anh làu bàu. Bác sĩ lắc lắc đôi tai thỏ dính đầy bụi bặm, nhìn quanh thấy hang núi có nhiều khe đá, rất hẹp và dài, anh nói: "Ta đi vào đâu rồi?"
"Đây là hang Tổ Long, vì Tần Thủy Hoàng khi lên Dịch Sơn có vào hang này mà có tên như vậy". Chủ tiệm ôn tồn nói, cúi đầu bước đi chậm chạp trong hang.
Bác sĩ cảm thấy nặng nề, anh biết chủ tiệm định đi đâu, mấy hôm nay anh đã thử tìm trên mạng. Chủ tiệm đã tìm mười một nơi chôn đồ cổ đế vương trước đó, nơi còn thiếu chính là đỉnh núi Dịch Sơn, nơi Tần Thủy Hoàng lập tấm kiệt thạch đầu tiên.
Dịch Sơn chính là ngọn núi nổi tiếng gần quê hương Khổng Tử, trong thiên "Tận Tâm thượng" sách "Mạnh Tử" viết: "Khổng Tử lên Đông Sơn mà thấy nước Lỗ nhỏ bé, lên Thái Sơn mà thấy thiên hạ nhỏ bé". Đông Sơn nhắc trong đó chính là ngọn Dịch Sơn này. Tần Thủy Hoàng chọn nơi đây để đặt tấm kiệt thạch đầu tiên, cũng bởi vì vị trí địa lý rất đắc địa của nó.
Đã hơn hai nghìn năm trôi qua rồi, núi Dịch Sơn vẫn sừng sững đứng đây, có điều đã trở thành công viên phong cảnh cấp 4A quốc gia. Bởi lúc này đang giữa mùa đông, trên núi gió to trời rét, nên không có du khách nào khác. Chủ tiệm đi xuyên qua hang Tổ Long chật hẹp, ở cửa ra phía Đông Bắc nhìn thấy một cây thái bình, cây thái bình này tương truyền rằng do ngòi bút của Hàn Tương Tử - một trong bát tiên, rơi xuống mà thành, còn chỗ này được gọi là Thông Thiên Ngọc tỉnh, chỉ vừa một người đứng.
Tiếp tục tiến lên là nhìn thấy đỉnh Ngũ Hoa, đỉnh núi chính của Dịch Sơn, chỗ này từng được gọi là "một bước tới trời", ngọn núi do năm tảng đá lớn đứng ôm lấy nhau, tảng lớn nhất hiểm trở nhất có tên là đá Sáp Thiên, trên đỉnh hẹp như lưỡi dao. Chủ tiệm ngẩng đầu nhìn một hồi lâu, cuối cùng không trèo lên trên nữa, mà tìm một chỗ tránh gió, ngồi xếp bằng nhắm mắt.
Bác sĩ biết gã chắc là đang đợi Phù Tô xuất hiện, nên không nói gì, bám lấy túi áo của chủ tiệm, nhìn về phía cửa hang Tổ Long, không chớp mắt.
Không biết qua bao lâu, đỉnh núi Dịch Sơn bỗng nhiên nổi trận cuồng phong, tóc mai của gã chủ tiệm bay tán loạn, gã chầm chậm mở mắt ra, khẽ than thở: "Nổi gió rồi...".
3
Thang Viễn một tay chống cằm, nhìn gió tuyết bên ngoài lương đình, nhìn rất lâu, cũng không thấy cơn cuồng phong bạo tuyết này có gì lạ, dù sao cũng không thổi được tới chỗ cậu.
Thu ánh mắt lại, Thang Viễn mới nhận ra gương mặt vị đạo sĩ trẻ tuổi hơi nặng nề, không còn vẻ nhàn nhã ung dung ban nãy nữa, thậm chí còn quên cả việc ăn món kẹo hồ lô mà hôm nay chính anh ta đòi ăn.
Thang Viễn cố nén sự bất an trong lòng, cười hề hề: "Này! Ông có ăn kẹo hồ lô nữa không? Không ăn thì tôi ăn đấy!"
Đạo sĩ trẻ tuổi nghe xong giật mình, như tỉnh dậy từ một cảnh giới nhập định nào đó, ngay sau đó liền há mồm theo phản xạ, một miếng táo gai ngoan ngoãn rơi xuống mồm anh ta.
Quả là một tên tham ăn! Thang Viễn bó tay, cúi đầu nhìn bàn cờ vây trên bàn đá, cậu thấy khó hiểu vì sao tên đạo sĩ mù này lại tự đánh cờ vây được với chính mình, tuy bàn cờ này được khắc lên chiếc bàn đá phẳng, đạo sĩ cũng có thể rờ được vào những giao điểm làm lõm xuống, quân cờ cũng làm quân đen hình vuông, quân trắng hình tròn rồi, nhưng đánh cờ như thế thì tốn sức đến mức nào? Thang Viễn đang nghĩ vậy, thì bỗng thấy ban nãy vì mình đặt bừa túi bánh xuống bàn nên có mấy quân cờ bị đẩy đi lung tung. Thang Viễn nghiêng nghiêng đầu nhớ lại bàn cờ ban nãy khi cậu vào có nhìn liếc qua, để dịch túi bánh ra chỗ khác, đưa tay ra xếp lại, rất nhanh chóng cậu đã đưa bàn cờ trở về trạng thái ban đầu, không sai chút nào.
Đạo sĩ trẻ tuổi không ngăn cản hành động của Thang Viễn, thực ra là anh ta không hề để ý đến việc bàn cờ có bị xê dịch đi hay không.
Nhưng Thang Viễn thì rất để ý đến sự im lặng bất thường của anh ta, cậu cố gắng gợi chuyện: "Này! Đợi sau khi tuyết ngừng rơi, có thể dạy tôi làm thế nào tạo được kết giới oách thế này không?"
Đạo sĩ trẻ tuổi bĩu môi chê trách: "Bánh Trôi con còn không gọi ta là sư phụ, sao còn đòi ta dạy cho con?" Đạo sĩ ai oán vô cùng, nghĩ lại những đệ tử trước kia anh ta thu nhận, có ai mà không cung kính vâng lời? Thời gian thấm thoắt, tại sao đến bốn chữ "tôn sư trọng đạo" mà bây giờ cũng không còn ai biết nữa vậy?
"Đã bảo là trao đổi bình đẳng rồi mà! Ông không gọi tôi là Bánh Trôi nữa thì tôi sẽ gọi ông là sư phụ! Ông còn chê bai gì nữa, thật đúng là! Tôi nói ra một lời nặng tựa chín đỉnh!" Thang Viễn đập bàn, cậu mới là người phải ai oán chứ! May mà nơi thâm sơn cùng cốc này ngoài cậu và đạo sĩ ra không còn ai khác, nếu không thì cái tên Bánh Trôi chắc chắn sẽ bị lan truyền. Không được, trước khi cái tên này trở thành tai họa theo cậu cả đời, cậu phải kịp thời sửa chữa ngay!
"Một lời chín đỉnh...". Rõ ràng đạo sĩ trẻ tuổi đang có cảm xúc vì mấy chữ này, anh ta ăn thêm một miếng táo gai rồi thở dài: "Bánh Trôi, con có biết "đỉnh" là cái gì không?"
"Đỉnh?" Thang Viễn nghĩ ngợi, cậu quá dễ dàng để đối phương đánh lạc hướng, "Đỉnh không phải là đồ đồng thau à? Cái đó to lắm, có ba chân, rất nặng". Thang Viễn khua tay múa chân diễn tả, tỏ ý rằng cái thứ đó có chứa cả cậu bên trong vẫn còn thừa chỗ.
"Ồ? Vậy con biết nó dùng để làm gì không?" Đạo sĩ trẻ tuổi tiếp tục án từng miếng táo gai, hứng chí hỏi tiếp.
"Cái này chắc là có ý nghĩa tượng trưng gì đó? Nghe bảo là trọng khí quốc gia gì gì mà". Thang Viễn nghiêng đầu, nhớ lại kiến thức đọc được trong sách, trả lời không chắc chắn lắm.
Cuối cùng đạo sĩ trẻ tuổi cũng tìm thấy chút cảm giác được làm thầy, chỉnh áo ngồi ngay ngắn, có chút hơi trịnh trọng. Anh ta chậm rãi nói: "Đỉnh, thực ra ban đầu là dùng để nấu thức ăn"
Cái mặt bánh bao của Thang Viễn tối sầm lại, biết ngay tên tham ăn này nói ba câu là quay lại chuyện ăn mà. Thấy anh ta sắp ăn hết xiên kẹo hồ lô, cậu liền đưa xiên kẹo của mình dúi vào tay anh ta.
Đạo sĩ trẻ tuổi cũng không chê bai, đón lấy ăn tiếp, vừa ăn vừa nói rành rọt: "Nên biết thời kỳ đồ đồng thực sự là thời kỳ "dân dĩ thực vi thiên", người trong một gia tộc, một bộ lạc đều cùng nhau ăn cơm, nên cái đỉnh mới to như thế. Nhưng chỉ có trưởng tộc mới có quyền phân chia thức ăn, lâu dần đỉnh mới trở thành tượng trưng cho quyền lực".
(Dân coi chuyện ăn uống là trời, coi chuyện ăn uống là quan trọng nhất)
"Ồ? Vậy là bọn tham ăn chinh phục thế giới à?" Thang Viễn thất vọng, cậu chạy ra ngoài lâu quá nên giờ hơi khát nước, bèn tiện tay ngắt một chiếc lá sen, gấp thành hình cái phễu, cúi xuống múc một ít nước từ suối nước nóng bốc hơi nghi ngút lên.
"Nhưng đỉnh không chỉ có hai tác dụng đó, nó còn là dụng cụ hành hình nữa". Đạo sĩ trẻ tuổi có vẻ chán kiểu cắt từng miếng ra ăn rồi, liền ăn luôn cả quả, phồng cả má lên, phá hỏng hoàn toàn hình tượng thế ngoại cao nhân mà anh ta đóng giả ban nãy.
"Dụng cụ hành hình?" Thang Viễn cầm lá sen chớp chớp mắt, quên hẳn chuyện uống nước, nước trong lá sen chảy hết xuống người cậu.
"Đúng thế, đó là dụng cụ để nấu người". Đạo sĩ trẻ tuổi nói rất thản nhiên, giọng điệu cứ như đang nói "hôm nay thời tiết không được tốt", miệng nhai rôm rốp quả táo gai đã đông cứng. "Người đứng ở vị trí chí cao vô thượng, thích ban hy vọng cho người khác, cũng thích tước đi quyền sống của người khác. "Đại quyền sinh sát", cụm từ này khái quát rất đầy đủ. Vì thế đỉnh là một thứ rất mâu thuẫn, vừa là dụng cụ để nấu nướng thức ăn, vừa là dụng cụ để nấu người, thứ vừa cho người ta sống vừa cho người ta chết như thế là rất hiếm có".
"Thực sự...". Thang Viễn thấy hứng thú với lời nói của đạo sĩ trẻ tuổi, cậu liền giục: "Nào, ông kể chuyện về cái đỉnh đi".
"Ờ, sau này đỉnh trở thành tượng trưng cho thiên hạ. Tất cả vua chúa đều dốc tài lực quốc gia ra để đúc những chiếc đỉnh to hơn tinh xảo hơn, thể hiện quyền lực của mình. Đầu đời nhà Hạ, Đại Vũ chia thiên hạ làm chín châu, và tập trung chín chiếc đỉnh ở đô thành của vương triều Hạ, biểu thị thống nhất chín châu. Vì thế, cửu đỉnh trở thành đồ tế lễ của thiên tử các triều khi làm lễ tế trời".
"Òa, nghe có vẻ oách đấy! Tiếp tục tiếp tục nào! Sau đó chín chiếc đỉnh đó thế nào?"
"Sau này triều nhà Hạ bị nhà Thương diệt, cuối cùng là nhà Chu lấy thiên hạ, tiếp tục có cửu đỉnh, rồi đến cuối đời nhà Chu, ờ, đại khái là năm nào tháng nào thì ta quên rồi, nhưng mà là đời Tần Vũ vương, Tần Vũ vương đòi phải xem bằng được chín cái đỉnh đó, mới cho Cam Mậu làm tướng quân, thảo phạt nước Hàn, tiến thẳng tới Lạc Dương, tiêu diệt triều Chu".
"Ồ? Người này giỏi ghê nhỉ? Không đúng, tôi nhớ người thống nhất sáu nước là Tần Thủy Hoàng mà? Không phải là Tần Vũ vương đâu!"
"Phải, Tần Vũ Vương dũng mãnh hiếu thắng, cho rằng mình đã vô địch thiên hạ, nhìn thấy cửu đỉnh, bèn hỏi các đại lực sĩ theo hầu bên cạnh mình xem có nâng được đỉnh lên không. Trong đó có một tay tiến lên nâng đỉnh, tính hiếu thắng của Tần Vũ vương lại trỗi dậy, cũng muốn thử nâng xem sao. Thử một cái là hỏng, ông ta là vua, không phải là đại lực sĩ, cái đỉnh đồng nó nặng lắm chứ! Chà... đổ đánh rầm một cái, tối hôm đó ông ta chết". Đạo sĩ trẻ tuổi kể chuyện như thể mình thấy tận mắt, lắc đầu than thở, tiếc nuối vô cùng.
"Ái dà...". Thang Viễn nhăn mặt, cứ như cậu mới là người bị đỉnh rơi vào đầu, nghe đã thấy đau rồi, "Sau đó thì sao? Chiếc đỉnh đó làm chết Tần Vũ vương, thì chắc phải đập vỡ ra để chịu tội chứ?"
Đạo sĩ trẻ tuổi đặt que xiên của kẹo hồ lô đã ăn hết lên bàn, nói phẫn uất: "Sao như thế được? Đó là một trong cửu đỉnh rất cao quý! Tên Tần Vũ vương dở hơi đó, hắn tự tìm cái chết đó thôi, lúc ấy còn có người loan tin rằng đó là báo ứng vì hắn diệt nhà Chu, thách thức mệnh trời, lại đi truy cứu hỏi tội đại lực sĩ bên cạnh Tần Vũ vương, cùng với tên Cam Mậu xúi bẩy Tần Vũ vương vào đất Chu xem đỉnh. Cam Mậu nghe tin liền không về nước Tần, trốn sang nước khác, bị tước hết tước vị".
"Cam Mậu?" Thang Viễn nghe đạo sĩ trẻ tuổi lần thứ hai nhắc tới cái tên này, nên cậu chú ý.
"Ồ, đó không phải là trọng tâm". Đạo sĩ trẻ tuổi xua xua tay, mở túi bánh ngọt trên bàn, nhón một miếng ăn, "Nhưng sau đó thì em của Tần Vũ vương là Tần Chiêu Tương vương lên ngôi, tiêu diệt hẳn Đông Chu, đem chín cái đỉnh mang về Hàm Dương. Nhưng khi đi qua sông Tứ Thủy ở Bành Thành, đã rơi một cái đỉnh xuống sông. Sau này, sau khi thống nhất sáu nước, Tần Thủy Hoàng đi tuần ở Tứ Thủy cũng có sai người xuống vớt, nhưng không vớt được gì".
"Ớ? Ông không định nói với tôi rằng, chiếc đỉnh bị rơi mất chính là chiếc đỉnh đã làm chết Tần Vũ vương chứ? Không thì sao lại trùng hợp vậy?" Thang Viễn bỗng cảm thấy hình như mình phát hiện được gì đó.
Đạo sĩ trẻ tuổi gật đầu: "Không sai, những điều ta nói ban nãy chỉ là nói cho người ngoài nghe thôi, chiếc đỉnh đã đè chết Tần Vũ vương ấy, vương thất nước Tần đương nhiên không thể để nó tồn tại, có một thỏa thuận ngầm là cho nó biến mất một cách hợp lý".
"Ồ, chính trị cũng thật là giả dối, rõ ràng muốn đập vỡ nó, nhưng lại không dám, đành phải tìm cớ để làm mát nó". Thang Viễn làu bàu mấy tiếng, có phần coi thường nghệ thuật chính trị lắm mưu mô quỷ kế kia, "Vậy bây giờ ở Tứ Thủy, cái đỉnh đó vẫn còn chứ?"
Đạo sĩ trẻ lắc đầu nói: "Không còn! Khi đó ta thấy không ai cần chiếc đỉnh đó nữa, bèn lấy về nhà, cho vào lò nung, nung chảy hết đồng ra, lấy một ít trong đó pha thêm vàng đen, cuối cùng nó trở thành một chiếc đỉnh nhỏ để ta luyện đan".
"...". Thang Viễn há hốc mồm, cậu muốn bới lông tìm vết mà không biết phải bới từ đâu, vị sư phụ này của cậu có vấn đề về thần kinh à? Bây giờ bỏ chạy liệu còn kịp không nhỉ?
Nhưng Thang Viễn nhìn sân vườn bốn mùa hoa nở, lại nhìn cảnh tượng cuồng phong bạo tuyết kỳ dị cách lương đình có gang tấc, nghĩ bụng người có năng lực lên trời xuống đất thế này, sống được mấy ngàn năm chắc cũng không khó nhỉ?
Nghĩ đến đây, Thang Viễn liền thấy ngứa ngáy trong lòng, cậu cảm thấy vị sư phụ ngộ nghĩnh này không phải vô duyên vô cớ mà nhắc tới đỉnh luyện đan Ô Kim, bèn tò mò hỏi: "Vậy hiện giờ chiếc đỉnh Ô Kim đang ở đâu?"
Ngón tay đang nhón bánh ngọt của đạo sĩ trẻ tuổi dừng khựng lại, anh ta cố gắng nghĩ ngợi hồi lâu, rồi mới hoang mang nói: "Chẳng biết là mất đâu rồi ấy...".
"..."
4
Bác sĩ cũng không rõ chủ tiệm đã ngồi trên đỉnh núi bao lâu rồi, mấy ngày qua, anh phát hiện ra thỉnh thoảng chủ tiệm lại rơi vào trạng thái ngủ say. Việc này nếu xảy ra ở người bình thường, anh sẽ cho rằng đó là bệnh chức năng thần kinh, nhưng vấn đề là chủ tiệm không phải người bình thường!
Vì vậy dù anh biết rằng lo lắng cũng bằng thừa, nhưng sự bất an trong lòng vẫn dâng lên như cơn nước triều không thể ngăn lại nổi, mà khi anh nhìn thấy hai người lần lượt đi vào trong hang Tổ Long, tâm trạng bất an lại lập tức dâng lên đến đỉnh điểm.
Chủ tiệm mở mắt, bình tĩnh chăm chú nhìn Phù Tô tiến đến sát mặt mình, không nói gì.
"Ta biết ngay là ngươi sẽ ở đây". Trên mặt Phù Tô vẫn nở nụ cười hiền hòa, ánh mắt hắn nhìn sang con thỏ bông trong túi áo chủ tiệm, sau đó lại khẽ cười bảo với chủ tiệm: "Có thể nói chuyện với ngươi không? Một mình thôi".
Chủ tiệm gật đầu, đứng dậy, mặc kệ bác sĩ đang giãy giụa, đưa con thỏ bông cho Hồ Hợi đứng đằng sau Phù Tô.
"Cái quái gì đây! Chủ tiệm! Anh điên rồi! Anh đem giao tôi cho thằng cha này, hắn quay người một cái là có thể vứt tôi xuống vực đấy!" Bác sĩ cáu lên, ai không biết tên Hồ thiếu gia này cực kỳ nghe lời anh hắn? Hắn chỉ mong linh hồn anh tiêu tán luôn, để Phù Tô tiếp tục chiếm đoạt cơ thể anh mà sống tiếp.
Hồ Hợi nghe xong, thân thể cứng đờ, vốn định từ chối nhưng không thể nói ra nổi câu nào, chỉ biết ngây người, đón lấy con thỏ bông, thậm chí còn tìm một góc ngồi để tránh cho gió thổi vào con thỏ bông hắn đang cầm. Chim Minh Hồng đậu trên vai Hồ Hợi giật mình, đập cánh mấy cái, nó nghi ngờ không rõ chủ nhân của mình có bị đặt nhầm dây thần kinh nào không.
Ô? Nghe lời nhỉ? Bác sĩ giờ mới nhớ ra, chủ tiệm đã từng dùng đạc Long Văn với Hồ Hợi, chắc mệnh lệnh ở cấp độ này vẫn có thể điều khiển hắn được. Nhưng làm thế ngay trước mặt anh trai người ta liệu có sao không nhỉ?
Bác sĩ bất giác nhìn Phù Tô, vừa đúng lúc gặp ánh mắt lạnh lùng của hắn, anh chợt run lên. Khi định nhìn lại lần nữa, thì anh thấy hắn đã thôi không nhìn, mà cùng chủ tiệm đi về phía đá Sáp Thiên trên đỉnh Ngũ Hoa.
Bác sĩ còn chưa kịp tiếc nuối vì không được đi nghe lén, thì bỗng sợ hãi nhận ra mình đã bị một cánh tay trắng toát lạnh băng xách đôi tai thỏ lôi ra ngoài, anh nhìn xuống dưới chân, bên dưới là khe núi bị tầng tầng lớp lớp sương núi che phủ, sâu không nhìn thấy đáy.
Cha nó chứ! Chủ tiệm trao trứng cho ác rồi! Bác sĩ bây giờ ngay cả giãy giụa còn không dám, chứ đừng nói đến chuyện hô to cầu cứu, chỉ sợ kích động tên Hồ thiếu gia xấu tính, hắn mà buông tay một cái thì anh không còn gặp lại chủ tiệm luôn, ờ... tuy rằng hình như đồ chơi nhồi bông có rơi xuống thì cũng chẳng chết được?
Con chim đỏ tò mò bay lên, đối với nó mà nói, gió núi to đến mức này vẫn chẳng thấm tháp vào đâu, vẫn có thể bay rất bình thường. Bác sĩ tức giận nhướn đôi mày bằng vải nhung lên, thật là muốn đập cho con chim tò mò ngu ngốc này một cái.
May thay thời gian thử thách không kéo dài được bao lâu, Hồ Hợi hơi nheo đôi mắt đỏ lại một chút, rồi lại xách bác sĩ trở vào trong, vứt cho con chim đỏ đang rất tò mò.
"Cho mày chơi này, đừng làm hỏng là được". Hồ Hợi nói một cách tùy ý.
Quỷ quái! Không làm hỏng là được? Bác sĩ vô cùng tức giận, nhưng một con thỏ bông rõ ràng không phải là đối thủ của con chim đỏ kia, nó có được một món đồ chơi, liền cắp đôi tai thỏ của bác sĩ lên bay lung tung.
Thôi được... Thực ra đã quen cảm giác chóng mặt khi đi tàu lượn trong công viên rồi, thì thấy trải nghiệm đó cũng vui ra phết... Cuối cùng bác sĩ trèo được lên lưng con chim đỏ, cảm thấy mình như nhân vật chính trong thế giới kỳ ảo, có thể điều khiển được con "thú cưỡi" này rồi.
Bác sĩ cúi đầu nhìn xuống đỉnh núi, trong lớp sương núi có bóng dáng mờ mờ của hai người, tiếc là, hoàn toàn không nghe được hai người họ nối gì.
Sau khi đã xác nhận bác sĩ đang được "chăm sóc" rất tốt, chủ tiệm không nhìn sang đó nữa, ánh mắt lại tập trung vào Phù Tô, chậm rãi hỏi: "Nghĩ kỹ chưa?"
Phù Tô cười hơi nhăn nhó: "Qua bao nhiêu năm, Tất Chi ngươi vẫn rất hiểu tạ". Phù Tô liếc nhìn Hồ Hợi đang đứng ở cách đó không xa, khẽ cười: "Khống chế Hồ Hợi, bắt hắn đem hết mọi việc ta làm trong những ngày qua báo cáo với ngươi hả?"
"Không, tuy ban đầu không dám khẳng định, nhưng nhờ phúc của ngài, mấy ngày này, những chi tiết nhỏ nằm sâu trong ký ức mà thần dường như đã quên, đều được lật lại từng thứ một, mới khiến thần chắc chắn vậy". Chủ tiệm nói rất bình thản, nhưng sâu trong mắt là một sự dịu dàng.
"Ồ?" Phù Tô cười, gương mặt tuấn tú không hề có chút bối rối nào, hắn vốn cũng không hy vọng trò dùng hương nguyệt kỳ vặt vãnh của hắn qua được mắt chủ tiệm.
"Thần vẫn nhớ, năm xưa ngài hay lén xem "Hoàng Đế Nội Kinh"". Trên môi chủ tiệm nở một nụ cười, những hồi ức đó đối với gã thật quý báu. Bởi vì quá coi trọng, nên mới không nỡ lấy ra để nhớ lại, nó giống như bong bóng xà phòng đẹp đẽ nhưng mỏng manh dưới ánh nắng, chỉ cần chạm nhẹ là đã vỡ tan.
"Không trị lúc đã bệnh, phải trị lúc chưa bệnh; không trị lúc đã loạn, phải trị lúc chưa loạn". Phù Tô nói ra tư tưởng quan trọng nhất trong "Hoàng Đế Nội Kinh", thở dài nói: "Ngươi chắc chắn cũng đã đọc rồi, nếu không tại sao lại không lo lắng về việc ta muốn lật ngược thiên hạ này lên?"
Chủ tiệm không trả lời câu hỏi của hắn, mà đưa tay sờ lên con rồng đỏ bên vai phải, bình tĩnh nói: "Người ta cứ hay nói mình không thể tự quyết định, thực ra chỉ vì không muốn vứt bỏ những thứ mình đang có, cũng không muốn buông bỏ những thứ mình muốn có. Có lẽ, đó chính là lòng tham".
Phù Tô hiểu ý của gã, cười tự nhạo: "Tất Chi, ngươi yên tâm vậy sao? Không sợ ta có lòng tham sao?"
"Không thể khuyên giải được, đành phải để ngài tự tỉnh ngộ. Trong thời gian một năm qua, thần nghĩ ngài đã nhìn rõ rồi". Chủ tiệm thu tay lại, trên ngón tay tự dưng có vết thương do một loại sợi mảnh sắc cắt phải, gã cũng không lãng phí giọt máu đó, bôi thẳng lên thân con rồng đỏ. Đôi mắt sống động như thật của con rồng đỏ lóe lên tia sáng, rồi lập tức lại tối trở lại.
Phù Tô không để ý đến tình tiết đó, mà vịn tay vào đá núi, nhìn xuống phía dưới. Lúc này sương núi đã giảm, cơn cuồng phong thổi bớt đi một chút, lộ ra cảnh tượng nguy nga tráng lệ bên dưới chân núi. Phù Tô nhìn ngắm một hồi lâu, rồi mới lẩm bẩm nói: "Nghĩ năm xưa, chắc phụ hoàng cũng đứng ở đây nhìn ngắm cảnh này... Nghĩ năm xưa... đã qua hơn hai nghìn năm rồi, ta cũng thực sự tự do rồi".
Quả tim đang treo ngược của chủ tiệm cũng đã được cất trở lại chỗ cũ.
Gã đánh thắng canh bạc rồi.
Dù kết quả này đã được gã dự liệu từ trước, nhưng vi sao trong thời khắc thực sự phải đối mặt, gã lại buồn bã hơn tưởng tượng nhiều đến thế?
Phù Tô lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ trong người, chủ tiệm nhìn theo, mới nhận ra chiếc đỉnh nhỏ này trông rất quen, nó chính là đỉnh Ô Kim mà gã đã lấy ba món đồ cổ để đổi cho ông giám đốc bảo tàng, sau này gã không thể tìm thấy nó đâu nữa. Chủ tiệm cũng không truy cứu chuyện vì sao đỉnh Ô Kim lại rơi vào tay Phù Tô, Hồ Hợi có bút Bạch Trạch, muốn ra vào Á Xá của gã cũng chỉ là chuyện quá dễ dàng. "Cái đỉnh này...".
"Càn Khôn đại trận đã trấn yểm mất mười một mắt trận rồi, vậy chỗ này ta cũng tiện thể đánh bạc xem". Phù Tô ngừng lại một chốc, rồi hít một hơi sâu nói tiếp: "Nhân khi ta còn chưa đổi ý".
Chủ tiệm cầm lấy chiếc đỉnh Ô Kim, mí mắt cụp xuống che đi ánh mắt rối loạn của gã.
5
Thang Viễn lấy lá sen múc lại một ít nước suối nóng, uống mấy ngụm, rồi lấy mu bàn tay quệt sạch nước trên mép, mới nhận ra ông sư phụ tham ăn của mình vẻ mặt có vẻ nghiêm trọng.
"Sao thế? Lại có gì sai sai nữa à?" Thang Viễn thấy run rẩy, chỉ sợ ngay một giây sau sư phụ tham ăn bảo kẹo hồ lô không đủ, bắt cậu đi mua hai xiên nữa về.
Đạo sĩ trẻ tuổi nhíu mày, đưa luôn tay ra ngoài kết giới cảm nhận hơi thở của thế giới bên ngoài, bấm đốt tay nhẩm tính, thở dài nói: "Càn Khôn đại trận có biến".
"Càn Khôn đại trận? Lại là gì nữa thế? Sao có vẻ oách thế?" Hai mắt Thang Viễn sáng lên, rồi ngay một giây sau thì biến thành hai hòn bi ve, vì cậu bỗng thấy phía sau lưng đạo sĩ, hơi nước bốc lên từ suối nước nóng bỗng ngưng tụ trên không trung biến thành hình hài một cô gái. Hơi nước trở nên rõ hình dần, rất nhanh chóng có thể nhìn thấy đó là một cô gái dung nhan tuyệt sắc, thân hình khói trắng mờ ảo như tuyết, gương mặt đẹp tựa tranh thủy mặc, đôi môi mỏng vẽ ra một nụ cười có ý giễu cợt, hai mắt trống rỗng vô hồn nhưng lại có một sức hấp dẫn mà không từ ngữ nào diễn tả được.
Thang Viễn tuy còn ít tuổi, nhưng cũng biết nếu trên đời này có yêu ma quỷ quái, thì chắc chắn là đang xuất hiện trước mặt cậu rồi. Nhìn nửa thân dưới của cô gái đó hóa ra lại là một chiếc đuôi rắn dài, Thang Viễn sợ hãi không nói nên lời, trong cổ họng phát ra tiếng kêu ú ớ, đầu óc cậu hoàn toàn trống rỗng.
Cô gái đó đưa đôi tay trắng ngần như ngọc của mình ra, bám lên vai của sư phụ tham ăn, cúi đầu nhìn vào cổ của anh ta một cách vô cùng lả lơi.
Thang Viễn đỏ cả mặt, cậu không muốn nhìn cảnh hot này, nhưng dường như nó có ma lực, cậu giương mắt nhìn từ trong miệng cô gái lả lơi kia bỗng hiện ra hai cái răng nhọn hoắt, cắn phập vào cổ sư phụ cậu.
Thang Viễn thất kinh đứng bật dậy, định lao tới cứu sư phụ, nhưng dường như bị ai đó giữ lại, toàn thân không có chút sức lực nào nữa.
Ngoài sức tưởng tượng của cậu, hoàn toàn không có cảnh máu me nào, sư phụ tham án còn không hề động đậy, rất bình thản mặc kệ cho cô gái kia hút linh khí trên người anh ta, cái đuôi rắn to lớn ở nửa thân dưới cô ta quẫy loạn trong vườn hoa, khiến vườn hoa bài trí tỉ mỉ bỗng chốc biến thành một đống tang hoang.
Có lẽ là rất lâu sau đó, hoặc có lẽ chỉ trong khoảnh khắc, yêu tinh rắn đã ăn xong, lại tan biến vào trong làn hơi của suối nước nóng. Lúc này Thang Viễn mới tìm lại được giọng nói của mình, lắp bắp hỏi: "Thế... thế này là... là thế nào?"
"À không có gì, đó là con rắn thuốc ngày xưa ta nuôi, nó tu luyện lại từ đầu, tâm trí không được tỉnh táo ấy mà". Gương mặt đạo sĩ trẻ tuổi hơi xanh xao, nhưng anh ta chẳng để ý, vẫy tay một cái, hoa cỏ bị quật đổ trong vườn hoa lại nở rộ, những hòn giả sơn bị xô đẩy lại được dựng lên, như chưa hề xảy ra chuyện gì.
Rắn thuốc? Vậy vì sao nửa thân trên lại là một cô gái tuyệt sắc? Thang Viễn cảm thấy chân mình bắt đầu mềm nhũn, cậu chỉ là một cậu bé mười tuổi bình thường thôi! Cậu không chịu nổi cuộc đời đầy sóng gió này! Thang Viễn bám vào bàn đá để ngồi xuống, bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc xem mình có nên đi học tiểu học hay gì không, mặc dù những sách này cậu đã đọc xong từ vài năm nay.
"Ồ, ban nãy nổi đến đâu rồi nhỉ? À phải, Càn Khôn đại trận, có biết vì sao năm xưa Tần Thủy Hoàng lại đi tuần du thiên hạ không? Bởi vì Đông Nam có thiên tử khí, ta bèn đặt Càn Khôn đại trận, nếu trận pháp đại thành, cả vùng Trung Nguyên sẽ nằm dưới sự khống chế của Thủy Hoàng Đế, đế quốc Đại Tần chắc chắn sẽ vững vàng muôn đời không đổ". Đạo sĩ trẻ tuổi xuýt xoa, ôi một thời tuổi trẻ dại khờ đã ra đi không trở lại! Năm xưa anh ta cũng từng nhiệt huyết như vậy.
"Chém gió kiểu này lạnh quá...", Thang Viễn bới móc, "Chẳng phải triều Tần đến Nhị Thế là mất nước rồi sao? Còn đòi muôn đời không đổ?"
"Chẳng phải vì Tần Thủy Hoàng còn chưa lập đủ kiệt thạch đã chết rồi sao! Ban đầu ta cũng nghĩ Càn Khôn đại trận chưa bày xong thì hơi đáng tiếc, nhưng sau đó phát hiện ra tên đại đệ tử của ta lòng dạ bất chính, con nói xem, người nước Triệu nằm vùng ở nước Tần, ngầm bày mưu diệt Tần thì cũng là chuyện thường, nhưng đâu có cần thiết phải khiến người trong thiên hạ cùng chịu tội?" Đạo sĩ trẻ tuổi lắc đầu phản đối, phủi vụn bánh ngọt trên tay đi, thất vọng nói, "Nhưng hắn tu tập đã cao, dù là ta thì năm xưa cũng không thể biết nổi là đã giết được hắn chưa, nên sau đó ta mới sửa đổi Càn Khôn đại trận, dùng tám cái đỉnh còn lại biến thành trận Phong Thần giam cầm hắn, dụ hắn vào cửa Tử ở trong trận pháp, cuối cùng... thiên hạ đã thái bình".
Thang Viễn nhìn vẻ mặt vui mừng của đạo sĩ trẻ tuổi, bất giác cảm thấy nổi hết da gà. Thủ đoạn thanh lọc môn hộ đó quả là độc ác! Khiến người ta sống không được, chết không xong, bị hành hạ hơn hai nghìn năm? Thang Viễn bỗng cảm thấy mình nhận ông ta làm sư phụ thì quá mạo hiểm. Liếm đôi môi khô khốc vì căng thẳng, Thang Viễn lo lắng hỏi: "Vậy ông ban nãy nói Càn Khôn đại trận cổ biến... là thế nào?"
Đạo sĩ trẻ tuổi nhăn mày lại, vết sẹo giữa đôi mày trông càng hung tợn. "Thật kỳ lạ... Muốn phá giải trận Phong Thần, thì phải thu thập đủ mười hai món đồ cổ đế vương, trấn yểm ở mắt trận. Mười hai món đồ cổ đế vương đâu có dễ tìm! Vậy là kẻ nào..."
Đạo sĩ đột ngột dừng lời, Thang Viễn lập tức như hiểu ra điều gì, nhìn ra phía ngoài lương đình, thấy cơn gió tuyết mù trời và mây đen dày đặc ban nãy cứ như thể bị ông trời thu lại hết, trong phút chốc đã hoàn toàn biến mất. Chỉ còn lại tuyết trắng mênh mông trên mặt đất, và ánh nắng rực rỡ tỏa xuống từ ưên ườỉ.
"Trận đó... đúng là bị phá rồi...".
Thang Viễn há hốc mồm, thế chẳng phải có nghĩa là tên tử thần nào đó bị giam cầm suốt hơn hai nghìn năm, giờ đã bị người ta thả ra rồi sao?
6
Chủ tiệm và Phù Tô cùng kề vai đứng trên đỉnh Dịch Sơn, nhìn sương núi tan hết, cuồng phong đã ngừng, cảnh tượng thật bình yên, phía xa còn xuất hiện một cầu vồng rực rỡ.
Phù Tô nhắm mắt, hắn vốn là kẻ nên quen với việc đứng trên cao, nhưng giờ đây mắt nhìn cảnh đẹp non sông này, hắn lại cảm thấy hơi chóng mặt. Lát sau, hắn lại mở mắt ra, ngắm nhìn một hồi lâu, rồi khẽ thở dài nói: "Tất Chi, việc này kết thúc, cho dù không hề muốn, nhưng ta cũng nên trả cơ thể này cho chủ nhân ban đầu của nó rồi".
Chủ tiệm hơi run lên, định nói gì đó, nhưng chỉ hé môi một chút.
Phù Tô tự cười chính mình: "Nói ra không sợ Tất Chi chê cười, thực ra ta sớm đã nhìn rõ thời đại này vận hành ra sao rồi, nên đã bỏ ý đồ dùng Càn Khôn đại trận. Nhưng kéo dài cả một năm trời, thực ra vì ta tham lam thế giới phồn hoa này". Hắn ngập ngừng, tuy rất khó khăn, nhưng rồi cũng nói tiếp, "Nhưng những gì không thuộc về ta, thì cuối cùng cũng không phải của ta, hãy thay ta xin lỗi anh ta...".
Chủ tiệm thấy hắn nói xong rồi lập tức định quay về, liền kéo tay áo hắn theo phản xạ: "Đại công tử...".
"Tất Chi, cuối cùng ngươi cũng chịu gọi ta là đại công tử...". Phù Tô không quay đầu lại, cảm thán vì đầy hoài niệm. Từ ngày hắn tỉnh dậy, chủ tiệm vẫn gọi hắn là "điện hạ" một cách khách sáo.
Chủ tiệm ngừng lại, rồi nói lí nhí: "Thần có thể tìm giúp ngài một cơ thể thích hợp".
Phù Tô hơi sững người lại, nhưng rồi chỉ bình thản nói: "Không cần dỗ ta, linh hồn ta không ổn định, nếu tiếp tục thay thân xác, chỉ cần có chút xíu không thích hợp thôi, là lập tức hồn tiêu phách tán...".
Chủ tiệm cúi đầu, khẽ nói: "Cơ thể của thần dùng được".
Phù Tô chầm chậm quay đầu lại, gương mặt tuấn tú không có chút thái độ gì, hắn cứ nhìn chăm chăm vào chủ tiệm, một hồi lâu mới nói ra hai tiếng: "Thật chứ?"
Chủ tiệm lại cườỉ, trinh trọng gật đầu nói: "Thần đã sống hơn hai nghìn năm, đủ rồi".
Lần này Phù Tô không nói gì.
Không đồng ý.
Đương nhiên, cũng không phản đối.
7
Bác sĩ mở mắt ra, hơi ngơ ngác nhìn trần nhà trắng toát. Không phải anh đang cưỡi chim đỏ bay trên trời rất vui vẻ sao? Còn định kéo lông con chim đỏ để bảo nó bay thấp một chút, tốt nhất là có thể lén nghe được xem Phù Tô và chủ tiệm đang nói chuyện gì, vì sao chớp mắt đã ở nơi khác rồi?
Lập tức, bác sĩ bỗng nhiên ngồi bật dậy khỏi giường, kinh ngạc nhìn đôi tay mình.
Là tay của con người, không còn là đôi tay trông như quả dưa mềm mềm của đồ chơi nữa, hơn nữa trên ngón trỏ của bàn tay phải còn có vết chai lâu năm, đó là dấu vết của việc thường xuyên cầm dao mổ.
Đó là tay của anh!
Khi bác sĩ nhận ra điều này, liền vội vàng nhìn ra xung quanh, phát hiện ra mình đang ở trong nhà mình. Anh xông vào phòng vệ sinh, thấy mình đúng là đã trở về cơ thể cũ rồi, bèn sung sướng toét miệng cười. Nhưng niềm vui sướng đó không kéo dài được quá ba giây. Vì sao anh không biết gì, tự nhiên lại trở về với cơ thể của mình? Chủ tiệm đâu?
Vớ vội quần áo lao ra khỏi cửa, từ đằng xa anh nhìn thấy Á Xá, sự bất an trong lòng bác sĩ mỗi lúc một lớn, anh loạng choạng chạy tới đẩy cánh cửa chạm hoa nặng trịch ra, khi nhìn thấy quang cảnh bên trong phòng, mới thở phào nhẹ nhõm.
Đồ đạc trong tiệm Á Xá không thay đổi gì, tượng binh mã sơn màu đứng ngoài cửa, đèn cung Trường Tín sáng mãi không tắt, chiếc lư Bác Sơn nạm hình rồng vàng quanh năm tỏa hương trầm Kỳ Nam... tất cả mọi thứ đều ở đây, đến vị trí đặt đồ cũng không hề thay đổi chút nào. Ban nãy bác sĩ chạy vội quá, nên giờ phải nằm trên chiếc ghế dựa bằng gỗ tếch để thở, một lúc sau mới cảm thấy có gì đó không ổn.
Nếu như mọi ngày, chắc chắn chủ tiệm đã biết là anh đến, dù có bận đến mấy cũng sẽ phải đi ra từ buồng trong rồi. Bác sĩ ngồi dậy, gọi lớn: "Chủ tiệm? Chủ tiệm! Anh ở đâu đấy?"
Ngoài tiếng vọng của giọng anh ra, trong Á Xá hoàn toàn im ắng.
Bác sĩ sắp phát điên vì cảm giác bất an trong lòng, đang định đi vòng ra sau bình phong ngọc để vào trong tìm, thì nghe thấy tiếng cọt kẹt của cánh cửa gỗ chạm hoa, bác sĩ lập tức quay lại.
"Chủ tiệm... Ơ? Sao lại là anh?" Bác sĩ ngạc nhiên nhìn Lục Tử Cương xách va li đi từ ngoài vào.
Lục Tử Cương tháo chiếc khăn quàng trên cổ, cười nói: "Chủ tiệm gửi thư cho tôi, bảo tôi trông hàng hộ anh ấy".
Bác sĩ như bị sét đánh trúng, kinh ngạc đứng sững người một lúc lâu, rồi mới rặn ra từng chữ qua kẽ răng: "Vậy anh ta... có nói là... bảo anh trông hàng bao lâu không?"
Lục Tử Cương nhún vai nói: "Anh ta không nói, nên tôi mới thôi việc ở Bảo tàng quốc gia".
Quả tim của bác sĩ như rơi xuống hố băng.
Ở sâu dưới lòng đất tại một nơi không ai biết, trong một hầm mộ rất nguy nga tráng lệ, không khí ngưng đọng hơn hai nghìn năm bỗng nhiên lưu động, chiếc quan tài to lớn được đặt thờ ở chính giữa, bỗng nhiên có tiếng động...
Mỗi một món đồ cổ trong Á Xá đều có câu chuyện của mình, rất nhiều năm nay không có ai nghe. Bởi vì, chúng đều không biết nói...
Type: chuot tery
Thứ Sáu ngày tháng năm , mưa rào.
Tô Vãn Lạc ôm cặp sách, ngồi trên bậc thang ở quảng trường, chẳng hề để tâm tới việc mình bị mưa ngấm ướt hết người, người qua đường che ô bước vội vã, thỉnh thoảng có người nhìn cô với ánh mắt khó hiểu.
Cô cũng mặc kệ, chỉ ngây người ngồi nhìn những giọt mưa rơi trên những viên gạch xanh trơn bóng, bắn lên bọt nước hình chiếc vương miện.
Mưa rơi xuống người cô, vừa rát vừa lạnh nhưng cô không hề có ý định trú mưa. Những hạt mưa lạnh buốt dọc theo tóc chảy xuống má, hòa với nước mắt rồi xuống cổ.
Tô Vãn Lạc đang thơ thẩn ngồi nhìn những bọt nước bắn lên rồi tan biến, đột nhiên có người che ô cho cô, chắn những giọt mưa đang rơi xuống.
“Muộn lắm rồi sao còn chưa về nhà?”. Giọng nói của một chàng trai dịu dàng dễ nghe vang lên bên tai.
Cô ngẩng đầu lên, một chàng trai mặc bộ đồ Trung Sơn () màu đen, tay trái xách một chiếc túi thân thiện với môi trường, tay phải cầm chiếc ô lớn màu đen, đang nhìn cô với vẻ quan tâm.
() Một kiểu áo cổ đứng được đặt theo tên của Tôn Trung Sơn, nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc. Đây có thể coi là bộ đồ nam giới thịnh hành nhất trong thập niên bảy mươi, tám mươi thế kỷ XX ở Trung Quốc.
Người này còn rất trẻ, chỉ chừng ngoài hai mươi, ngoai hình vô cùng bình thường, đi trên đường chỉ nhìn qua một cái là quên, nhưng lại mặc bộ đồ Trung Sơn khiên người khác không thể rời mắt. Vải lụa đen tuyền sâu thẳm như màn đêm, mấy chiếc cúc vải đỏ thẫm như máu, tay áo phải có thêu một con rồng màu đỏ sậm, thân rồng mềm mại men theo tay áo uốn lượn lên trên, đầu rồng nằm đúng vị trí cổ áo, nhìn sống động như thật, như thể ngay giây sau đó sẽ cắn đứt cổ gã. Hình thêu vừa lạ lùng vừa sinh động này khiến người ta cảm thấy gã có khí chất thần bí không thể diễn tả được bằng lời.
Tô Vãn Lạc rất muốn nói không cần gã nhiều chuyện, nhưng khi mở miệng lại không kiềm chế nổi cảm xúc của bản thân, cô buồn rầu nói: “Tôi đã đánh rơi một thứ rất quan trọng…”.
“Thật đáng thương”. Người trẻ tuổi thở dài tiếc nuối.
Tô Vãn Lạc mím môi, lại bật khóc. Cô làm mất chiếc ô bạn cùng bàn cho mượn rồi.
Lúc tan học mưa đã rất to, bạn cùng bàn thấy cô lúng túng bèn tốt bụng đưa cho cô một chiếc ô. Cô sững người một lát, đang định mừng rỡ đuổi theo cảm ơn thì thấy cậu ấy che chung ô với một cô gái khác, nói cười vui vẻ bước ra khỏi trường.
Thế giới trong cô dường như sụp đổ trong nháy mắt. Thế là ô cũng chẳng che, cô đi bộ về nhà, giữa đường chợt phát hiện ra chiếc ô cậu ấy cho mượn không biết đã rơi từ lúc nào.
Thực ra mất ô chỉ là chuyện nhỏ, điều khiến cô đau lòng nhất chính là cô nhận ra đã đánh rơi trái tim mình.
Người trẻ tuổi không đi ngay, im lặng một lát mới hỏi: “Em rất muốn tìm lại nó phải không?”.
Tô Vãn Lạc ra sức gật đầu.
“Vậy có muốn tới cửa tiệm của tôi ngồi một lát không?”. Người trẻ tuổi nhỏ nhẹ đề nghị.
Tô Vãn Lạc sững người, ngẩng đầu lên lần nữa. Người này có bề ngoài rất bình thường nhưng lúc này khi gã mỉm cười, cô lại có cảm giác như một tia sáng chiếu xuống qua làn mây đen đặc, bỗng chốc quét sạch bóng xám ngưng tụ đã lâu trên trời, khiến người ta bất giác cảm thấy tâm trạng trở nên vui vẻ hơn.
Giống như bị thôi miên, Tô Vãn Lạc khẽ gật đầu.
Mưa càng lúc càng nhỏ, tiếng mưa tí ta tí tách rớt lên mặt ô nghe trong trẻo, vui tai.
Nhưng lúc này Tô Vãn Lạc lại thấy hối hận, sao cô lại như bị ma xui quỷ khiến đồng ý đi theo người lạ chứ? Không được, phải mau chóng kiếm cớ chuồn thôi!
Người trẻ tuổi dịu dàng nói: “Đến rồi”.
Tô Vãn Lạc ngước mắt nhìn, đây là một cửa tiệm nhỏ hẹp, bài trí theo phong cách cổ xưa, cửa sổ cũng mang vẻ cổ điển tinh tế, nằm kẹp giữa hai cửa hàng đồ ăn nhanh hiện đại càng khiến nó chẳng ra sao cả. Trên tấm biển trước cửa là hai chữ được viết theo lối chữ tiểu triện rất đẹp, lờ mờ có thể nhận ra là hai chữ “Á Xá”.
“Á Xá?”, Tô Vãn Lạc hỏi vẻ đầy nghi vấn.
“Đây là tiệm đồ cổ của tôi, mỗi món đồ cổ ở đây đều mang trong mình rất nhiều, rất nhiều câu chuyện nhưng chúng không biết nói, vì thế cũng không thể kể cho người khác nghe những tâm sự của chúng”.
Gã chủ tiệm trẻ tuổi đẩy cánh cửa gỗ khắc hoa cũ kỹ ra, điều khiến Tô Vãn Lạc cảm thấy kỳ lạ là, trong cửa tiệm không có người nhưng chủ tiệm cũng không khóa cửa.
“Đừng lo, tôi không bao giờ khóa cửa, không có tên trộm nào dám tới đây ăn trộm đâu”. Dường như biết được sự băn khoăn trong lòng cô, gã chủ tiệm trẻ tuổi đứng trong góc tiệm mờ tối, chậm rãi quay đầu lại, mỉm cười nói.
“Chào mừng tới thăm ‘Á Xá’”. Nụ cười của gã chủ tiệm chìm trong gian phòng tối tăm khiến Tô Vãn Lạc nhìn thế nào cũng cảm thấy vô cùng kỳ lạ.
Tiệm đồ cổ quái lạ, gã chủ tiệm thần bí.
Tô Vãn Lạc nuốt nước bọt nhưng không lùi về phía sau, ngược lại ma xui quỷ khiến thế nào lại ôm cặp sách, bước vào trong.
Á Xá không nhỉ như khi nhìn từ bên ngoài, mà giống như một thông đạp hẹp, dài, đen thui, cũng không biết rốt cuộc dài tới đâu. Gã chủ tiệm thắp sáng hai ngọn đèn cung đình ngoài cửa, Tô Vãn Lạc nhìn qua, suýt chút nữa nhảy dựng lên, hai ngọn đèn cung đình này sao giống đèn Trường Tín () được ghi chép trong sách lịch sử thế?
()Đèn cung đình Trường Tín là loại đèn bằng đồng xanh thời Tây Hán, được khai quật ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc vào năm , có hình dạng một cung nữ đang quỳ gối cầm chiếc đèn. Đèn có tên Trường Tín vì thời đó, nó được đặt trong cung Trường Tín.
Là đồ giả thôi… chắc chắn là đồ giả…
Khóe môi Tô Vãn Lạc giật giật, cảnh giác nói: “À này… tôi không có tiền, nếu muốn bán hàng cho tôi thì tôi không mua nổi đâu”.
Gã chủ tiệm nghe thấy vậy liền khẽ cười: “Tôi không bán hàng cho em đâu, ở đây có một vật tôi nghĩ hợp với em. Nếu em thích tôi tặng em đấy”.
Tặng? Lại có chuyện tốt đẹp vậy sao? Đôi mắt Tô Vãn Lạc đảo liên hồi, trong lòng nghĩ đợi xem gã ta lấy ra vật gì đã, cũng chẳng mất mát gì cả… Cô ngồi xuống chiếc ghế gỗ hồng mộc bên cạnh. Chỉ một lát sau gã chủ tiệm cầm một chiếc hộp bước ra.
Dưới ánh đèn vàng mờ mờ, chiếc hộp khắc hoa văn rồng trên tay gã chủ tiệm từ từ mở ra, trên lớp vải lụa màu vàng sáng là một chiếc vòng tay khảm đầy đá quý.
“Chủ nhân đầu tiên của chiếc vòng tay này là một vị sủng phi của vua Càn Long nhà Thanh, cũng chính là Hương Phi - ‘Gót ngọc chưa tới, hương thơm đã nồng’”.
Tô Vãn Lạc mở to mắt hơn, gã chủ tiệm cũng không vội, thong thả nói tiếp: “Nghe nói nàng vốn là vợ của tù trưởng Hoắc Tập Chiếm của tộc Hồi ở Tân Cương, tộc Hồi phản loạn, Hoắc Tập Chiếm bị triều Thanh truy sát, tướng quân Triệu Huệ bắt sống Hương Phi dâng tặng Càn Long. Nhưng Hương Phi lòng ôm chí nguyện ‘Nước mất nhà tan, lòng này nguyện chết’, trước sau không chịu khuất phục Càn Long, tương truyền vì muốn lấy lòng mỹ nhân, Càn Long đã thu thập bảy viên đá quý màu sắc khác nhau, chứa đựng linh khí, chế tạo thành chiếc vòng này để tặng nàng”.
Gã chủ tiệm chậm rãi kể chuyện, giọng kể dịu dàng và cuốn hút: “Bảy viên đá quý này gồm đá Đản Bạch, đá Thanh Kim, đá Thác Bạc, đá Nguyệt Quang, đá Cảm Lãm, đá Thạch Lựu và đá Hắc Diệu, truyền thuyết nói người đeo chiếc vòng tay này có thể tìm lại thứ mình đánh mất”.
“Bảy viên? Trên chiếc vòng này có hai viên bị mất”. Tô Vãn Lạc có chút nghi ngờ.
“Mỗi lần tìm được một thứ, một viên đá quý sẽ biến mất. Thứ đầu tiên Hương Phi muốn tìm lại là hài cốt của người chồng Hoắc Tập Chiếm. Thứ thứ hai nàng muốn tìm lại là…”, gã chủ tiệm ngập ngừng “là cố hương của nàng, vì thế nàng bị thái hậu ban chết, cuối cùng hồn về cố hương. Nguyện vọng của nàng lần lượt được thực hiện nên hai viên đá quý tương ứng là đá Đản Bạch, đá Thanh Kim đều đã biến mất. Bây giờ chỉ còn lại năm viên đá quý này”.
Gã chủ tiệm đặt chiếc vòng vào lòng bàn tay đưa cho Tô Vãn Lạc: “Chẳng phải em mất đồ sao? Đeo thử xem thế nào”.
Tô Vãn Lạc biết những người bán đồ cổ đều biết kể chuyện hay, nhưng không ngờ lại có câu chuyện ly kỳ thế này.
Đeo chiếc vòng này sẽ tìm được thứ bị mất? Lừa con nít còn được, nhưng cô đã qua cái tuổi tin những câu chuyện cổ tích rồi.
Nhưng… cho dù là lừa gạt, cho dù chiếc vòng tay thiếu hai viên đá quý, cũng không thể phủ nhận chiếc vòng tay này vô cùng xinh đẹp. Mỗi viên đá quý đều to bằng đầu ngón tay cái, những mảnh vụn đá quý được khảm xung quanh, toát ra thứ ánh sáng lóa mắt dưới ánh đèn mờ mờ, dường như có ma lực nào đó.
Đeo mấy hôm chắc cũng không sao nhỉ?
“Tặng tôi thật sao?”. Cuối cùng Tô Vãn Lạc hỏi lại cho chắc chắn.
“Đúng thế”. Gã chủ tiệm mỉm cười: “Có một điều mong quý khách nhất định phải nhớ kỹ, đó là sau khi đeo chiếc vòng này thì không được tháo ra, nếu không thứ em tìm được sẽ mất đi một lần nữa”.
Tô Vãn Lạc gật đầu, đưa tay trái ra, gã chủ tiệm cúi đầu đeo chiếc vòng lên cổ tay trắng ngần thanh mảnh của cô gái và tỉ mỉ đóng nút khóa lại.
Cổ tay có cảm giác mát lạnh.
Mưa bên ngoài tạnh hẳn, ráng chiều giăng khắc trời, đỏ tươi như lửa cháy.
Thứ Bảy ngày tháng năm , trời nhiều mây chuyển mưa nhỏ
Tô Vãn Lạc bị tiếng đục tường ồn ào ở tầng trên đánh thức. Nhìn trần nhà màu trắng, trong đầu dường như có ai đó đang ra sức đẽo đục.
Tiếng sửa chữa nhà cửa nhức đầy quá! Cô chán nản đưa tay xoa huyệt Thái Dương đang râm rẩm đau. Chiếc vòng ở cổ tay kêu lách cách, lúc này cô mới nhớ ra hôm qua có người tự nhiên tặng cô một chiếc vòng tay.
Cô giơ tay trái lên ngắm nhìn những viên đá quý nhiều màu sắc trên đó dưới ánh nắng sớm đang chiếu vào phòng, đá Thác Bạc màu vàng cam như lê tuyết, đá Thạch Lựu màu đỏ tía rực rỡ như rượu nho, đá Cảm Lãm xanh như Tổ Mẫu Lục, đá Nguyệt Quang màu trắng sữa có quầng sáng xanh bạc… Ấy? Sao chỉ còn bốn viên đá quý thế này?
Tô Vãn Lạc vội vã thu dọn phòng với tốc độ nhanh chưa từng có, nhưng không tìm thấy viên đá quý nào. Cô nhớ rất rõ tối qua khi đi ngủ trên vòng tay vẫn còn năm viên đá quý.
Lẽ nào… đúng như lời gã chủ tiệm nói? Mỗi khi tìm được một đồ vật bị mất, sẽ có một viên đá quý biến mất?
Viên biến mất là đá Hắc Diệu mắt cầu vồng.
Nhưng trong chiếc cặp đang phơi ngoài ban công vẫn không có chiếc ô cô làm mất hôm qua.
Quả nhiên là lừa gạt. Chút hy vọng vừa lóe lên trong lòng Tô Vãn Lạc lại bị dập tắt.
Cô lại gửi gắm hy vọng vào một chiếc vòng tay chứ… Cô đúng là hết thuốc chữa, ra ngoài mua một chiếc ô đền cho cậu ấy còn thiết thực hơn…
Tô Vãn Lạc vò mái tóc rối bù như tổ chim, đi qua phòng khách, đang định vào bếp kiếm chút gì ăn thì thoáng nghe thấy có tiếng chó kêu ngoài cửa vọng vào.
Chuyện gì thế? Cô nhớ khu chung cư này cấm nuôi chó mà.
Tô Vãn Lạc nghi hoặc mở cửa rồi sững lại ngay tại chỗ, sau đó mừng rỡ kêu lên: “Mẹ ơi! Mẹ ơi! Khả Lạc về rồi!”.
“Con nói linh tinh gì thế? Làm sao Khả Lạc tìm tới đây được? Chẳng phải nó đi lạc rồi sao?”. Mẹ Tô lau tay bước từ trong bếp ra.
“Không! Là Khả Lạc đó mẹ, đây chắc chắn là Khả Lạc!”. Tô Vãn Lạc ôm lấy chú chó đang lao vào lòng cô. Chú chó nhỏ lông trắng như tuyết, bên miệng có một nhúm lông đen, nghịch ngợm như ăn vụng không chùi sạch mép, tạo hình độc nhất vô nhị thế này ngoài Khả Lạc của cô ra thì còn ai nữa chứ?
“Khả Lạc, em bẩn quá. Nào, chị dẫn em đi tắm”. Tô Vãn Lạc vui vẻ ôm Khả Lạc đang sủa không ngừng vào phòng tắm, cô không để ý tới sắc mặt lạ lùng khác hẳn với mọi ngày của mẹ cô.
Tắm cho Khả Lạc sạch sẽ thơm tho xong, Tô Vãn Lạc lấy máy sấy sấy lông cho nó, đột nhiên cô nhớ ra Khả Lạc cũng là một trong “những vật cô làm mất”.
Khả Lạc bị lạc mất trước khi nhà cô chuyển tới chung cư mới, đã hai năm rồi, bằng cách nào nó tìm được tới đây vậy?
Lẽ nào… thực sự do sức mạnh của chiếc vòng này?
Cô cúi đầu nhìn chiếc vòng bị khuyết mất ba viên đá quý, tim đập loạn xạ.
E rằng chiếc vòng này thật sự có ma lực, chỉ là không tìm lại được chính xác thứ cô muốn mà sẽ lần lượt tìm lại những thứ cô làm mất.
Trên chiếc vòng vẫn còn bốn viên đá quý, điều đó có nghĩa cô vẫn còn cơ hội tìm lại bốn thứ bị mất.
Bốn thứ, cô đã bị mất rất nhiều thứ! Nên tìm lại thứ gì bây giờ?
Tô Vãn Lạc kích động suy nghĩ, Khả Lạc vui vẻ lăn qua lăn lại trên giường, chốc chốc lại liếm má cô, thân thiết vô cùng.
“Đừng nghịch nữa, Khả Lạc. Đói lắm rồi hả? Để chị tìm xem có gì ăn không, ngoan ngoãn ở đây. Ngồi xuống”. Tô Vãn Lạc ra lệnh một tiếng, chú chó nhỏ ngoan ngoãn ngồi xuống như trước đây, thè lưỡi ra như muốn nịnh cô.
Bỗng dưng Tô Vãn Lạc như được trở về mấy năm trước, khi đó bố cô vẫn chưa thăng chức, gia đình ba người và Khả Lạc chen chúc trong một căn phòng chật hẹp. Cuộc sống vất vả, mặc dù chỉ có Khả Lạc bên cạnh nhưng Tô Vãn Lạc vẫn cảm thấy rất vui.
Cô ra lệnh gì Khả Lạc đều ngoan ngoãn tuân theo không biết mệt mỏi. Mỗi chiều tà cô đều dẫn theo Khả Lạc ra ngoài đi dạo một vòng, người và chó thường ngồi trên chiếc ghế dài ngắm ánh tịch dương đang dần khuất phía chân trời.
Khi cô cô đơn, Khả Lạc sẽ dùng cơ thể nhỏ bé ấm áp của mình nép vào người cô. Khi cô buồn, nó sẽ dùng chiếc lưỡi ấm nóng liếm lòng bàn tay cô, dùng hết sức để mang lại chút an ủi dù chỉ là nhỏ bé cho cô.
Nó luôn lặng lẽ ở bên cô như vậy, bất kể khi cô vui vẻ hay buồn đau. Đối với cô mà nói nó là thú cưng, đồng thời cũng như cậu em trai cùng cô lớn lên.
Hồi ức đẹp đẽ được gợi nhớ lại khiến khóe môi Tô Vãn Lạc cong lên, cô vỗ vỗ đầu Khả Lạc rồi quay người đi xuống bếp, thấy mẹ mình không có ở đó.
Lúc đi qua phòng khách, Tô Vãn Lạc thấy cửa lớn khép hờ, tò mò tiến lại gần bất chợt nghe được những chuyện cô không ngờ tới.
“Bố nó này, Khả Lạc về rồi! Làm sao bây giờ? Đúng thế, em không nhìn nhầm, chắc chắn là Khả Lạc. Hồi đó… chẳng phải anh đưa nó về quê rồi sao? Làm sao nó trở lại đây được? Đúng thế! Khu chung cư này không được nuôi chó mà. Hay là, anh vứt nó đi một lần nữa… thì lại nói với Vãn Vãn là bị mất thôi! Con rất ngoan, chúng ta nói gì nó cũng tin…”.
Cái gì? Tô Vãn Lạc đứng trong bóng tối bên cửa, chấn động như bị sét đánh.
Người đang khẽ nói chuyện kia đúng là mẹ cô sao? Vậy tạ sao… mẹ lại nói những điều lạ lùng này? Không phải tự Khả Lạc đi lạc? Là do người bố trông rất hiền từ của cô vứt bỏ ư?
Tô Vãn Lạc dường như có thể tưởng tượng ra cảnh Khả Lạc bé nhỏ năm đó ra sức đuổi theo xe của bố cô, ra sức chạy, cuối cùng chỉ biết nằm bò ra đường tuyệt vọng, yếu ớt nấc nghẹn…
Nước mắt trào ra mà không hề báo trước, cô đưa tay lau nước mắt nhưng không hiểu sao, chiếc vòng móc vào đầu chỉ trên áo, khóa tự nhiên bung ra.
Chiếc vòng rơi xuống đất, những lời gã chủ tiệm trẻ tuổi nói bất giác vang vọng bên tai “Có một điểm mong quý khách nhất định phải nhớ kỹ, đó là sau khi đeo chiếc vòng này thì không được tháo ra, nếu không những thứ em tìm được sẽ mất đi một lần nữa”.
Cô vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của câu nói này, đúng lúc tầm mắt đang nhòe đi, cô thấy một bóng hình bé nhỏ màu trắng chạy qua phòng khách, chạy qua hành lang, chạy ra ngoài từ khe cửa.
“Khả Lạc”. Tô Vãn Lạc vội vã đuổi theo.
“Vãn Vãn! Thay dép lê đã rồi hẵng ra ngoài”, mẹ cô thất thanh gọi phía sau, sao nghe mà đáng ghét tới vậy.
Tô Vãn Lạc lau những giọt nước mắt đang tuôn rơi, rảo bước chạy xuống dưới lầu nhanh hơn, đuổi theo ra ngoài. Cô nhất định phải tìm được Khả Lạc! Tuyệt đối không thể để mất nó một lần nữa!
Chiều tà, có hai bà đi chợ về chuyện phiếm với nhau.
“Cô bé kia sao vẫn tìm con chó bị lạc nhỉ?”.
“Tối qua nghe nói ở con phố phía trước có một con chó bị xe cán chết! Đúng lúc tôi đi qua nhìn thấy, đúng là thảm không dám nhìn! Con chó màu trắng, bên khóe miệng có nhúm lông đen, đáng yêu lắm”.
Tô Vãn Lạc đi qua hai người họ như người mất hồn, cô đã không phân biệt nổi rốt cuộc đâu là ảo giác, đâu mới là thực tế…
Thời tiết bên ngoài không đẹp, gió rất lớn, rất lớn, lớn tới mức có thể thổi khô những vệt nước mắt trên má cô.
Nhưng chẳng bao lâu sau, nước mưa rơi xuống, chảy qua má cô thay những giọt nước mắt.
Đá Hắc Diệu: Còn có tên khác là “nước mắt Apache”. Trong truyền thuyết của Indian, một đội quân bị trúng mai phục của kẻ địch, quân ít không đấu được địch nhiều, toàn quân bị tiêu diệt. Tin dữ truyền về, người thân đau đớn rơi lệ, nước mắt rơi xuống đất liền biến thành những viên đá nhỏ màu đen. Còn được gọi là đá quý không rơi nước mắt nữa, ai có viên đá màu đen này sẽ mãi mãi không bao giờ khóc nữa. Bởi vì thiếu nữ Apache đã khóc cạn nước mắt thay bạn, tặng đá Hắc Diệu cho người bạn thích, với hàm ý không bao giờ khóc, luôn hạnh phúc, vui vẻ.
Chủ nhật ngày tháng năm , trời âm u có lúc mưa rào.
Trời vừa sáng Tô Vãn Lạc đã tỉnh dậy. Chính xác hơn, cả tối qua cô không tài nào ngủ nổi. Cứ nhắm mắt lại là nhìn thấy bộ dạng ngoan ngoãn của Khả Lạc.
Hôm qua cô đội mưa lang thang ở ngoài cho tới khi trời tối, cho đến khi bố cô cầm tay lôi về nhà cô vẫn chưa tìm thấy Khả Lạc. Trước sự lo lắng của bố mẹ, cô không nói gì cũng không hỏi gì. Cô rất sợ, hỏi rồi có thể thay đổi được điều gì chứ? Cô sợ hình tượng hoàn hảo của bố mẹ trong lòng mình sẽ sụp đổ từ đây.
Cô thà coi như mình không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì.
Tiếng sửa chữa trên tầng lại vang lên đúng giờ, lần này đổi thành tiếng khoan điện còn nhức óc hơn. Tô Vãn Lạc đầu đau như búa bổ ngồi dậy, mắt liếc nhìn chiếc vòng trên cổ tay.
Tối qua cô đấu tranh tâm lý một hồi, cuối cùng vẫn đeo lại chiếc vòng, cô nghĩ như thế này… Khả Lạc có thể sẽ trở về? Cô đếm, quả nhiên lại thiếu mất một viên đá quý. Lần này là viên Thác Bạc màu vàng cam như lê tuyết. Tô Vãn Lạc vội vàng xuống giường chạy ra ngoài cửa, không ngừng đóng mở cửa, nhưng không thấy bóng dáng Khả Lạc đâu.
Như người mất hồn đứng đợi ở cửa một tiếng đồng hồ, Tô Vãn Lạc mới nghe lời mẹ vào nhà. Vừa đẩy cửa bước vào, cô phát hiện trên bàn học đặt một hộp băng ghi hình nhỏ.
Tô Vãn Lạc cầm lên xem, trên hộp ghi - Tiệc sinh nhật mười lăm tuổi của Vãn Vãn.
Đúng rồi, năm sinh nhật mười lăm tuổi, lần đầu tiên cô và bạn bè tới KTV tổ chức sinh nhật. Cuộn băng ghi hình này được thu vào lúc đó. Đáng tiếc sau khi chuyển nhà xong không thấy nó nữa, lẽ nào… đây là món đồ thất lạc do viên đá Thác Bạc tìm lại?
Vì cuộn băng không thể mở bằng máy tính nên Tô Vãn Lạc đành lục tìm chiếc máy quay cũ, sau khi cắm điện cô liền nhét băng vào.
Kỳ Kỳ, Mân Tử, Ưu Nhi… những gương mặt quen thuộc và thơ ngây xuất hiện trên màn hình bé xíu của máy quay, tiếng cười vui và tiếng hát hò không ngừng vang lên, những gương mặt thiếu nữ đã mơ hồ từ lâu giây phút này lại dần trở nên rõ nét.
Tiếng cười nói vui vẻ phát ra từ máy quay khiến Tô Vãn Lạc tạm thời quên đi nỗi đau mất Khả Lạc, nụ cười nở trên khóe môi, trong đầu dần xuất hiện những cảnh tượng về ba người bạn tốt của mình. Kỳ Kỳ luôn được người khác yêu mến, nụ cười trên khuôn mặt ngọt ngào như mật; Mân Tử tính tình phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết, là đứa con gái giỏi kết thân với đám con trai nhất lớp; còn Ưu Nhi là người xinh đẹp nhất lớp, cứ cách một thời gian lại mặc những bộ cánh, đi những đôi giày thời thượng nhất tới lớp, ngay cả balo cũng chỉ đeo một mùa rồi đổi.
Còn cô đứng bên cạnh ba người bạn thân nổi bật, để tóc mái và tóc đuôi ngựa rất ngố, rõ là sinh nhật của mình nhưng lại mặc bộ đồng phục cũ kỹ nhàu nhàu, vừa vụng về vừa ngượng ngùng, ngoài thành tích học tập ưu tú ra thì không có ưu điểm nào khác.
Trong băng ghi hình, cô nữ sinh ngây ngô có nụ cười e ấp đứng giữa ba cô bạn ai cũng có điểm nổi bật riêng lại lạc loài đến vậy. Thậm chí cô không hát một bài nào, chỉ ngồi trong góc ra sức vỗ tay.
Tại sao cùng chơi đùa với bạn bè mà trông cô lại giữ kẽ tới vậy? Tại sao những người được coi là bạn tốt này lại không hề nhìn thẳng vào cô lấy một cái? Tại sao buổi tiệc sinh nhật vui vẻ trong ký ức của cô nhiều năm sau nhìn lại bỗng trở nên khó chịu và sượng sùng thế này?
Nghĩ tới đây nụ cười trên môi Tô Vãn Lạc dần đông cứng lại, dường như sau buổi tiệc sinh nhật này cô và bạn bè đã cắt đứt liên lạc. Mặc dù có gọi điện cho họ vài lần nhưng chẳng ai đồng ý cùng cô đi dạo phố hay đi chơi cả… có lẽ vì họ học những trường cấp ba khác nhau, không có thời gian tụ tập, cô tự an ủi mình như vậy.
Tô Vãn Lạc chăm chú xem hết cuộn băng, cho đến khi chỉ còn hình muỗi xèo xèo, cô cũng không vội tắt đi mà chìm vào suy nghĩ.
“Lộp bộp”, khóa của chiếc vòng tay chợt bung ra, rơi xuống bàn.
Trái tim Tô Vãn Lạc cũng giật thót theo tiếng rơi giòn tan, câu dặn dò của gã chủ tiệm đồ cổ vẫn vang vọng bên tai, nhưng cô cảm thấy mình quá dễ giật mình. Chí ít cuộn băng cũng không tự mình chạy ra ngoài được.
Đúng lúc cô đang cười nhạo bản thân thì màn hình muỗi biến mất, tiếp theo đó là hình ảnh rõ nét.
Trước ống kính là Kỳ Kỳ. Trên gương mặt cô ấy không còn nụ cười ngọt ngào nữa, thay vào đó là sự khinh miệt: “Vãn Vãn, có lẽ chẳng bao giờ cậu xem được đoạn ghi hình này đâu, nhưng chúng tôi vẫn muốn nói ra. Thực ra chúng tôi rất ghét làm bạn với cậu”.
“Đúng thế. Cậu là lớp trưởng, là học trò cưng của cô giáo, không lấy lòng cậu thì chúng tôi chép bài của ai được chứ?”. Lần này người lên tiếng chính là cô gái nhìn không có chút toan tính, luôn thích cười lớn - Mân Tử. Nụ cười luôn khiến Tô Vãn Lạc cảm thấy tươi sáng như mặt trời trong giây phút này lại gai mắt tới vậy.
“Thực ra bọn tôi đều ghét cậu, cậu ăn mặc quê mùa, ăn nói cứng nhắc, đi cùng với cậu bọn tôi còn sợ bị rớt giá. May mà sắp tốt nghiệp rồi, không cần phải qua lại với cậu nữa”. Gương mặt trang điểm kỹ càng của Ưu Nhi khó chịu nhìn ống kính nói.
“Ấy ấy, cậu nói thẳng thế Vãn Vãn không chịu được đâu. Hi hi hi”.
“Sao có thể? Chủ ý này chẳng phải cậu nghĩ ra sao?”.
“Mau lên mau lên. Nó đi thanh toán sắp quay lại rồi”.
Màn hình lắc lư rồi trở lại thành màn hình muỗi. Căn phòng tĩnh lặng như chết, dường như những tiếng ồn ào ban nãy đến từ một thế giới khác.
Tô Vãn Lạc thẫn thờ ngồi thừ người ra đó cho đến khi đoạn băng chạy hết, máy quay cũng dừng lại.
Bọn họ đang nói gì thế? Tại sao cô không hiểu tiếng nào vậy? Năm xưa người nhất quyết muốn làm bạn với cô chẳng phải cũng là bọn họ sao?
Tiếng máy khoan điện trên tầng lại vang lên lần nữa mà không hề báo trước, đánh thức Tô Vãn Lạc đang chìm trong ác mộng, cô ôm chặt đầu, chỉ cảm thấy trái tim và đầu óc đau lắm, đau lắm…
Trong phòng khách, bố mẹ cô đang ngồi xem ti vi.
Bố cô lo lắng nói: “Hai hôm nay Vãn Vãn lạ lắm, không phải nó lại ra ngoài tìm Khả Lạc đấy chứ?”.
“Chắc không đâu, em vừa thu dọn phòng, tìm thấy cuộn băng quay tiệc sinh nhật mười lăm tuổi của con nên đặt trên bàn con rồi”. Mẹ cô vui mừng nói: “Có lẽ con sẽ mau chóng đi chơi với đám Kỳ Kỳ thôi, con bé này từ nhỏ chẳng có bạn bè gì nên mới coi trọng một con chó như vậy”.
“Hả? Cuộn băng bị mất lâu lắm rồi mà tìm thấy à?”.
“Đúng thế, nhưng đặt cùng hộp cờ tướng nam châm, có lẽ cuộn băng bị mất từ tính, không phát nổi đâu…”.
Đá Thác Bạc: Được gọi là “Viên đá của tình bạn”, đại diện cho tình yêu chân thành và kiên định, có nghĩa xinh đẹp và thông minh. Tượng trưng cho sự giàu có, sinh khí, có thể tiêu tan mệt mỏi, có thể khống chế cảm xúc, có tác dụng hỗ trợ xây dựng lòng tin và mục tiêu.
Thứ Hai ngày tháng năm , nắng
Tô Vãn Lạc thẫn thờ ngồi trong lớp học, hôm nay cô tới trường rất sớm, sớm đến nỗi ngoài cô ra trong lớp không có một ai khác.
Có điều nói chính xác hơn, có người còn tới sớm hơn cô. Tô Vãn Lạc nhìn chỗ ngồi bên cạnh mình, cặp sách của bạn cùng bàn đã lặng lẽ nằm ở đó. Sáng sớm vì tập bóng rổ nên cậu ấy luôn là người đến sớm nhất lớp, vì vậy chìa khóa của lớp cũng luôn ở chỗ cậu ấy.
Tô Vãn Lạc thu mắt lại, nhìn cuộn băng mình mang tới đang đặt trên bàn, không biết tại sao cô lại mang theo món đồ mới tìm lại được bên mình, vòng tay rõ ràng bị rơi một lần nhưng cuộn băng này vẫn không biến mất.
Nhưng như thế có thể giữ lại được điều gì chứ? Tình bạn quý giá cô từng tưởng mình tìm lại được thực ra đã bị vứt bỏ từ rất lâu rất lâu rồi.
Bọn họ biết cô rất nhu nhược và cô đơn, khao khát tình bạn hơn ai hết. Họ nắm được điểm yếu này của cô nên gượng ép trở thành bạn bè với cô.
Mấy năm qua rồi, cô vẫn không thay đổi, thậm chí ngay cả dũng khí để đi tìm họ nói lý cũng không có. Giống như cô biết rõ Khả Lạc do bố mình bỏ rơi nhưng vẫn lựa chọn trốn tránh… Thực sự, cô rất ghét bản thân mình như thế này.
Tô Vãn Lạc vô ý đùa nghịch chiếc vòng trên cổ tay, sáng sớm nay tỉnh dậy viên đá Nguyệt Quang đã biến mất. Nhưng không giống hai lần trước, lần này cô không thấy vật gì đã mất của mình xuất hiện trở lại. Thậm chí, đến bây giờ vẫn chưa thấy.
Tô Vãn Lạc đang thừ người ra thì cậu bạn cùng bàn ôm bóng rổ đẩy cửa bước vào.
“Sao hôm nay vào sớm thế?”. Tô Vãn Lạc hỏi với vẻ không tự nhiên, ngày nào cậu ấy cũng luyện tập tới trước giờ vào lớp mới về.
Cậu bạn nhe răng cười: “Lúc ở sân tập tớ nhìn thấy cậu đến rồi. Cậu thì sao? Sao hôm nay đến sớm thế? Trước đây ngày nào cũng sát giờ vào mới thấy cậu tới”.
Tô Vãn Lạc vội cúi đầu, tay luống cuống mở cặp lấy chiếc ô cô mới mua ra, nhưng không ngờ cậu bạn lấy ra một chiếc ô từ trong ngăn bàn của mình.
“Cậu này. Tớ đã có ý tốt cho cậu mượn ô vậy mà cậu còn quên cầm”. Cậu bạn bực dọc nói: “May mà tớ gặp cô bạn ở cùng khu, nếu không việc tốt thì không thành, còn bị ướt như chuột lột nữa”.
Trước những lời tố tội của cậu bạn Tô Vãn Lạc chỉ biết câm nín. Cô nhớ rõ ràng mình đã cầm ô xuống dưới lầu, ai biết được sao nó lại xuất hiện trong ngăn bàn của cậu ấy?
Lẽ nào là chiếc vòng đã tìm lại thay cô?
“Tớ… tớ tưởng tớ làm mất rồi…”, Tô Vãn Lạc bối rối nói: “Chiếc ô mới này… tớ định mua đền cậu”.
Vẻ nghi hoặc trên khuôn mặt cậu bạn biến mất, cậu lắc đầu cười lớn: “Tớ phục cậu thật đấy! Sao cậu lại hồ đồ như vậy, vậy cậu về nhà bằng cách nào?”.
Hai má Tô Vãn Lạc càng lúc càng ửng hồng trong tiếng cười của cậu bạn. Cô không biết người con gái cùng cậu về nhà hôm ấy là thế nào với cậu? Giống như cô không biết thứ cuối cùng mình đánh mất là chiếc ô của cậu hay là chính cậu?
Tô Vãn Lạc nhu nhược không dám lên tiếng hỏi, thậm chí còn đặc biệt xác nhận lại lần nữa xem chiếc vòng trên cổ tay đã đeo chặt hay chưa. Nếu lần này cũng vậy, bất kể chiếc vòng có rơi xuống hay không, cô sẽ vẫn mất đi thứ đã tìm lại sao?
Cô ngẩn ngơ nghĩ ngợi, rốt cuộc từ bao giờ mình bắt đầu chú ý tới cậu?
Là lúc ở trên sân bóng rổ ngập nắng, cậu đập bóng rổ chạy về phía cô, trên gương mặt là nụ cười rạng rỡ? Là giữa lễ đường mấy nghìn người, cậu cất tiếng hát mà không hề e sợ? Hay là có lần vô tình hai người đưa mắt nhìn nhau, gần tới mức cô nhìn thấy bóng mình trong mắt cậu, từ đó khiến cô không dám nhìn vào mắt cậu nữa?
Cô xác định được trái tim mình, nhưng không xác định được trái tim cậu. Giống như chuyện của Khả Lạc hay những người bạn cũ, cô quá ngốc nghếch, mãi không bao giờ hiểu rõ rốt cuộc mình đang sống trong thế giới như thế nào.
Có lẽ, không nhận được đáp án mới chính là kết quả tốt nhất dành cho cô?
“Sao thế? Hôm nay hình như cậu không vui?”. Dường như cậu cảm nhận được sự im lặng khác lạ trong cô.
Cô nhìn mái tóc hơi dựng lên của cậu, khẽ hỏi: “Cậu có thứ gì thà nó mất đi chứ không muốn tìm lại không?”.
“Hả?”. Cậu không ngờ cô lại hỏi câu này.
“Mà. Mà thôi quên câu ban nãy đi”. Tô Vãn Lạc biết mình đã nói một câu kỳ quặc nên mím chặt môi không biết phải làm thế nào.
Cậu trầm mặc một hồi, khẽ đáp: “Hồi còn nhỏ, tớ nhìn thấy đứa nhóc nhà hàng xóm có một chiếc xe điều khiển từ xa rất ngầu, tớ ngưỡng mộ lắm, nên dùng tất cả tiền mừng tuổi của mình để mua nó. Tớ chơi ở ngoài suốt một buổi chiều, cảm giác thỏa mãn ấy cả đời này tớ không quên được. Chỉ là khi về nhà, anh chị họ biết tớ dùng hết số tiền mừng tuổi để mua chiếc xe này bèn cười nhạo tớ ngốc nghếch, và nói số tiền ấy đủ mua ba chiếc xe giống y hệt, tớ vừa xấu hổ vừa hối hận, lúc ấy liền òa khóc”.
Cậu ngượng ngùng gãi đầu: “Chiếc xe điều khiển từ xa này bị tớ nhét xuống dưới đáy hòm, không chơi nó nữa, mỗi lần nhớ lại việc này cảm giác xấu hổ và hối hận còn lớn hơn niềm vui mà chiếc xe mang lại cho tớ. Vì thế có lúc tớ nghĩ nếu khi ấy tớ bất cẩn đánh mất chiếc xe này thì hay biết bao. Như thế những gì còn lại trong lòng tớ cũng chỉ là chút tiếc nuối nhạt nhòa mà thôi”.
Tô Vãn Lạc nhìn cậu như hiểu ra điều gì, nhìn đến nỗi khiến cậu bạn cảm thấy mất tự nhiên.
“Xin lỗi, tớ ra ngoài một chút”. Tô Vãn Lạc đột nhiên đứng dậy chạy ra khỏi lớp.
“Này”. Cậu lo lắng gọi với theo, cuối cùng chỉ biết thở dài bất lực.
Cậu đưa mắt nhìn lớp học vắng tanh không một bóng người, nén ý định chạy đi tìm cô xuống.
Cậu đặt quả bóng rổ trong tay sang một bên, không phải lúc ở sân bóng rổ cậu nhìn thấy cô nên mới về lớp học, mà từ rất lâu rất lâu rồi, cậu rút ngắn một tiếng trong quỹ thời gian chơi bóng xuống.
Cậu lấy sách vở trong cặp ra, bắt đầu chăm chỉ học bài.
Cậu biết thành tích học tập của mình còn lâu mới theo kịp cô bạn cùng bàn là cô. Nhưng vì muốn cùng cô học chung trường đại học, nên bản thân cậu cắm đầu vào học như điên. Bởi vì đến khi ấy, cậu sẽ nói với cô những điều từ trước tới giờ mình không dám nói…
Đá Nguyệt Quang: Còn được gọi là “viên đá tinh nhân”, vì có “hiệu ứng ánh trăng” - giữa viên đá xuất hiện màu xanh tối hoặc màu trắng sáng của ánh trăng, mà đá Nguyệt Quang từ mấy thế kỷ trở lại đây chính là một trong những loại đá quý được yêu thích nhất, người ta tin rằng nó có thể đánh thức sự nhiệt tình dịu dàng của người trong lòng mình, đem tới tình yêu lãng mạn đẹp đẽ như ánh trăng.
Tô Vãn Lạc chạy ra khỏi trường, chạy một mạch tới cửa Á Xá mới dừng lại, thở hổn hển. Cô nhìn chiếc vòng chỉ còn lại hai viên đá quý, hít sâu một hơi rồi đẩy cánh cửa gỗ khắc cũ kỹ bước vào.
“Chào mừng quý khách”. Giọng nói nhã nhặn của gã chủ tiệm đồ cổ vang lên, khi nhìn thấy người bước vào là Tô Vãn Lạc, trên mặt gã không hề có vẻ ngạc nhiên, ngược lại, nụ cười như càng sâu thêm vài phần.
“Tôi… tôi muốn trả lại chiếc vòng này cho anh”. Tô Vãn Lạc đặt chiếc vòng lên quầy, sau đó lùi lại một bước như tránh rắn độc. Mặc dù là sáng sớm nhưng trong tiệm vẫn tối tăm, chỉ có hai ngọn nến trong hai chiếc đèn Trường Tín ở cửa nhảy nhót bên tay áo cung nữ.
“Ồ. Đã tìm được thứ em muốn tìm lại rồi chứ?”. Gã chủ tiệm nhìn chiếc vòng tay chỉ còn lại hai viên đá quý, vẻ thất vọng vụt qua đôi mắt phượng hẹp dài.
“Không, chưa tìm lại được”. Tô Vãn Lạc lắc đầu như trống bỏi: “Có điều, tôi không muốn tìm lại nữa”.
“Thế à?”. Gã chủ tiệm nhướn mày, tò mò hỏi: “Có thể nói cho tại hạ biết vì sao không?”.
Tô Vãn Lạc chăm chú nhìn chiếc vòng tay đang phát sáng lấp lánh trên quầy, trong tim vụt qua hình ảnh của Khả Lạc và mấy người bạn tốt, đau đớn nói: “Bởi vì tôi hiểu ra, những thứ đã mất đi, thực ra chưa bao giờ thực sự thuộc về tôi, tôi không cần hối hận và cũng chẳng cần nuối tiếc”.
Thậm chí cô còn không nghĩ tới cậu bạn cùng bàn nữa. Cô chưa bao giờ có được cậu ấy thì nói gì tới chuyện mất đi?
Thực ra ban nãy cậu ấy nói đúng, chiếc xe điều khiển từ xa của cậu ấy chỉ đại diện cho tuổi thơ chưa trưởng thành của cậu, giống như Khả Lạc và những người bạn của cô vậy. Cô vốn có thể cảm nhận được vấn đề nằm ở đâu, nếu năm đó cô nói rõ ràng với bố mẹ về chuyện của Khả Lạc, cởi mở tấm lòng trò chuyện với những người bạn tốt, thì sẽ không đau đớn khi phát hiện ra chân tướng sự việc.
Nhưng cô chẳng phát hiện ra điều gì cả, chỉ như con đà điểu trốn trong thế giới của chính mình. Chiếc vòng tay không làm gì cả, nó chỉ dẫn lối để cô nhìn rõ con đường đã qua mà thôi.
Và cô đã nhìn thấy rất rõ rồi.
Vì thế chiếc vòng tay không còn tác dụng với cô nữa.
“Hiểu rồi”. Gã chủ tiệm mỉm cười: “Vậy chúc em sau này sẽ không mất bất cứ vật gì nữa”.
“Chắc chắn thế”. Tô Vãn Lạc khẽ nắm hai bàn tay lại, kiên định bước ra khỏi cửa tiệm. Lần này cô muốn dùng sức mình nắm chặt những thứ đang có trong hiện tại, nỗ lực vì một tương lai không hối hận.
Gã chủ tiệm nhìn theo bóng lưng đã kiên cường lên nhiều của cô gái, như có điều suy nghĩ, cho đến khi bóng dáng ấy khuất khỏi tầm mắt, gã mới quay lại, cầm chiếc vòng tay đặt trên quầy lên ngắm nghía tỉ mỉ.
“Này, sao anh lại để cô ấy đi như vậy?”. Từ trong góc tối của tiệm đồ cổ một bóng người cao ráo từ từ bước ra. Đó là một chàng trai mặc áo blouse trắng, kiểu tóc thời thượng, ngoại hình tuấn tú. Anh ăn mặc rất thời thượng nhưng trên cổ lại đeo một sợi dây đỏ quê mùa, đầu sợi dây có đeo một miếng ngọc trắng như tuyết, sáng bóng, trên đó có bốn chữ “trường mệnh bách tuế” được khắc rất tinh tế.
Trên tay chàng trai đang ôm một chú chó màu trắng, bên khóe miệng có một nhúm lông màu đen, vô cùng đáng yêu.
Gã chủ tiệm cười nói: “Cậu cũng thấy rồi đấy, là cô ấy tự nói không hối hận và cũng không cần nuối tiếc những thứ mất đi”.
“Vậy còn chú chó này thì sao? Không trả cho cô ấy à? Tối qua anh vội vội vàng vàng gọi tôi tới vì muốn cứu chú chó này. Nhưng tôi là bác sĩ ngoại khoa chứ có phải bác sĩ thú y đâu”. Anh chàng đẹp trai bất mãn làu bàu. Chú chó trong lòng anh liếm liếm tay anh như muốn lấy lòng.
Gã chủ tiệm thấy vậy bèn cười nhạt: “Nhà cô ấy không cho nuôi chó, cho dù có trả lại cũng mang đi cho người khác thôi. Có điều nó khá thích cậu đấy, cậu nuôi luôn đi”.
Anh chàng đẹp trai cúi đầu nhìn chú chó trong lòng mình: “Nuôi mày cũng được, có điều cái tên Khả Lạc quê quá, gọi mày là Apache nhé!”. Gã chủ tiệm không quan tâm tới tên con chó, thứ gã quan tâm là chiếc vòng tay vừa trở về tay gã.
“Ế? Tối qua gặp anh, con rồng trên áo chẳng phải ở trên cánh tay phải của anh sao? Sao giờ chạy ra sau lưng rồi?”. Bác sĩ luôn tưởng rằng hôm nay gã chủ tiệm chỉ mặc một chiếc áo kiểu Trung Sơn màu đen giản dị, cho đến khi gã quay người lại anh mới giật mình phát hiện ra, sau lưng gã chủ tiệm là một con rồng màu đỏ thẫm đang uốn lượn, chiếm cả tấm lưng của gã, đang nhìn chằm chằm vào cái gáy trắng bóc của gã. Do được thêu vô cùng tinh tế nên dưới ánh sáng mờ mờ, thoạt nhìn con rồng này sống động như thật.
“Cậu nhìn nhầm rồi”. Gã chủ tiệm không quay đầu lại, thản nhiên nói.
“Không, làm sao tôi có thể nhìn nhầm được?”. Bác sĩ nói chắc nịch. Anh là bác sĩ đấy! Làm sao có thể nhìn nhầm một bộ quần áo được? Đặc biệt là con rồng trên chiếc áo kiểu Trung Sơn này sống động như thật, muốn người ta quên cũng khó.
Gã chủ tiệm trầm ngâm một hồi: “Đây là bộ khác, bộ hôm qua với bộ hôm nay tôi mặc không phải một bộ”.
Sự ngập ngừng đáng ngờ… bác sĩ chau đôi mày đẹp đẽ của mình lại, từ từ lại gần gã chủ tiệm, nghiên cứu tỉ mỉ con rồng trên người gã.
Gã chủ tiệm kéo giãn khoảng cách một cách tài tình, chuyển ngay chủ đề: “Đáng tiếc cho chiếc vòng Hương Phi này quá, chỉ khi các viên đá quý đều biến mất thì mới tu luyện viên mãn. Bỏ lỡ cơ hội lần này, lần sau muốn thấy ánh mặt trời e là phải đợi một trăm hai mươi lăm năm nữa”.
Khóe miệng bác sĩ giật giật, ngượng ngùng cười: “Anh đúng là chỉ hay nói những lời lừa người. Cứ như là có chuyện này thật vậy”.
Gã chủ tiệm trịnh trọng đặt chiếc vòng tay vào trong hộp, quay đầu lại mỉm cười đáp: “Tôi không bao giờ nói dối, thật đấy”.
Đúng lúc gã nói những lời này, con rồng đỏ sau lưng gã lặng lẽ nhe nanh sắc…
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
1
Mây đen che kín mặt trời, cơn cuồng phong nổi lên cuốn theo trận tuyết lớn đổ xuống, Thang Viễn xuống xe bus, có một cô lớn tuổi tốt bụng cùng trên xe gọi cậu vào căn nhà phía đối diện tránh gió tuyết nhưng cậu từ chối, siết chặt lại chiếc áo phao trên người, xác nhận hai xiên kẹo hồ lô và bánh ngọt trên người vẫn chưa rơi mất, rồi đội mũ trùm kín đầu đi ra ngoài trời gió tuyết.
"Ái dà! Người lớn nhà nào mà ác thế, bắt thằng bé một mình đi ra ngoài...". Tiếng làu bàu của bà cô bị gió tuyết thổi bạt đi, dần dần chỉ còn nghe thấy loáng thoáng. Thang Viễn lau tuyết bám trên mặt, lập tức gương mặt nhỏ bé đỏ ửng lên như trái táo vì lạnh.
Mỗi lần lên phố đi chợ cậu đều than thở vì sao mình lại ở một nơi hẻo lánh thế này, nhưng Thang Viễn chỉ dám giận mà không dám nói, chính cậu là người muốn ra ngoài, chẳng như vị tổ tông thần tiên thoát tục trong nhà cậu kia, mà dù sao cậu cũng không dám cho vị tổ tông đó ra ngoài!
Lại đội trời tuyết men theo đường núi đi một hồi lâu, Thang Viễn chỉ là một cậu bé mười tuổi, nhưng dù một mình đi đường núi cậu cũng không hề sợ hãi, thậm chí còn rất thông thuộc địa hình nơi đây. Cho dù tuyết lớn chắn tầm nhìn, cậu vẫn dễ dàng tránh được những ổ voi giữa đường hoặc những tảng đá sắc nhọn. Cậu đi sâu vào trong khu rừng thêm mười mấy phút nữa, sau khi đi vòng qua khu rừng rậm, Thang Viễn đã nhìn thấy một góc mái của căn nhà nhỏ quen thuộc dưới tán cây hòe đã lộ ra.
Căn nhà nhỏ này nhìn rất bình thường, giống như căn nhà tường trắng mái đỏ mà nông dân bình thường hay dựng trong núi. Chỉ có điều vì đã lâu năm, nên ngói trên mái nhà đã bay màu, tường trắng cũng đã xỉn lại, nhìn có vẻ như lâu lắm không có người đến ở.
Sau khi nhìn thấy căn nhà nhỏ, Thang Viễn không giảm tốc độ, mà còn chạy nhanh hơn, khi sắp sửa đâm sầm vào hàng rào bên ngoài căn nhà, cậu mới đưa tay ra chống lên hàng rào, cơ thể loắt choắt nhanh nhẹn nhảy phắt qua rào, hai chân đáp đất nhẹ nhàng.
Sau đó lại một tiếng "bộp" vang lên, cậu cúi đầu nhìn, lập tức nhăn nhó lại, cậu vội vàng nhặt cây kẹo hồ lô lên, ban nãy cậu nhảy mạnh quá nên rơi xuống đất. May mà lúc mua cậu đã bảo người bán hàng gói một lớp giấy bản bên ngoài, nên cái kẹo mới không dính bẩn.
Thang Viễn rũ sạch tuyết bám trên đầu, trên người, rồi mới đẩy cửa đi vào. Trời tuyết mờ mịt bị nhốt bên ngoài sau cánh cửa gỗ, khiến cậu lập tức cảm thấy ấm áp. Cậu vừa đi vào trong nhà, vừa cởi áo, nào áo phao, áo khoác, găng tay, áo giữ nhiệt... Khi cậu ra đến sân sau nhà, thì trên người chỉ còn mỗi cái may ô với quần cộc.
Thang Viễn cầm hai xiên kẹo hồ lô và túi bánh ngọt, ngắm nhìn cảnh sắc mà dù cậu nhìn bao nhiêu lần vẫn phải cảm thán, rồi lật đật trở lại trong nhà. Hiện giờ đang giữa mùa đông, mà phía sân sau ấm áp như mùa xuân, giống như trên trời cổ một tấm kính vô hình chụp xuống, ngăn cách hoàn toàn với cái giá lạnh ngoài kia. Trong vườn hoa cỏ mọc xanh mướt, trăm hoa đua nở, thật không khác gì cảnh sắc mùa hè.
Cái hậu hoa viên này với căn nhà ngói kia chẳng hợp nhau tí nào, nó giống như bỗng nhiên đi từ hoang mạc phía bắc đến vườn cảnh Tô Châu, những hòn giả sơn, cây cầu nhỏ bắc qua lạch nước, những mái lương đình, những gác mái, tuy đều nhỏ nhắn, nhưng không thiếu thứ gì, có thể thấy chủ nhân rất dụng công xây dựng. Thậm chí bên dưới lương đình, còn có một khe nước suối, đang bốc hơi nước nghi ngút, nhìn như tiên cảnh.
"Bánh Trôi, con về rồi à?" Khi Thang Viễn đang nhìn ngắm một chú ong mật hút mật ở nhụy hoa mẫu đơn, thì một giọng nói nhẹ nhàng cất lên khiến cậu giật mình.
"Tôi không phải là bánh trôi! Là Thang Viễn! Thang Viễn! Mau gọi tôi là Thang Viễn! Nếu không tôi sẽ không đưa ông kẹo hồ lô đâu!" Thang Viễn nhảy lên, đi qua cây cầu nhỏ bắc trên lạch nước, trèo lên hòn giả sơn, nhìn thấy trong lương đình có một chàng trai trẻ tuổi đang ngồi quay lưng lại với cậu, đang đánh cờ vây. Người đó mặc chiếc áo đạo sĩ bằng the màu xanh đậm của thời cổ, cổ giao lĩnh, ống tay lớn, bốn phía có hoa văn cuốn màu xanh, nhìn kỹ thì trên áo còn thêu tám quẻ Chu Dịch, sắp xếp theo một cách rất kỳ bí.
Người này có mái tóc đen dài, đến gần nhìn thì còn thấy mái tóc ấy hơi có ánh màu xanh. Phần lớn mái tóc chỉ được búi tạm một cách lỏng lẻo, dùng ba chiếc trâm ngà cài đại lên, rủ xuống trước ngực, mượt mà như một súc lụa thượng hạng. Nghe tiếng bước chân mỗi lúc một gần của Thang Viễn, anh ta cũng quay đầu lại.
Chàng trai trẻ nhìn rất tuấn tú, da trắng, lông mày dài, thanh tú như một bức tranh thủy mặc trang nhã, chỉ có điều ở giữa đôi lông mày lại có một cái sẹo đỏ thẫm khá ghê rợn, phá hỏng hết cả gương mặt, người khác nhìn vào phải xuýt xoa tiếc nuối, mà anh ta luôn nhắm mắt, rõ ràng mắt có tật, đã bị mù.
"Bánh Trôi, cái kẹo hồ lô trên tay con sắp chảy hết rồi". Anh ta tiếc nuối than thở.
"Ái dà!" Thang Viễn lập tức tỉnh lại, sức nóng ở hậu hoa viên chẳng khác gì mùa hè, chiếc kẹo hồ lô đã đóng băng, nhưng đường bên ngoài vẫn nhanh chóng bị chảy, lớp giấy bản bên ngoài bị đường chảy dính lại.
Vị đạo sĩ trẻ tuổi khẽ mỉm cười, như là nhìn thấy được thật, lấy một xiên kẹo hồ lô trên tay Thang Viễn ra một cách chính xác, thò ra ngoài lương đình.
Vị trí của lương đình là ở rìa ngoài cùng của khoảng sân, bên ngoài vẫn là những bông tuyết lớn đang bay tán loạn, chiếc kẹo hồ lô theo tay người cầm, như vừa chọc thủng lớp che chắn vô hình, lập tức phơi ra ngoài trời đang hơn âm hai mươi độ C.
Thang Viễn vừa nhìn theo đã lập tức mở to mắt, cậu lật đật chạy tới phía bên kia chiếc bàn đá ngồi xuống, bỏ bánh trái trong tay xuống bàn, rồi cũng học theo vị đạo sĩ trẻ tuổi, lấy chiếc kẹo hồ lô của cậu phơi ra phía ngoài lương đình, sau khi đếm từ một đến mười, mới lấy vào, bóc lớp giấy bản bên ngoài ra, quả nhiên chiếc kẹo hồ lô đã đông cứng trở lại.
"Chiêu này hay thật! Ông quả là một tên tham ăn có trình độ!" Thang Viễn cắn quả táo gai trên cùng, vì quả táo gai đã bị đông cứng lại, mồm cậu không nhai được, nên đành liếm lớp đường bên ngoài. "Này! Ông kể chuyện đi, ngồi không chán quá! Ở chỗ thâm sơn cùng cốc này chẳng bắt được tín hiệu tivi, trời thì đổ tuyết lớn quá!"
Vị đạo sĩ trẻ tuổi rất thoải mái với Thang Viễn, không thèm để ý đến cách ăn nói theo kiểu cá mè một lứa của cậu, còn tốt bụng sửa cho cậu: "Bánh Trôi, con nên gọi ta là sư phụ".
Thang Viễn khịt khịt mũi liên tục: "Không! Khi nào ông không gọi tôi là Bánh Trôi nữa, tôi sẽ gọi ông là sư phụ!"
Vị đạo sĩ trẻ tuổi cười nhẹ nhàng: "Khi ta tìm được con, trông con tròn trắng rất đáng yêu, không phải là giống bánh trôi sao?"
"Nhưng bây giờ tôi lớn rồi!" Thang Viễn bực tức gặm cái kẹo hồ lô trong mồm, cậu cằn nhằn.
"Này... chẳng phải con muốn nghe kể chuyện sao? Vậy thì ta kể cho con nghe chuyện ngày xưa ta nhận đệ tử...". Đạo sĩ trẻ tuổi lấy chiếc kẹo hồ lô về, bóc lớp giấy bản bên ngoài, mọi động tác đều rất nho nhã, "Ngày xưa, ờ... từ rất rất lâu rồi, đại đệ tử mà ta thu nhận, là người nước Triệu".
"Người nước Triệu? Bây giờ chỉ có người Trung Quốc thôi chứ!"
"Ấy... đã bảo là từ rất lâu rồi mà. Khi đó vẫn còn nước Triệu".
"Nước Triệu? Ông nghĩ tôi không đi học nên không biết gì à? Những sách trong thư phòng của ông, quyển nào tôi đọc được là đọc hết rồi nhé! Chỉ có Chiến Quốc thất hùng mới có Triệu thôi! Đó là bao nhiêu năm trước rồi hả?"
"À, thực ra sau khi Tần bị diệt, dòng dõi nước Triệu cũng vẫn tự xưng vương, nhưng rồi bị Hàn Tín tiêu diệt... Ồ, lại lạc đề rồi, không phải con muốn nghe kể chuyện sao? Cứ so đo như thế thì sao ta kể tiếp được?"
"Được được rồi, ông tiếp tục đi, đại sư huynh của tôi là người nước Triệu, rồi sao nữa?" Thang Viễn hừ một tiếng, miễn cưỡng đồng ý để nghe tiếp. Lúc này cậu lại phát hiện ra đường trên kẹo hồ lô bắt đầu chảy tiếp, cậu lại thò chiếc kẹo hồ lô ra ngoài lương đình. Kẹo hồ lô nhanh chóng bị tuyết phủ lên, quả táo gai cùng với bông tuyết lung linh dường như trở thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo.
Hờ! Đây mới là cách ăn kẹo hồ lô đúng đắn nhất! Cách ăn kẹo ngày xưa của cậu quả là không ăn thua!
Dáng điệu ăn kẹo hồ lô của đạo sĩ trẻ tuổi cũng rất nho nhã, lấy móng tay vạch hai nhát trên xiên kẹo hồ lô đã đông cứng, quả táo gai trên cùng ngoan ngoãn cắt thành bốn miếng, bay lên không trung. Anh bắt dính ngay một miếng bỏ vào miệng, vừa từ tốn ăn kẹo, vừa chậm rãi kể: "Năm xưa sư phụ con đi qua nước Triệu, đại sư huynh của con mới chỉ là một đứa trẻ, nó mời ta ăn một chiếc kẹo hoa quế, ta cho rằng đứa bé này rất có tiền đồ, liền thu nhận làm đại đệ tử".
Thang Viễn cảm thấy cạn lời, có thế mà cũng nhận được đệ tử? Một viên kẹo hoa quế mà đã lừa được một sư phụ "oách" thế này à? Đại sư huynh của cậu thật là may mắn! Không, phải nói thật là gian trá mới đúng! Thang Viễn cắn một miếng kẹo hồ lô, thúc giục: "Sau đó thì sao?"
"Sau đó? Sau đó ta phát hiện ra hắn lòng dạ bất chính, nên không dạy hắn nữa, ta rời khỏi nước Triệu, vân du đến Tần".
"Ơ này này, đúng là thờỉ đại Chiến Quốc à? Sau đó thì sao?" Tiếp tục bịa đi! Thang Viễn nghĩ bụng như vậy, nhưng không so đo làm gì. Chỉ là truyện kể thôi mà!
"Sau đó? Ta đến nước Tần, nhặt được một đứa bé đáng thương, liền thu nhận làm nhị đệ tử".
"Ồ, sau đó nữa?"
"Không còn sau đó nữa!" Đạo sĩ trẻ tuổi tỏ ra vô tội: "Không phải ta nói là ta kể chuyện thu nhận đệ tử ngày xưa ư? À, thực ra sau này ta còn nhận rất nhiều đệ tử, nhưng ta thấy Bánh Trôi con có vẻ không muốn nghe chi tiết cho lắm".
Thang Viễn ôm mặt thất vọng, cảm thấy đòi tay này kể chuyện đúng là một lựa chọn sai lầm. Ai cần biết đại sư huynh, nhị sư huynh là người nước nào?
Đạo sĩ thấy Thang Viễn cuối cùng đã thôi không hỏi, mới giãn đôi mày ra tỏ vẻ hài lòng, rồi bắt đầu thưởng thức chiếc kẹo hồ lô.
Thang Viễn thì không thích thú lắm với thứ chua chua ngọt ngọt này, ăn được hai quả thì thôi không ăn nữa, nhìn đạo sĩ trẻ tuổi đánh chén ngon lành, trong lòng cậu cảm thấy chán ngán. Cho nên đến khi đạo sĩ trẻ tuổi ăn đến miếng táo cuối cùng và mặt biến sắc, Thang Viễn lập tức cười trên đau khổ của người khác: "Sao nào? Ăn phải sâu rồi hả?"
Đạo sĩ trẻ tuổi chầm chậm nhè quả táo gai trong miệng ra, nhắm mắt lại, hơi run run, lẩm bẩm nói: "Nổi gió rồi..."
Nổi gió? Trong kết giới này làm gì có gió? Thang Viễn nghi hoặc nhìn ra ngoài lương đình, sợ hãi khi nhận ra gió tuyết bên ngoài đã mạnh thêm mấy phần, cánh rừng đối diện cũng không còn nhìn thấy gì nữa...
2
Bác sĩ thò đầu ra khỏi túi áo khoác của chủ tiệm, cơn cuồng phong trên đỉnh Dịch Sơn thổi mạnh khiến đôi tai thỏ lắc lư tứ tung, anh không dám bò ra ngoài nhiều, nếu không rất dễ bị gió thổi bay cả người.
Chủ tiệm không nói lời nào, đi men theo đường Dương Xa cũ, hay người dân ở đây vẫn gọi là Ngự Lộ, chậm rãi tiến bước, bác sĩ thì càng lúc càng sốt ruột. Một tháng nay, anh không ngừng khuyên chủ tiệm, để gã bỏ ý định lấy áo Xích Long làm đồ cổ đế vương cuối cùng để trấn yểm Càn Khôn đại trận, nhưng trong hơn ba chục ngày nay, chủ tiệm không tìm nổi một món đồ cổ đế vương nào để thay thế.
(Sau khi thống nhất sáu nước, Tần Thủy Hoàng đi xe dê kéo lên Dịch Sơn, sai Lý Tư soạn văn khắc bia đá, nên con đường đó gọi là Dương Xa (xe dê kéo).)
Áo Xích Long là do Tống Huy Tông Triệu Cật tự tay vẽ, là chiếc áo thần kỳ có thể giúp người mặc bảo vệ cơ thể không bị thối rữa, chỉ cần chủ tiệm cởi bỏ áo Xích Long thì sẽ nhanh chóng thối rữa mà chết...
"Khốn kiếp, vẫn còn chưa đòi được cơ thể lại cho tôi cơ mà! Sao có thể cho anh chết dễ dàng thế được?" Bác sĩ lẩm bẩm.
"Yên tâm, tôi sẽ nghĩ cách khiến ngài ấy trả lại cơ thể cho cậu". Chủ tiệm cười hiền lành.
Nhưng vấn đề quan trọng không phải là thế! Bác sĩ cáu, nhưng rồi anh nhận ra, chủ tiệm đã đi vào trong một hang núi, nếu không bên ngoài gió rít từng cơn, chủ tiệm cũng chẳng thể nghe thấy anh làu bàu. Bác sĩ lắc lắc đôi tai thỏ dính đầy bụi bặm, nhìn quanh thấy hang núi có nhiều khe đá, rất hẹp và dài, anh nói: "Ta đi vào đâu rồi?"
"Đây là hang Tổ Long, vì Tần Thủy Hoàng khi lên Dịch Sơn có vào hang này mà có tên như vậy". Chủ tiệm ôn tồn nói, cúi đầu bước đi chậm chạp trong hang.
Bác sĩ cảm thấy nặng nề, anh biết chủ tiệm định đi đâu, mấy hôm nay anh đã thử tìm trên mạng. Chủ tiệm đã tìm mười một nơi chôn đồ cổ đế vương trước đó, nơi còn thiếu chính là đỉnh núi Dịch Sơn, nơi Tần Thủy Hoàng lập tấm kiệt thạch đầu tiên.
Dịch Sơn chính là ngọn núi nổi tiếng gần quê hương Khổng Tử, trong thiên "Tận Tâm thượng" sách "Mạnh Tử" viết: "Khổng Tử lên Đông Sơn mà thấy nước Lỗ nhỏ bé, lên Thái Sơn mà thấy thiên hạ nhỏ bé". Đông Sơn nhắc trong đó chính là ngọn Dịch Sơn này. Tần Thủy Hoàng chọn nơi đây để đặt tấm kiệt thạch đầu tiên, cũng bởi vì vị trí địa lý rất đắc địa của nó.
Đã hơn hai nghìn năm trôi qua rồi, núi Dịch Sơn vẫn sừng sững đứng đây, có điều đã trở thành công viên phong cảnh cấp 4A quốc gia. Bởi lúc này đang giữa mùa đông, trên núi gió to trời rét, nên không có du khách nào khác. Chủ tiệm đi xuyên qua hang Tổ Long chật hẹp, ở cửa ra phía Đông Bắc nhìn thấy một cây thái bình, cây thái bình này tương truyền rằng do ngòi bút của Hàn Tương Tử - một trong bát tiên, rơi xuống mà thành, còn chỗ này được gọi là Thông Thiên Ngọc tỉnh, chỉ vừa một người đứng.
Tiếp tục tiến lên là nhìn thấy đỉnh Ngũ Hoa, đỉnh núi chính của Dịch Sơn, chỗ này từng được gọi là "một bước tới trời", ngọn núi do năm tảng đá lớn đứng ôm lấy nhau, tảng lớn nhất hiểm trở nhất có tên là đá Sáp Thiên, trên đỉnh hẹp như lưỡi dao. Chủ tiệm ngẩng đầu nhìn một hồi lâu, cuối cùng không trèo lên trên nữa, mà tìm một chỗ tránh gió, ngồi xếp bằng nhắm mắt.
Bác sĩ biết gã chắc là đang đợi Phù Tô xuất hiện, nên không nói gì, bám lấy túi áo của chủ tiệm, nhìn về phía cửa hang Tổ Long, không chớp mắt.
Không biết qua bao lâu, đỉnh núi Dịch Sơn bỗng nhiên nổi trận cuồng phong, tóc mai của gã chủ tiệm bay tán loạn, gã chầm chậm mở mắt ra, khẽ than thở: "Nổi gió rồi...".
3
Thang Viễn một tay chống cằm, nhìn gió tuyết bên ngoài lương đình, nhìn rất lâu, cũng không thấy cơn cuồng phong bạo tuyết này có gì lạ, dù sao cũng không thổi được tới chỗ cậu.
Thu ánh mắt lại, Thang Viễn mới nhận ra gương mặt vị đạo sĩ trẻ tuổi hơi nặng nề, không còn vẻ nhàn nhã ung dung ban nãy nữa, thậm chí còn quên cả việc ăn món kẹo hồ lô mà hôm nay chính anh ta đòi ăn.
Thang Viễn cố nén sự bất an trong lòng, cười hề hề: "Này! Ông có ăn kẹo hồ lô nữa không? Không ăn thì tôi ăn đấy!"
Đạo sĩ trẻ tuổi nghe xong giật mình, như tỉnh dậy từ một cảnh giới nhập định nào đó, ngay sau đó liền há mồm theo phản xạ, một miếng táo gai ngoan ngoãn rơi xuống mồm anh ta.
Quả là một tên tham ăn! Thang Viễn bó tay, cúi đầu nhìn bàn cờ vây trên bàn đá, cậu thấy khó hiểu vì sao tên đạo sĩ mù này lại tự đánh cờ vây được với chính mình, tuy bàn cờ này được khắc lên chiếc bàn đá phẳng, đạo sĩ cũng có thể rờ được vào những giao điểm làm lõm xuống, quân cờ cũng làm quân đen hình vuông, quân trắng hình tròn rồi, nhưng đánh cờ như thế thì tốn sức đến mức nào? Thang Viễn đang nghĩ vậy, thì bỗng thấy ban nãy vì mình đặt bừa túi bánh xuống bàn nên có mấy quân cờ bị đẩy đi lung tung. Thang Viễn nghiêng nghiêng đầu nhớ lại bàn cờ ban nãy khi cậu vào có nhìn liếc qua, để dịch túi bánh ra chỗ khác, đưa tay ra xếp lại, rất nhanh chóng cậu đã đưa bàn cờ trở về trạng thái ban đầu, không sai chút nào.
Đạo sĩ trẻ tuổi không ngăn cản hành động của Thang Viễn, thực ra là anh ta không hề để ý đến việc bàn cờ có bị xê dịch đi hay không.
Nhưng Thang Viễn thì rất để ý đến sự im lặng bất thường của anh ta, cậu cố gắng gợi chuyện: "Này! Đợi sau khi tuyết ngừng rơi, có thể dạy tôi làm thế nào tạo được kết giới oách thế này không?"
Đạo sĩ trẻ tuổi bĩu môi chê trách: "Bánh Trôi con còn không gọi ta là sư phụ, sao còn đòi ta dạy cho con?" Đạo sĩ ai oán vô cùng, nghĩ lại những đệ tử trước kia anh ta thu nhận, có ai mà không cung kính vâng lời? Thời gian thấm thoắt, tại sao đến bốn chữ "tôn sư trọng đạo" mà bây giờ cũng không còn ai biết nữa vậy?
"Đã bảo là trao đổi bình đẳng rồi mà! Ông không gọi tôi là Bánh Trôi nữa thì tôi sẽ gọi ông là sư phụ! Ông còn chê bai gì nữa, thật đúng là! Tôi nói ra một lời nặng tựa chín đỉnh!" Thang Viễn đập bàn, cậu mới là người phải ai oán chứ! May mà nơi thâm sơn cùng cốc này ngoài cậu và đạo sĩ ra không còn ai khác, nếu không thì cái tên Bánh Trôi chắc chắn sẽ bị lan truyền. Không được, trước khi cái tên này trở thành tai họa theo cậu cả đời, cậu phải kịp thời sửa chữa ngay!
"Một lời chín đỉnh...". Rõ ràng đạo sĩ trẻ tuổi đang có cảm xúc vì mấy chữ này, anh ta ăn thêm một miếng táo gai rồi thở dài: "Bánh Trôi, con có biết "đỉnh" là cái gì không?"
"Đỉnh?" Thang Viễn nghĩ ngợi, cậu quá dễ dàng để đối phương đánh lạc hướng, "Đỉnh không phải là đồ đồng thau à? Cái đó to lắm, có ba chân, rất nặng". Thang Viễn khua tay múa chân diễn tả, tỏ ý rằng cái thứ đó có chứa cả cậu bên trong vẫn còn thừa chỗ.
"Ồ? Vậy con biết nó dùng để làm gì không?" Đạo sĩ trẻ tuổi tiếp tục án từng miếng táo gai, hứng chí hỏi tiếp.
"Cái này chắc là có ý nghĩa tượng trưng gì đó? Nghe bảo là trọng khí quốc gia gì gì mà". Thang Viễn nghiêng đầu, nhớ lại kiến thức đọc được trong sách, trả lời không chắc chắn lắm.
Cuối cùng đạo sĩ trẻ tuổi cũng tìm thấy chút cảm giác được làm thầy, chỉnh áo ngồi ngay ngắn, có chút hơi trịnh trọng. Anh ta chậm rãi nói: "Đỉnh, thực ra ban đầu là dùng để nấu thức ăn"
Cái mặt bánh bao của Thang Viễn tối sầm lại, biết ngay tên tham ăn này nói ba câu là quay lại chuyện ăn mà. Thấy anh ta sắp ăn hết xiên kẹo hồ lô, cậu liền đưa xiên kẹo của mình dúi vào tay anh ta.
Đạo sĩ trẻ tuổi cũng không chê bai, đón lấy ăn tiếp, vừa ăn vừa nói rành rọt: "Nên biết thời kỳ đồ đồng thực sự là thời kỳ "dân dĩ thực vi thiên", người trong một gia tộc, một bộ lạc đều cùng nhau ăn cơm, nên cái đỉnh mới to như thế. Nhưng chỉ có trưởng tộc mới có quyền phân chia thức ăn, lâu dần đỉnh mới trở thành tượng trưng cho quyền lực".
(Dân coi chuyện ăn uống là trời, coi chuyện ăn uống là quan trọng nhất)
"Ồ? Vậy là bọn tham ăn chinh phục thế giới à?" Thang Viễn thất vọng, cậu chạy ra ngoài lâu quá nên giờ hơi khát nước, bèn tiện tay ngắt một chiếc lá sen, gấp thành hình cái phễu, cúi xuống múc một ít nước từ suối nước nóng bốc hơi nghi ngút lên.
"Nhưng đỉnh không chỉ có hai tác dụng đó, nó còn là dụng cụ hành hình nữa". Đạo sĩ trẻ tuổi có vẻ chán kiểu cắt từng miếng ra ăn rồi, liền ăn luôn cả quả, phồng cả má lên, phá hỏng hoàn toàn hình tượng thế ngoại cao nhân mà anh ta đóng giả ban nãy.
"Dụng cụ hành hình?" Thang Viễn cầm lá sen chớp chớp mắt, quên hẳn chuyện uống nước, nước trong lá sen chảy hết xuống người cậu.
"Đúng thế, đó là dụng cụ để nấu người". Đạo sĩ trẻ tuổi nói rất thản nhiên, giọng điệu cứ như đang nói "hôm nay thời tiết không được tốt", miệng nhai rôm rốp quả táo gai đã đông cứng. "Người đứng ở vị trí chí cao vô thượng, thích ban hy vọng cho người khác, cũng thích tước đi quyền sống của người khác. "Đại quyền sinh sát", cụm từ này khái quát rất đầy đủ. Vì thế đỉnh là một thứ rất mâu thuẫn, vừa là dụng cụ để nấu nướng thức ăn, vừa là dụng cụ để nấu người, thứ vừa cho người ta sống vừa cho người ta chết như thế là rất hiếm có".
"Thực sự...". Thang Viễn thấy hứng thú với lời nói của đạo sĩ trẻ tuổi, cậu liền giục: "Nào, ông kể chuyện về cái đỉnh đi".
"Ờ, sau này đỉnh trở thành tượng trưng cho thiên hạ. Tất cả vua chúa đều dốc tài lực quốc gia ra để đúc những chiếc đỉnh to hơn tinh xảo hơn, thể hiện quyền lực của mình. Đầu đời nhà Hạ, Đại Vũ chia thiên hạ làm chín châu, và tập trung chín chiếc đỉnh ở đô thành của vương triều Hạ, biểu thị thống nhất chín châu. Vì thế, cửu đỉnh trở thành đồ tế lễ của thiên tử các triều khi làm lễ tế trời".
"Òa, nghe có vẻ oách đấy! Tiếp tục tiếp tục nào! Sau đó chín chiếc đỉnh đó thế nào?"
"Sau này triều nhà Hạ bị nhà Thương diệt, cuối cùng là nhà Chu lấy thiên hạ, tiếp tục có cửu đỉnh, rồi đến cuối đời nhà Chu, ờ, đại khái là năm nào tháng nào thì ta quên rồi, nhưng mà là đời Tần Vũ vương, Tần Vũ vương đòi phải xem bằng được chín cái đỉnh đó, mới cho Cam Mậu làm tướng quân, thảo phạt nước Hàn, tiến thẳng tới Lạc Dương, tiêu diệt triều Chu".
"Ồ? Người này giỏi ghê nhỉ? Không đúng, tôi nhớ người thống nhất sáu nước là Tần Thủy Hoàng mà? Không phải là Tần Vũ vương đâu!"
"Phải, Tần Vũ Vương dũng mãnh hiếu thắng, cho rằng mình đã vô địch thiên hạ, nhìn thấy cửu đỉnh, bèn hỏi các đại lực sĩ theo hầu bên cạnh mình xem có nâng được đỉnh lên không. Trong đó có một tay tiến lên nâng đỉnh, tính hiếu thắng của Tần Vũ vương lại trỗi dậy, cũng muốn thử nâng xem sao. Thử một cái là hỏng, ông ta là vua, không phải là đại lực sĩ, cái đỉnh đồng nó nặng lắm chứ! Chà... đổ đánh rầm một cái, tối hôm đó ông ta chết". Đạo sĩ trẻ tuổi kể chuyện như thể mình thấy tận mắt, lắc đầu than thở, tiếc nuối vô cùng.
"Ái dà...". Thang Viễn nhăn mặt, cứ như cậu mới là người bị đỉnh rơi vào đầu, nghe đã thấy đau rồi, "Sau đó thì sao? Chiếc đỉnh đó làm chết Tần Vũ vương, thì chắc phải đập vỡ ra để chịu tội chứ?"
Đạo sĩ trẻ tuổi đặt que xiên của kẹo hồ lô đã ăn hết lên bàn, nói phẫn uất: "Sao như thế được? Đó là một trong cửu đỉnh rất cao quý! Tên Tần Vũ vương dở hơi đó, hắn tự tìm cái chết đó thôi, lúc ấy còn có người loan tin rằng đó là báo ứng vì hắn diệt nhà Chu, thách thức mệnh trời, lại đi truy cứu hỏi tội đại lực sĩ bên cạnh Tần Vũ vương, cùng với tên Cam Mậu xúi bẩy Tần Vũ vương vào đất Chu xem đỉnh. Cam Mậu nghe tin liền không về nước Tần, trốn sang nước khác, bị tước hết tước vị".
"Cam Mậu?" Thang Viễn nghe đạo sĩ trẻ tuổi lần thứ hai nhắc tới cái tên này, nên cậu chú ý.
"Ồ, đó không phải là trọng tâm". Đạo sĩ trẻ tuổi xua xua tay, mở túi bánh ngọt trên bàn, nhón một miếng ăn, "Nhưng sau đó thì em của Tần Vũ vương là Tần Chiêu Tương vương lên ngôi, tiêu diệt hẳn Đông Chu, đem chín cái đỉnh mang về Hàm Dương. Nhưng khi đi qua sông Tứ Thủy ở Bành Thành, đã rơi một cái đỉnh xuống sông. Sau này, sau khi thống nhất sáu nước, Tần Thủy Hoàng đi tuần ở Tứ Thủy cũng có sai người xuống vớt, nhưng không vớt được gì".
"Ớ? Ông không định nói với tôi rằng, chiếc đỉnh bị rơi mất chính là chiếc đỉnh đã làm chết Tần Vũ vương chứ? Không thì sao lại trùng hợp vậy?" Thang Viễn bỗng cảm thấy hình như mình phát hiện được gì đó.
Đạo sĩ trẻ tuổi gật đầu: "Không sai, những điều ta nói ban nãy chỉ là nói cho người ngoài nghe thôi, chiếc đỉnh đã đè chết Tần Vũ vương ấy, vương thất nước Tần đương nhiên không thể để nó tồn tại, có một thỏa thuận ngầm là cho nó biến mất một cách hợp lý".
"Ồ, chính trị cũng thật là giả dối, rõ ràng muốn đập vỡ nó, nhưng lại không dám, đành phải tìm cớ để làm mát nó". Thang Viễn làu bàu mấy tiếng, có phần coi thường nghệ thuật chính trị lắm mưu mô quỷ kế kia, "Vậy bây giờ ở Tứ Thủy, cái đỉnh đó vẫn còn chứ?"
Đạo sĩ trẻ lắc đầu nói: "Không còn! Khi đó ta thấy không ai cần chiếc đỉnh đó nữa, bèn lấy về nhà, cho vào lò nung, nung chảy hết đồng ra, lấy một ít trong đó pha thêm vàng đen, cuối cùng nó trở thành một chiếc đỉnh nhỏ để ta luyện đan".
"...". Thang Viễn há hốc mồm, cậu muốn bới lông tìm vết mà không biết phải bới từ đâu, vị sư phụ này của cậu có vấn đề về thần kinh à? Bây giờ bỏ chạy liệu còn kịp không nhỉ?
Nhưng Thang Viễn nhìn sân vườn bốn mùa hoa nở, lại nhìn cảnh tượng cuồng phong bạo tuyết kỳ dị cách lương đình có gang tấc, nghĩ bụng người có năng lực lên trời xuống đất thế này, sống được mấy ngàn năm chắc cũng không khó nhỉ?
Nghĩ đến đây, Thang Viễn liền thấy ngứa ngáy trong lòng, cậu cảm thấy vị sư phụ ngộ nghĩnh này không phải vô duyên vô cớ mà nhắc tới đỉnh luyện đan Ô Kim, bèn tò mò hỏi: "Vậy hiện giờ chiếc đỉnh Ô Kim đang ở đâu?"
Ngón tay đang nhón bánh ngọt của đạo sĩ trẻ tuổi dừng khựng lại, anh ta cố gắng nghĩ ngợi hồi lâu, rồi mới hoang mang nói: "Chẳng biết là mất đâu rồi ấy...".
"..."
4
Bác sĩ cũng không rõ chủ tiệm đã ngồi trên đỉnh núi bao lâu rồi, mấy ngày qua, anh phát hiện ra thỉnh thoảng chủ tiệm lại rơi vào trạng thái ngủ say. Việc này nếu xảy ra ở người bình thường, anh sẽ cho rằng đó là bệnh chức năng thần kinh, nhưng vấn đề là chủ tiệm không phải người bình thường!
Vì vậy dù anh biết rằng lo lắng cũng bằng thừa, nhưng sự bất an trong lòng vẫn dâng lên như cơn nước triều không thể ngăn lại nổi, mà khi anh nhìn thấy hai người lần lượt đi vào trong hang Tổ Long, tâm trạng bất an lại lập tức dâng lên đến đỉnh điểm.
Chủ tiệm mở mắt, bình tĩnh chăm chú nhìn Phù Tô tiến đến sát mặt mình, không nói gì.
"Ta biết ngay là ngươi sẽ ở đây". Trên mặt Phù Tô vẫn nở nụ cười hiền hòa, ánh mắt hắn nhìn sang con thỏ bông trong túi áo chủ tiệm, sau đó lại khẽ cười bảo với chủ tiệm: "Có thể nói chuyện với ngươi không? Một mình thôi".
Chủ tiệm gật đầu, đứng dậy, mặc kệ bác sĩ đang giãy giụa, đưa con thỏ bông cho Hồ Hợi đứng đằng sau Phù Tô.
"Cái quái gì đây! Chủ tiệm! Anh điên rồi! Anh đem giao tôi cho thằng cha này, hắn quay người một cái là có thể vứt tôi xuống vực đấy!" Bác sĩ cáu lên, ai không biết tên Hồ thiếu gia này cực kỳ nghe lời anh hắn? Hắn chỉ mong linh hồn anh tiêu tán luôn, để Phù Tô tiếp tục chiếm đoạt cơ thể anh mà sống tiếp.
Hồ Hợi nghe xong, thân thể cứng đờ, vốn định từ chối nhưng không thể nói ra nổi câu nào, chỉ biết ngây người, đón lấy con thỏ bông, thậm chí còn tìm một góc ngồi để tránh cho gió thổi vào con thỏ bông hắn đang cầm. Chim Minh Hồng đậu trên vai Hồ Hợi giật mình, đập cánh mấy cái, nó nghi ngờ không rõ chủ nhân của mình có bị đặt nhầm dây thần kinh nào không.
Ô? Nghe lời nhỉ? Bác sĩ giờ mới nhớ ra, chủ tiệm đã từng dùng đạc Long Văn với Hồ Hợi, chắc mệnh lệnh ở cấp độ này vẫn có thể điều khiển hắn được. Nhưng làm thế ngay trước mặt anh trai người ta liệu có sao không nhỉ?
Bác sĩ bất giác nhìn Phù Tô, vừa đúng lúc gặp ánh mắt lạnh lùng của hắn, anh chợt run lên. Khi định nhìn lại lần nữa, thì anh thấy hắn đã thôi không nhìn, mà cùng chủ tiệm đi về phía đá Sáp Thiên trên đỉnh Ngũ Hoa.
Bác sĩ còn chưa kịp tiếc nuối vì không được đi nghe lén, thì bỗng sợ hãi nhận ra mình đã bị một cánh tay trắng toát lạnh băng xách đôi tai thỏ lôi ra ngoài, anh nhìn xuống dưới chân, bên dưới là khe núi bị tầng tầng lớp lớp sương núi che phủ, sâu không nhìn thấy đáy.
Cha nó chứ! Chủ tiệm trao trứng cho ác rồi! Bác sĩ bây giờ ngay cả giãy giụa còn không dám, chứ đừng nói đến chuyện hô to cầu cứu, chỉ sợ kích động tên Hồ thiếu gia xấu tính, hắn mà buông tay một cái thì anh không còn gặp lại chủ tiệm luôn, ờ... tuy rằng hình như đồ chơi nhồi bông có rơi xuống thì cũng chẳng chết được?
Con chim đỏ tò mò bay lên, đối với nó mà nói, gió núi to đến mức này vẫn chẳng thấm tháp vào đâu, vẫn có thể bay rất bình thường. Bác sĩ tức giận nhướn đôi mày bằng vải nhung lên, thật là muốn đập cho con chim tò mò ngu ngốc này một cái.
May thay thời gian thử thách không kéo dài được bao lâu, Hồ Hợi hơi nheo đôi mắt đỏ lại một chút, rồi lại xách bác sĩ trở vào trong, vứt cho con chim đỏ đang rất tò mò.
"Cho mày chơi này, đừng làm hỏng là được". Hồ Hợi nói một cách tùy ý.
Quỷ quái! Không làm hỏng là được? Bác sĩ vô cùng tức giận, nhưng một con thỏ bông rõ ràng không phải là đối thủ của con chim đỏ kia, nó có được một món đồ chơi, liền cắp đôi tai thỏ của bác sĩ lên bay lung tung.
Thôi được... Thực ra đã quen cảm giác chóng mặt khi đi tàu lượn trong công viên rồi, thì thấy trải nghiệm đó cũng vui ra phết... Cuối cùng bác sĩ trèo được lên lưng con chim đỏ, cảm thấy mình như nhân vật chính trong thế giới kỳ ảo, có thể điều khiển được con "thú cưỡi" này rồi.
Bác sĩ cúi đầu nhìn xuống đỉnh núi, trong lớp sương núi có bóng dáng mờ mờ của hai người, tiếc là, hoàn toàn không nghe được hai người họ nối gì.
Sau khi đã xác nhận bác sĩ đang được "chăm sóc" rất tốt, chủ tiệm không nhìn sang đó nữa, ánh mắt lại tập trung vào Phù Tô, chậm rãi hỏi: "Nghĩ kỹ chưa?"
Phù Tô cười hơi nhăn nhó: "Qua bao nhiêu năm, Tất Chi ngươi vẫn rất hiểu tạ". Phù Tô liếc nhìn Hồ Hợi đang đứng ở cách đó không xa, khẽ cười: "Khống chế Hồ Hợi, bắt hắn đem hết mọi việc ta làm trong những ngày qua báo cáo với ngươi hả?"
"Không, tuy ban đầu không dám khẳng định, nhưng nhờ phúc của ngài, mấy ngày này, những chi tiết nhỏ nằm sâu trong ký ức mà thần dường như đã quên, đều được lật lại từng thứ một, mới khiến thần chắc chắn vậy". Chủ tiệm nói rất bình thản, nhưng sâu trong mắt là một sự dịu dàng.
"Ồ?" Phù Tô cười, gương mặt tuấn tú không hề có chút bối rối nào, hắn vốn cũng không hy vọng trò dùng hương nguyệt kỳ vặt vãnh của hắn qua được mắt chủ tiệm.
"Thần vẫn nhớ, năm xưa ngài hay lén xem "Hoàng Đế Nội Kinh"". Trên môi chủ tiệm nở một nụ cười, những hồi ức đó đối với gã thật quý báu. Bởi vì quá coi trọng, nên mới không nỡ lấy ra để nhớ lại, nó giống như bong bóng xà phòng đẹp đẽ nhưng mỏng manh dưới ánh nắng, chỉ cần chạm nhẹ là đã vỡ tan.
"Không trị lúc đã bệnh, phải trị lúc chưa bệnh; không trị lúc đã loạn, phải trị lúc chưa loạn". Phù Tô nói ra tư tưởng quan trọng nhất trong "Hoàng Đế Nội Kinh", thở dài nói: "Ngươi chắc chắn cũng đã đọc rồi, nếu không tại sao lại không lo lắng về việc ta muốn lật ngược thiên hạ này lên?"
Chủ tiệm không trả lời câu hỏi của hắn, mà đưa tay sờ lên con rồng đỏ bên vai phải, bình tĩnh nói: "Người ta cứ hay nói mình không thể tự quyết định, thực ra chỉ vì không muốn vứt bỏ những thứ mình đang có, cũng không muốn buông bỏ những thứ mình muốn có. Có lẽ, đó chính là lòng tham".
Phù Tô hiểu ý của gã, cười tự nhạo: "Tất Chi, ngươi yên tâm vậy sao? Không sợ ta có lòng tham sao?"
"Không thể khuyên giải được, đành phải để ngài tự tỉnh ngộ. Trong thời gian một năm qua, thần nghĩ ngài đã nhìn rõ rồi". Chủ tiệm thu tay lại, trên ngón tay tự dưng có vết thương do một loại sợi mảnh sắc cắt phải, gã cũng không lãng phí giọt máu đó, bôi thẳng lên thân con rồng đỏ. Đôi mắt sống động như thật của con rồng đỏ lóe lên tia sáng, rồi lập tức lại tối trở lại.
Phù Tô không để ý đến tình tiết đó, mà vịn tay vào đá núi, nhìn xuống phía dưới. Lúc này sương núi đã giảm, cơn cuồng phong thổi bớt đi một chút, lộ ra cảnh tượng nguy nga tráng lệ bên dưới chân núi. Phù Tô nhìn ngắm một hồi lâu, rồi mới lẩm bẩm nói: "Nghĩ năm xưa, chắc phụ hoàng cũng đứng ở đây nhìn ngắm cảnh này... Nghĩ năm xưa... đã qua hơn hai nghìn năm rồi, ta cũng thực sự tự do rồi".
Quả tim đang treo ngược của chủ tiệm cũng đã được cất trở lại chỗ cũ.
Gã đánh thắng canh bạc rồi.
Dù kết quả này đã được gã dự liệu từ trước, nhưng vi sao trong thời khắc thực sự phải đối mặt, gã lại buồn bã hơn tưởng tượng nhiều đến thế?
Phù Tô lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ trong người, chủ tiệm nhìn theo, mới nhận ra chiếc đỉnh nhỏ này trông rất quen, nó chính là đỉnh Ô Kim mà gã đã lấy ba món đồ cổ để đổi cho ông giám đốc bảo tàng, sau này gã không thể tìm thấy nó đâu nữa. Chủ tiệm cũng không truy cứu chuyện vì sao đỉnh Ô Kim lại rơi vào tay Phù Tô, Hồ Hợi có bút Bạch Trạch, muốn ra vào Á Xá của gã cũng chỉ là chuyện quá dễ dàng. "Cái đỉnh này...".
"Càn Khôn đại trận đã trấn yểm mất mười một mắt trận rồi, vậy chỗ này ta cũng tiện thể đánh bạc xem". Phù Tô ngừng lại một chốc, rồi hít một hơi sâu nói tiếp: "Nhân khi ta còn chưa đổi ý".
Chủ tiệm cầm lấy chiếc đỉnh Ô Kim, mí mắt cụp xuống che đi ánh mắt rối loạn của gã.
5
Thang Viễn lấy lá sen múc lại một ít nước suối nóng, uống mấy ngụm, rồi lấy mu bàn tay quệt sạch nước trên mép, mới nhận ra ông sư phụ tham ăn của mình vẻ mặt có vẻ nghiêm trọng.
"Sao thế? Lại có gì sai sai nữa à?" Thang Viễn thấy run rẩy, chỉ sợ ngay một giây sau sư phụ tham ăn bảo kẹo hồ lô không đủ, bắt cậu đi mua hai xiên nữa về.
Đạo sĩ trẻ tuổi nhíu mày, đưa luôn tay ra ngoài kết giới cảm nhận hơi thở của thế giới bên ngoài, bấm đốt tay nhẩm tính, thở dài nói: "Càn Khôn đại trận có biến".
"Càn Khôn đại trận? Lại là gì nữa thế? Sao có vẻ oách thế?" Hai mắt Thang Viễn sáng lên, rồi ngay một giây sau thì biến thành hai hòn bi ve, vì cậu bỗng thấy phía sau lưng đạo sĩ, hơi nước bốc lên từ suối nước nóng bỗng ngưng tụ trên không trung biến thành hình hài một cô gái. Hơi nước trở nên rõ hình dần, rất nhanh chóng có thể nhìn thấy đó là một cô gái dung nhan tuyệt sắc, thân hình khói trắng mờ ảo như tuyết, gương mặt đẹp tựa tranh thủy mặc, đôi môi mỏng vẽ ra một nụ cười có ý giễu cợt, hai mắt trống rỗng vô hồn nhưng lại có một sức hấp dẫn mà không từ ngữ nào diễn tả được.
Thang Viễn tuy còn ít tuổi, nhưng cũng biết nếu trên đời này có yêu ma quỷ quái, thì chắc chắn là đang xuất hiện trước mặt cậu rồi. Nhìn nửa thân dưới của cô gái đó hóa ra lại là một chiếc đuôi rắn dài, Thang Viễn sợ hãi không nói nên lời, trong cổ họng phát ra tiếng kêu ú ớ, đầu óc cậu hoàn toàn trống rỗng.
Cô gái đó đưa đôi tay trắng ngần như ngọc của mình ra, bám lên vai của sư phụ tham ăn, cúi đầu nhìn vào cổ của anh ta một cách vô cùng lả lơi.
Thang Viễn đỏ cả mặt, cậu không muốn nhìn cảnh hot này, nhưng dường như nó có ma lực, cậu giương mắt nhìn từ trong miệng cô gái lả lơi kia bỗng hiện ra hai cái răng nhọn hoắt, cắn phập vào cổ sư phụ cậu.
Thang Viễn thất kinh đứng bật dậy, định lao tới cứu sư phụ, nhưng dường như bị ai đó giữ lại, toàn thân không có chút sức lực nào nữa.
Ngoài sức tưởng tượng của cậu, hoàn toàn không có cảnh máu me nào, sư phụ tham án còn không hề động đậy, rất bình thản mặc kệ cho cô gái kia hút linh khí trên người anh ta, cái đuôi rắn to lớn ở nửa thân dưới cô ta quẫy loạn trong vườn hoa, khiến vườn hoa bài trí tỉ mỉ bỗng chốc biến thành một đống tang hoang.
Có lẽ là rất lâu sau đó, hoặc có lẽ chỉ trong khoảnh khắc, yêu tinh rắn đã ăn xong, lại tan biến vào trong làn hơi của suối nước nóng. Lúc này Thang Viễn mới tìm lại được giọng nói của mình, lắp bắp hỏi: "Thế... thế này là... là thế nào?"
"À không có gì, đó là con rắn thuốc ngày xưa ta nuôi, nó tu luyện lại từ đầu, tâm trí không được tỉnh táo ấy mà". Gương mặt đạo sĩ trẻ tuổi hơi xanh xao, nhưng anh ta chẳng để ý, vẫy tay một cái, hoa cỏ bị quật đổ trong vườn hoa lại nở rộ, những hòn giả sơn bị xô đẩy lại được dựng lên, như chưa hề xảy ra chuyện gì.
Rắn thuốc? Vậy vì sao nửa thân trên lại là một cô gái tuyệt sắc? Thang Viễn cảm thấy chân mình bắt đầu mềm nhũn, cậu chỉ là một cậu bé mười tuổi bình thường thôi! Cậu không chịu nổi cuộc đời đầy sóng gió này! Thang Viễn bám vào bàn đá để ngồi xuống, bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc xem mình có nên đi học tiểu học hay gì không, mặc dù những sách này cậu đã đọc xong từ vài năm nay.
"Ồ, ban nãy nổi đến đâu rồi nhỉ? À phải, Càn Khôn đại trận, có biết vì sao năm xưa Tần Thủy Hoàng lại đi tuần du thiên hạ không? Bởi vì Đông Nam có thiên tử khí, ta bèn đặt Càn Khôn đại trận, nếu trận pháp đại thành, cả vùng Trung Nguyên sẽ nằm dưới sự khống chế của Thủy Hoàng Đế, đế quốc Đại Tần chắc chắn sẽ vững vàng muôn đời không đổ". Đạo sĩ trẻ tuổi xuýt xoa, ôi một thời tuổi trẻ dại khờ đã ra đi không trở lại! Năm xưa anh ta cũng từng nhiệt huyết như vậy.
"Chém gió kiểu này lạnh quá...", Thang Viễn bới móc, "Chẳng phải triều Tần đến Nhị Thế là mất nước rồi sao? Còn đòi muôn đời không đổ?"
"Chẳng phải vì Tần Thủy Hoàng còn chưa lập đủ kiệt thạch đã chết rồi sao! Ban đầu ta cũng nghĩ Càn Khôn đại trận chưa bày xong thì hơi đáng tiếc, nhưng sau đó phát hiện ra tên đại đệ tử của ta lòng dạ bất chính, con nói xem, người nước Triệu nằm vùng ở nước Tần, ngầm bày mưu diệt Tần thì cũng là chuyện thường, nhưng đâu có cần thiết phải khiến người trong thiên hạ cùng chịu tội?" Đạo sĩ trẻ tuổi lắc đầu phản đối, phủi vụn bánh ngọt trên tay đi, thất vọng nói, "Nhưng hắn tu tập đã cao, dù là ta thì năm xưa cũng không thể biết nổi là đã giết được hắn chưa, nên sau đó ta mới sửa đổi Càn Khôn đại trận, dùng tám cái đỉnh còn lại biến thành trận Phong Thần giam cầm hắn, dụ hắn vào cửa Tử ở trong trận pháp, cuối cùng... thiên hạ đã thái bình".
Thang Viễn nhìn vẻ mặt vui mừng của đạo sĩ trẻ tuổi, bất giác cảm thấy nổi hết da gà. Thủ đoạn thanh lọc môn hộ đó quả là độc ác! Khiến người ta sống không được, chết không xong, bị hành hạ hơn hai nghìn năm? Thang Viễn bỗng cảm thấy mình nhận ông ta làm sư phụ thì quá mạo hiểm. Liếm đôi môi khô khốc vì căng thẳng, Thang Viễn lo lắng hỏi: "Vậy ông ban nãy nói Càn Khôn đại trận cổ biến... là thế nào?"
Đạo sĩ trẻ tuổi nhăn mày lại, vết sẹo giữa đôi mày trông càng hung tợn. "Thật kỳ lạ... Muốn phá giải trận Phong Thần, thì phải thu thập đủ mười hai món đồ cổ đế vương, trấn yểm ở mắt trận. Mười hai món đồ cổ đế vương đâu có dễ tìm! Vậy là kẻ nào..."
Đạo sĩ đột ngột dừng lời, Thang Viễn lập tức như hiểu ra điều gì, nhìn ra phía ngoài lương đình, thấy cơn gió tuyết mù trời và mây đen dày đặc ban nãy cứ như thể bị ông trời thu lại hết, trong phút chốc đã hoàn toàn biến mất. Chỉ còn lại tuyết trắng mênh mông trên mặt đất, và ánh nắng rực rỡ tỏa xuống từ ưên ườỉ.
"Trận đó... đúng là bị phá rồi...".
Thang Viễn há hốc mồm, thế chẳng phải có nghĩa là tên tử thần nào đó bị giam cầm suốt hơn hai nghìn năm, giờ đã bị người ta thả ra rồi sao?
6
Chủ tiệm và Phù Tô cùng kề vai đứng trên đỉnh Dịch Sơn, nhìn sương núi tan hết, cuồng phong đã ngừng, cảnh tượng thật bình yên, phía xa còn xuất hiện một cầu vồng rực rỡ.
Phù Tô nhắm mắt, hắn vốn là kẻ nên quen với việc đứng trên cao, nhưng giờ đây mắt nhìn cảnh đẹp non sông này, hắn lại cảm thấy hơi chóng mặt. Lát sau, hắn lại mở mắt ra, ngắm nhìn một hồi lâu, rồi khẽ thở dài nói: "Tất Chi, việc này kết thúc, cho dù không hề muốn, nhưng ta cũng nên trả cơ thể này cho chủ nhân ban đầu của nó rồi".
Chủ tiệm hơi run lên, định nói gì đó, nhưng chỉ hé môi một chút.
Phù Tô tự cười chính mình: "Nói ra không sợ Tất Chi chê cười, thực ra ta sớm đã nhìn rõ thời đại này vận hành ra sao rồi, nên đã bỏ ý đồ dùng Càn Khôn đại trận. Nhưng kéo dài cả một năm trời, thực ra vì ta tham lam thế giới phồn hoa này". Hắn ngập ngừng, tuy rất khó khăn, nhưng rồi cũng nói tiếp, "Nhưng những gì không thuộc về ta, thì cuối cùng cũng không phải của ta, hãy thay ta xin lỗi anh ta...".
Chủ tiệm thấy hắn nói xong rồi lập tức định quay về, liền kéo tay áo hắn theo phản xạ: "Đại công tử...".
"Tất Chi, cuối cùng ngươi cũng chịu gọi ta là đại công tử...". Phù Tô không quay đầu lại, cảm thán vì đầy hoài niệm. Từ ngày hắn tỉnh dậy, chủ tiệm vẫn gọi hắn là "điện hạ" một cách khách sáo.
Chủ tiệm ngừng lại, rồi nói lí nhí: "Thần có thể tìm giúp ngài một cơ thể thích hợp".
Phù Tô hơi sững người lại, nhưng rồi chỉ bình thản nói: "Không cần dỗ ta, linh hồn ta không ổn định, nếu tiếp tục thay thân xác, chỉ cần có chút xíu không thích hợp thôi, là lập tức hồn tiêu phách tán...".
Chủ tiệm cúi đầu, khẽ nói: "Cơ thể của thần dùng được".
Phù Tô chầm chậm quay đầu lại, gương mặt tuấn tú không có chút thái độ gì, hắn cứ nhìn chăm chăm vào chủ tiệm, một hồi lâu mới nói ra hai tiếng: "Thật chứ?"
Chủ tiệm lại cườỉ, trinh trọng gật đầu nói: "Thần đã sống hơn hai nghìn năm, đủ rồi".
Lần này Phù Tô không nói gì.
Không đồng ý.
Đương nhiên, cũng không phản đối.
7
Bác sĩ mở mắt ra, hơi ngơ ngác nhìn trần nhà trắng toát. Không phải anh đang cưỡi chim đỏ bay trên trời rất vui vẻ sao? Còn định kéo lông con chim đỏ để bảo nó bay thấp một chút, tốt nhất là có thể lén nghe được xem Phù Tô và chủ tiệm đang nói chuyện gì, vì sao chớp mắt đã ở nơi khác rồi?
Lập tức, bác sĩ bỗng nhiên ngồi bật dậy khỏi giường, kinh ngạc nhìn đôi tay mình.
Là tay của con người, không còn là đôi tay trông như quả dưa mềm mềm của đồ chơi nữa, hơn nữa trên ngón trỏ của bàn tay phải còn có vết chai lâu năm, đó là dấu vết của việc thường xuyên cầm dao mổ.
Đó là tay của anh!
Khi bác sĩ nhận ra điều này, liền vội vàng nhìn ra xung quanh, phát hiện ra mình đang ở trong nhà mình. Anh xông vào phòng vệ sinh, thấy mình đúng là đã trở về cơ thể cũ rồi, bèn sung sướng toét miệng cười. Nhưng niềm vui sướng đó không kéo dài được quá ba giây. Vì sao anh không biết gì, tự nhiên lại trở về với cơ thể của mình? Chủ tiệm đâu?
Vớ vội quần áo lao ra khỏi cửa, từ đằng xa anh nhìn thấy Á Xá, sự bất an trong lòng bác sĩ mỗi lúc một lớn, anh loạng choạng chạy tới đẩy cánh cửa chạm hoa nặng trịch ra, khi nhìn thấy quang cảnh bên trong phòng, mới thở phào nhẹ nhõm.
Đồ đạc trong tiệm Á Xá không thay đổi gì, tượng binh mã sơn màu đứng ngoài cửa, đèn cung Trường Tín sáng mãi không tắt, chiếc lư Bác Sơn nạm hình rồng vàng quanh năm tỏa hương trầm Kỳ Nam... tất cả mọi thứ đều ở đây, đến vị trí đặt đồ cũng không hề thay đổi chút nào. Ban nãy bác sĩ chạy vội quá, nên giờ phải nằm trên chiếc ghế dựa bằng gỗ tếch để thở, một lúc sau mới cảm thấy có gì đó không ổn.
Nếu như mọi ngày, chắc chắn chủ tiệm đã biết là anh đến, dù có bận đến mấy cũng sẽ phải đi ra từ buồng trong rồi. Bác sĩ ngồi dậy, gọi lớn: "Chủ tiệm? Chủ tiệm! Anh ở đâu đấy?"
Ngoài tiếng vọng của giọng anh ra, trong Á Xá hoàn toàn im ắng.
Bác sĩ sắp phát điên vì cảm giác bất an trong lòng, đang định đi vòng ra sau bình phong ngọc để vào trong tìm, thì nghe thấy tiếng cọt kẹt của cánh cửa gỗ chạm hoa, bác sĩ lập tức quay lại.
"Chủ tiệm... Ơ? Sao lại là anh?" Bác sĩ ngạc nhiên nhìn Lục Tử Cương xách va li đi từ ngoài vào.
Lục Tử Cương tháo chiếc khăn quàng trên cổ, cười nói: "Chủ tiệm gửi thư cho tôi, bảo tôi trông hàng hộ anh ấy".
Bác sĩ như bị sét đánh trúng, kinh ngạc đứng sững người một lúc lâu, rồi mới rặn ra từng chữ qua kẽ răng: "Vậy anh ta... có nói là... bảo anh trông hàng bao lâu không?"
Lục Tử Cương nhún vai nói: "Anh ta không nói, nên tôi mới thôi việc ở Bảo tàng quốc gia".
Quả tim của bác sĩ như rơi xuống hố băng.
Ở sâu dưới lòng đất tại một nơi không ai biết, trong một hầm mộ rất nguy nga tráng lệ, không khí ngưng đọng hơn hai nghìn năm bỗng nhiên lưu động, chiếc quan tài to lớn được đặt thờ ở chính giữa, bỗng nhiên có tiếng động...
Mỗi một món đồ cổ trong Á Xá đều có câu chuyện của mình, rất nhiều năm nay không có ai nghe. Bởi vì, chúng đều không biết nói...