Năm , Biện Kinh, Khai Phong.
Vầng thái dương vẫn chưa hoàn toàn mọc lên hẳn, bầu trời phía đông chỉ mới nhuộm một lớp ráng màu đỏ, tiếng gà gáy đã bắt đầu xuyên qua làn sương mù sáng sớm, vang vọng trong thành Biện Kinh. Tiếng chuông sớm trong các chùa chiền cũng lần lượt vang lên vào lúc này, trong nháy mắt phố phường yên tĩnh đã rộn ràng huyên náo, lục tục xuất hiện dân chúng dậy sớm.
Hầu Phương Kiệt dụi mắt, dựa vào tường cung tạm biệt đám bạn đồng liêu lũ lượt như cá đi ra khỏi cửa cung, cậu đang đợi bạn thân là Địch Vịnh trực đêm. Địa điểm trực đêm của bọn họ khác nhau, cậu chỉ là một trong những thị vệ trực ở Càn Nguyên môn, còn Địch Vịnh trực ở Thùy Củng điện nơi hoàng đế nghe triều chính, có thể thấy tiền đồ vô lượng.
Có điều chuyện này cũng không lạ, Địch Vịnh có một ông bố tốt, chính là Vũ Khúc Tinh - Địch Hán Thần - Địch Thanh của Đại Tống. Mặc dù Địch Thanh đã qua đời nhiều năm, nhưng người ta đã từng làm Khu mật phó sứ, chức vụ ấy là chức vụ cao nhất các võ tướng Đại Tống có thể đạt được từ trước đến giờ. Tất cả mọi người đều biết Đại Tống trọng văn khinh võ, cuối cùng cũng vì các quan văn toàn triều hợp lực chèn ép, Địch Thanh chết trong sự uất ức.
Hầu Phương Kiệt thở dài, mỗi một hán tử trong lòng đều có giấc mộng anh hùng kiến công lập nghiệp huyết chiến trên sa trường, mà Địch Thanh chính là tấm gương hồi nhỏ của cậu, chỉ là danh tướng đầu chưa bạc nhưng đã không gánh nổi sự nghi kỵ của người đời, thật khiến người ta thổn thức không nguôi.
Đang nghĩ ngợi mông lung, cửa cung một lần nữa vang lên kẽo kẹt, một nam tử trẻ tuổi tuấn tú ngời ngời đẩy cửa bước ra, tia nắng đầu tiên chiếu rọi trên người chàng, xung quanh chàng như được bao bọc bởi một lớp ánh sáng màu vàng nhạt, khiến người ta nhìn theo mà ngộp thở.
Đúng là không để cho người khác con đường sống.
Hầu Phương Kiệt vừa ghen tị vừa ngưỡng mộ âm thầm nghiến răng.
Địch Thanh là đệ nhất soái ca nổi danh bốn biển của Đại Tống, nhưng hồi trẻ ông chịu tội thay huynh trưởng, bị thích chữ lên mặt nên mới bị người ta gọi là Diện Niết tướng quân. Mỗi khi xung phong vào trận địa trên chiến trường Địch Thanh đều bắt chước Lan Lăng Vương hơn bốn trăm năm trước đeo mặt nạ quỷ, không phải vì muốn che đi hình xăm trên mặt, mà bởi vì ông ấy đẹp trai quá mức.
Nói ra mới nhớ, Địch Thanh còn là mỹ nam tử thứ hai tự cổ tới giờ đeo mặt nạ mới có thể ra chiến trường. Từ đó có thể thấy Diện Niết tướng quân năm xưa phong thái thế nào. Còn vị Vũ Tương Công này cho dù làm tới chức quan Khu mật phó sứ cũng không dùng thuốc tẩy đi chữ xăm trên mặt, cho dù hoàng đế đích thân khuyên bảo cũng không hề thay đổi, đây cũng là một điều luyến tiếc từ người có địa vị cao như hoàng đế cho tới người có địa vị thấp như tiểu thương, sai dịch.
Vì thế Hầu Phương Kiệt hoàn toàn hiểu được tại sao Địch Vịnh được phân bổ tới trực ban ở Thùy Củng điện, dù sao thì đây cũng là Địch Hán Thần tái thế sống sờ sờ ra đấy.
Lúc này trong làn gió xuân mát rượi Địch Vịnh đã chầm chậm bước tới, đôi mày chàng như núi xa, ánh mắt chàng như ngôi sao lạnh, cho dù là người khó tính kén chọn đến mấy cũng không tìm ra bất cứ khiếm khuyết nào trên ngũ quan của chàng. Trên người chàng vận bộ giáp y giống như những thị vệ khác, mặt ngoài là lụa, bên trong là vải gai màu xanh đen, giáp y dùng màu xanh lục để vẽ thành hình lá giáp, viền gấm đỏ, thắt đai da đỏ, chân chặt, eo giắt hoàn đao. Bộ đồ này bó thân, tay áo hẹp có tính thực dụng cao nhưng khi chàng mặc lại tỏa ra khí thế ngời ngời, càng làm tôn lên thân hình cao ráo lẫn sự anh tuấn vũ dũng của chàng.
Hầu Phương Kiệt vô số lần khinh bỉ bản thân tại sao lại làm bạn với tên này, đi bên cạnh mỹ nam tử thế này áp lực thực sự rất lớn. Nhưng đây cũng chính là nguyên nhân từ nhỏ đến lớn Địch Vịnh bị cô lập, thực sự là vì những người tâm chí không kiên định thì không thể nào chịu được.
Có điều một người bẩm sinh đã vô tư như Hầu Phương Kiệt cũng chỉ chửi thầm trong bụng cho có lệ là liền hết oán trách, ngáp một cái, hỏi: "Tư Đào, sáng nay đi án gì? Đậu viên nhuyễn ở Hiếu Nhân phường? Bánh đậu ở phố Quan Kiều? Bánh tứ sắc ở Thái Bình phường? Canh mì tiết ở ngõ Miếu Cảng? Hay là bánh nướng dì Trư ở cầu Chúng An..."
Thực ra thị vệ đại nội ở trong cung sau ca trực đều có cơm ăn, nhưng đám con nhà quan lại như bọn họ đương nhiên không muốn đi ăn thứ cơm mãi không đổi món ấy. Biện Kinh Khai Phong vô cùng phồn hoa, chỉ cần trong túi có tiền thì muốn án thứ gì đều không thành vấn đề. Hầu Phương Kiệt nói một tràng tên các món ăn, trong chốc lát cơn buồn ngủ cũng bay biến đi, nước dãi bắt đầu ứa ra.
Địch Vịnh nhìn sắc mặt thèm thuồng nhỏ dãi đến nơi của bạn mình, khóe môi lạnh lùng nhếch lên, khẽ thở dài: "Tới Thanh Phong lâu đi, hôm nay ta mời, đã làm khó huynh đổi ca trực cùng ta".
Thanh Phong lâu là một tửu lâu rất cổ tiếng ở Biện Kinh, không chỉ đơn giản là kinh doanh về đêm, mà điểm tâm buổi sáng còn quy tụ các món ăn vặt ở thành Biện Kinh, món gì cũng có. Hầu Phương Kiệt xoa xoa cái bụng rỗng tuếch của mình, cười cười: "Hứ, nói những lời này là lại thành xa lạ đấy. Ta với huynh vốn là huynh đệ, làm sao ta có thể nhìn huynh ngày ngày chịu giày vò được". Những lời cậu nói mặc dù rất đứng đắn nhưng vẫn có vẻ trêu chọc.
Nhắc tới chuyện này, cho dù là người tính cách lạnh lùng như Địch Vịnh cũng thở hắt một hơi bực bội hiếm có.
Trên thực tế, chàng vốn trực ở Thùy Củng điện vào ban ngày, hầu như ngày nào cũng lộ diện trước mặt hoàng đế, còn có thể đứng ngoài điện nghe các triều thần bàn luận chính sự, rõ là một chức vụ một bước lên mây xanh. Nhưng không thể chịu nổi cảnh mỗi lần trực xong về nhà đều bị mọi người trên phố vây lại, cảnh tượng cuồng loạn ấy càng ngày càng ác liệt, cuối cùng chàng đành cứng đầu đi xin đổi lịch trực, quả nhiên bây giờ thanh tịnh hẳn.
"Hừ, ai bảo công chúa Bảo An chỉ rõ muốn người như huynh làm phò mã của nàng, hoàng thượng còn gọi huynh là "hình mẫu lý tưởng", ai chẳng muốn tận mắt chứng kiến "hình mẫu lý tưởng" nổi tiếng gần xa do đích thân hoàng đế phong chứ?". Hầu Phương Kiệt còn cười nhạo trên "nỗi đau" của người khác.
Địch Vịnh chán chẳng buồn tiếp chuyện cái tên thích châm chọc người khác thế này, bởi chàng biết cho dù mình không đáp lời, một mình Hầu Phương Kiệt cũng có thể nói cười rất vui.
Hầu Phương Kiệt cũng hiểu tính tình của Địch Vịnh nên cũng không hy vọng chàng có phản ứng gì, tay đặt lên vai chàng cười khì: "Thế nào? Cảm giác được công chúa để mắt tới như thế nào?".
Địch Vịnh mặt mày không chút biểu cảm, bởi vì chàng biết đây thuần túy là một chuyện không thể xảy ra.
Công chúa Bảo An là trưởng nữ của Cao hoàng hậu, tôn quý vô cùng, làm sao có thể được gả cho một người là ngũ phẩm đông thượng các môn sứ như chàng? Vì vậy ngay từ ban đầu chàng chưa từng tham lam nghĩ ngợi, đợt trước hoàng đế đích thân vời chàng vào gặp, ý nọ ý kia là muốn ban hôn cho chàng và quận chúa, để chàng làm quận mã.
Đây đã là vinh dự không gì sánh được, chàng không có ý kiến gì. Chỉ là hôn nhân đại sự không phải thứ chàng muốn, chàng thà bằng giống như phụ thân mình, dấn thân nơi sa trường huyết chiến nơi biên ải.
Hầu Phương Kiệt và Địch Vịnh đi về phía phố lớn Tây Giác Lâu ở phía tây thành, vừa đi vừa nhớ tới cảnh tượng hoành tráng khi Địch Vịnh lên phố, bất giác bật cười: "Huynh nên thấy may mắn vì những cô nương kia đều ném cho huynh trâm hoa chứ không phải hoa quả, nếu không sớm muộn lại có thảm kịch nhân gian nhìn chết Vệ Giới".
(Vệ Giới (-): tự là Thúc Bảo, người An Ấp Hà Đông, là nhà huyền học, quan viên của triều Tấn, là một trong tứ đại mỹ nam thời cổ đại. Vệ Giới vì tướng mạo xuất chúng, đi đâu cũng bị người khác ngắm nhìn, dẫn đến căng thẳng tâm lý mà bệnh chết, từ đó có câu thành ngữ "nhìn chết Vệ Giới")
Khuôn mặt tuấn tú của Địch Vịnh tối sầm lại mấy phần, trong lòng đang cân nhắc xem có nên làm một cái mặt nạ bằng đồng giống phụ thân hay không, nhưng như thế quá khoa trương giữa thành Biện Kinh này, ngược lại sẽ làm trò cười cho người ta.
Hầu Phương Kiệt sán lại, hạ giọng cố ý làm ra vẻ thần bí: "Có biết không? Giữa phố phường đang đồn rằng Địch đại soái ca không thích trâm hoa, mà đang đợi người trong lòng dâng tặng một đóa".
Nam nhân thời này thích trâm hoa, đây đã là một phong tục tập quán của xã hội thượng lưu. Mỗi dịp đại lễ quan trọng hoàng đế đều ban tặng hoa cho các đại thần, loại trâm hoa được ban tặng còn dựa vào phẩm vị khác nhau mà có sự khác biệt. Hơn nữa, ở các nơi khác nhau, vào những mùa khác nhau, phục sức khác nhau phải kết hợp thế nào đều có yêu cầu nghiêm ngặt, ví dụ riêng hoa lụa đã có mấy chục loại và sắc màu, ví dụ khi gặp sứ giả nước ngoài không được đeo hoa sợi vàng, thậm chí có lúc cánh hoa ít nhiều cũng thể hiện ý nghĩa này ý nghĩa kia.
Từ trước tới nay Địch Vịnh luôn khinh bỉ tập tục nặng mùi son phấn thế này, bất kể mọi lúc chàng đều kiên quyết không nhận trâm hoa, trong số đồng liêu có người thấy khó coi nên lúc riêng tư châm biếm phụ thân chàng xuất thân bần hàn, gia giáo tầm thường, không hiểu lễ tiết.
Có điều Địch Vịnh cũng biết bản thân mình khác biệt quá mức. Những lời nói gió bay thế này chàng chẳng bao giờ để tâm. Huống hồ phụ thân của chàng quả thực xuất thân không tốt, còn từng bị dùng hình, bị xăm chữ, cũng đâu phải hậu nhân gì của Lương Quốc Công Địch Nhân Kiệt, có chuyện gì không thể khiến người khác nói được? Vì vậy những lời của Hầu Phương Kiệt ban nãy chàng coi như chuyện đùa, nét căng thẳng trên khuôn mặt tuấn tú cũng bớt đi vài phần, nhưng trái lại thể hiện sự dịu dàng mà người bên cạnh khó khăn lắm mới thấy được. Hầu Phương Kiệt càng ra sức tán chuyện nhảm.
Hai người sát vai nhau đi qua Hữu Dịch môn, đến Tây Nam trên phố Tây Giác Lâu, men theo phố Dõng Lộ tương đối rộng rãi, đi qua Khai Phong phủ, Điện Tiền ti, Thượng Thư sảnh ở phố lân cận. Trước cửa nha môn nghiêm trang thế này đã lác đác xuất hiện quan viên tới sớm, có người quen còn lên tiếng chào hỏi hàn huyên đôi câu với hai người. Địch Vịnh vốn không giỏi ăn nói, hơn nữa kết bạn cũng không rộng rãi, phần lớn mọi người đều mỉm cười nói chuyện với Hầu Phương Kiệt. Bọn họ đi tới đầu cầu Long Tân là nhìn thấy một tòa nhà cao lớn hoa lệ.
Thanh Phong lâu rất có danh tiếng ở thành Biện Kinh lại gần với nhiều nha môn quan phủ, rất nhiều quan viên thích tới nơi này nghỉ ngơi trò chuyện. Bước vào trong cánh cửa lớn có lan can điêu khắc hoa sơn màu sặc sỡ, trên bức tường của đại sảnh bên tay phải có treo một bài thơ của Tư Mã Quang "Cùng Tôn Khí ở Thanh Phong lâu". Mặc dù ánh dương mới nhô lên, nhưng trong Thanh Phong lâu đã rộn ràng náo nhiệt, Hầu Phương Kiệt biết Địch Vịnh không thích bị người ta vây quanh, nếu ngồi ở đại sảnh e rằng người người sẽ liếc nhìn, vì thế lên hẳn phòng riêng trên tầng ba.
Hầu Phương Kiệt tùy ý gọi mấy món đồ ăn sáng mình muốn ăn, còn chưa đợi được thức ăn lên đã thấy có người hầu bước vào, thông báo với bọn họ có người muốn làm phiền. Hầu Phương Kiệt làu bàu có lẽ là người quen nào đó thấy bọn họ lên đây nên muốn tới ghép bàn, thấy Địch Vịnh không ý kiến gì bèn gật đầu.
Một lúc lâu sau có người đẩy cửa bước vào. Người này mặc áo chùng thâm bó thân tay áo rộng thời Tần Hán, chiếc áo bào dài màu đen càng khiến khuôn mặt gã khôi ngô tuấn tú hơn, mái tóc dài chưa búi lên mà buông xõa sau tai, giống hệt nhân vật phong nhã bước ra từ những bức tranh cổ. Nhân vật thế này mặc dù không tuấn tú như Địch Vịnh nhưng cũng khiến người ta gặp mà khó quên. Hầu Phương Kiệt nhớ ngay ra thân phận của đối phương nên đứng dậy tiếp đón.
"Trời! Hôm nay gió thổi hướng nào thế này? Không ngờ lại gặp được huynh, thật trùng hợp quá!". Hầu Phương Kiệt làm như quen thân kéo đối phương ngồi vào bàn mình, sau đó giới thiệu với Địch Vịnh: "Đây là chủ tiệm một tiệm đồ cổ, ở phía vịnh Thái Hà, trước đây tôi từng mua đồ ở tiệm của huynh ấy".
Địch Vịnh gật đầu, coi như đã chào hỏi. Bản tính chàng trước nay lạnh lùng, thực ra cũng bởi vì nếu chàng quá giỏi biểu đạt thiện ý sẽ khiến xung quanh chàng không còn được thanh tịnh, vì vậy chàng thà cô độc một chút còn hơn.
Chỉ là, gã chủ tiệm này hàn huyên đôi câu với Hầu Phương Kiệt xong lại nhìn về phía Địch Vịnh, chậm rãi nói: "Tại hạ sắp rời khỏi Biện Kinh, dạo trước trong tiệm có nhận được một đồ vật, tại hạ nghĩ nếu không thể trả lại cho chủ cũ thì vẫn nên giao cho người kế tục nó".
"Sao? Á Xá sắp đóng cửa à?". Hầu Phương Kiệt giật mình, bỗng dưng cảm thấy có chút lưu luyến. Thôi vậy, cửa tiệm này đã mở được mấy năm rồi, có điều gã chủ tiệm này hình như vẫn cứ trẻ trung như vậy...
"À, đã đến lúc về quê rồi". Gã chủ tiệm cười nhạt, cũng không giải thích nhiều, lấy trong người ra một chiếc khăn gấm, đặt lên bàn sau đó từ từ mở ra.
Trong chiếc khăn gấm có một đồng tiền đồng nằm ngay ngắn.
Giây phút Địch Vịnh nhìn thấy đồng tiền đồng, đồng tử hơi co lại, đôi môi mỏng mím lại thành một đường thẳng.
"Đây là... ", Hầu Phương Kiệt ngạc nhiên một hồi, sau đó xoa cằm nghi ngờ hỏi: "Lẽ nào, đây là Hoàng Tống cửu điệp triện trong truyền thuyết?".
Hoàng Tống cửu điệp triện là một loại tiền đồng quý giá nhất trong số tiền Hoàng Tống Thông Bảo được phát hành trong những năm niên hiệu Hoàng Hựu thời Tống Nhân Tông, mặc dù chỉ là tiền đồng phát hành hơn mười năm trước nhưng vì hiếm có nên trên thị trường đã có giá trên trời, căn bản chẳng thể mua được, về cửu điệp triện, chính là dựa trên cơ sở là tiểu triện, nét bút gấp xếp nhiều lần, lượn vòng gấp khúc. Mỗi một chữ được gấp xếp bao nhiêu lần được quyết định bởi số nét đơn giản hay phức tạp, sở dĩ gọi là cửu điệp không phải vì chỉ được lặp lại chín lần, mà coi chín là con số cuối cùng, ý chỉ nét bút được gấp xếp nhiều lần.
Hầu Phương Kiệt xoa tay cười khì: "Chủ tiệm, huynh vội vã đem đồng Hoàng Tống cửu điệp hiện tới đây làm gì? Mặc dù đồng cửu điệp triện này rất đáng giá nhưng huynh đệ tôi cũng không thiếu chút tiền này".
Cậu liếc nhìn Địch Vịnh, có ý muốn giành miếng tiền đồng này, tự mình cất giữ. Dù sao cậu cũng đâu có lấy không, chắc chắn phải trả tiền rồi.
Gã chủ tiệm trẻ tuổi nheo đuôi mắt lại, khiến cả khuôn mặt bỗng chốc trở nên khó hiểu. Gã không nói gì cả, chỉ đưa tay lật đồng Hoàng Tống cửu điệp triện.
Hầu Phương Kiệt kinh ngạc và thất vọng, nghiến răng chỉ vào đồng Hoàng Tống cửu điệp triện: "Đồ giả! Đây chắc chắn là đồ giả! Làm gì có đồng tiền nào mà hai mặt đều là chính diện? Đây rõ ràng là đồ giả!".
Gã chủ tiệm bật cười với vẻ sâu xa khổ dò: "Huynh chắc chắn không? Huynh có chắc chắn chưa từng có đồng tiền xu nào không có mặt sau?".
"Ta chắc...", giọng Hầu Phương Kiệt kẹt ngay trong cổ họng, bởi vì đột nhiên cậu nhớ ra quả thực là có, hơn nữa cậu còn nhớ vô cùng rõ ràng chuyện này, hầu như có thể kể ngược kể xuôi được.
Niên hiệu Hoàng Hựu, Diện Niết tướng quân Địch Thanh Địch Hán Thần lãnh quân dẹp phản loạn Lưỡng Quảng, do hình thế hiểm trở, nên đến trước một ngôi miếu thề với Phật rằng, tung một trăm đồng xu lên, nếu mặt trước hướng lên trên, mặt sau hướng xuống dưới, thì có thể bảo đảm toàn quân đại thắng. Sau khi ông bước ra khỏi miếu, vung tay trước toàn quân, một trăm đồng tiền rơi xuống, không ngờ thực sự tất cả các đồng tiền xu đều hướng mặt trước lên trên, tất cả đều ồ lên kinh ngạc.
Địch Thanh lệnh cho thuộc hạ lấy một trăm cái đinh sắt, tùy ý đóng bẹp trăm đồng tiền đồng, tuyên bố đợi khải hoàn sẽ đem tiền cảm tạ thần linh, tu sửa miếu tự, đúc lại tượng vàng. Vì thế toàn quân khí thế ngút trời, đánh bại quân phản loạn. Sau khi khải hoàn, mọi người nhìn lại trăm đồng tiền đồng này, hóa ra đều là tiền hai mặt không có mặt sau (tiền Vô Bội).
Chuyện này đã được lưu truyền trong nhân gian rất lâu không ai không phục tài trí mưu lược của Vũ Tương Công Hầu Phương Kiệt một dạo cũng quên mất câu chuyện này nhớ lại trước đó gã chủ tiệm nói muốn trả lại đồng tiền xu này cho người kế tục, lập tức sáng mắt lên.
"Đây chính là đồng Vô Bội Tiền trong truyền thuyết? Sao chỉ còn có một đồng thế này? Không phải lúc đó có một trăm đồng sao?".
"Đồng tiền này không chỉ có thể bói mệnh mà còn có thể mua mệnh". Giọng gã chủ tiệm trẻ tuổi trầm ấm nho nhã, khiến người nghe bất giác toàn thân run rẩy.
"Chuyện bói mệnh ta hiểu, rất nhiều người bói toán bằng cách tung đồng xu, Vũ Tương Công cũng từng lợi dụng điểm này. Nhưng... mua mệnh?". Hầu Phương Kiệt nghi ngờ hỏi lại, cậu chưa từng nghe chuyện này.
"Huynh từng được nhận tiền áp tuế chưa? Chữ "tuế" và chữ "tụy" phát âm giống nhau, vì thế tương truyền rằng tiền áp tuế có thể trấn áp được tà ma. Vãn bối nhận được tiền áp tuế từ trưởng bối có thể bình an trải qua một tuổi đó. Người đời cho rằng tặng tiền áp tuế cho trẻ nhỏ là để có thể dùng tiền áp tuế hối lộ đám yêu ma quỷ quái khi chúng muốn hại trẻ nhỏ". Khóe môi gã chủ tiệm trẻ tuổi nhếch lên một đường cong, mỉm cười sâu xa: "Đây chính là mua mệnh".
(Tiền áp tuế: Tiền mừng tuổi.
Chữ "tuế" và chữ "tụy": Trong tiếng Trung chữ (tuế: tuổi) và (tụy: tà ma) phát âm giống nhau)
"Hơ... hồi nhỏ tiền áp tuế hằng năm của ta cứ nhận được là lập tức tiêu hết ngay... ta có thể bình an lớn lên thế này thật sự phải cảm ơn Phật rồi..."Hầu Phương Kiệt nghe mà lạnh sống lưng, cậu không hề biết hóa ra tiền áp tuế còn có ý đồ như vậy.
"Đồng tiền Vô Bội này do Vũ Tương Công đặc chế, nghe nói sau đó ông phát một trăm đồng tiền Vô Bội cho thuộc hạ, có thể mua mệnh, ngăn họa".
Gã chủ tiệm thong thả đứng dậy, bình thản nói với Địch Vịnh ngồi im lặng từ đầu tới cuối: "Tại hạ ngẫu nhiên có được đồng tiền Vô Bội này, nên trả lại cho Địch công tử, công tử vẫn nên mang theo đồng tiền Vô Bội bên mình thì tốt hơn". Nói xong cũng không màng tới Hầu Phương Kiệt ân cần níu kéo, gã thong thả đẩy cửa rời đi.
Người hầu ở Thanh Phong lâu biết bọn họ có chuyện cần nói nên ngoài ấm trà mang lên từ đầu, cũng không mang điểm tâm lên. Đợi người này rời đi, họ mới vào phòng nhanh chóng bày điểm tâm ra bàn.
Hầu Phương Kiệt thấy Địch Vịnh mặt mày không chút biểu cảm cũng không để tâm lắm, đợi đám người hầu trong quán lui xuống mới lấy khăn gấm bọc đồng tiền lại dúi vào tay Địch Vịnh, làu bàu dặn dò: "Nếu người ta đã nói phải mang theo bên mình, thì lát nữa tìm sợi dây luồn vào rồi đeo lên cổ đi".
Địch Vịnh đón lấy chiếc khăn gấm, tự mình cười nhạo, bình tĩnh nói: "Hàng ngày ta làm nhiệm vụ trong đại nội, làm gì có lúc nào nguy hiểm tới tính mạng chứ?".
Mặc dù nói cạnh vua như cạnh hổ dữ, nhưng Đại Tống trước giờ không giết người vô tội, bất kể là quan văn không bị chém đầu, quan võ dù dễ bị nghi kỵ nhưng cũng không phải không có thể diện, cho dù là bách tính dân thường cũng không dễ bị vu oan. Hoàng đế quan gia khiêm nhường, có lễ độ, Địch Vịnh thực sự không biết có lúc nào mình phải dùng tới đồng tiền Vô Bội này hay không.
Mặc dù chàng nghĩ rất thấu đáo nhưng trong lời nói lại toát ra vẻ buồn phiền vì chí hướng không được thể hiện. Hầu Phương Kiệt đương nhiên là nghe ra, chỉ đành dùng lời hay ý đẹp mà vỗ về thôi. Thực sự mà nói, Địch Thanh Địch Hán Thần và Lan Lăng Vương đều tuấn tú tới mức phải đeo mặt nạ ra trận, cuối cùng cũng bị đế vương nghi kỵ, lịch sử luôn có sự trùng hợp khiến người ta bất lực.
Trong lòng Hầu Phương Kiệt vừa suy nghĩ xa lắc xa lơ lại vừa moi ruột moi gan tìm lời an ủi Địch Vịnh. Địch Vịnh lại ra hiệu cho cậu im lặng, Hầu Phương Kiệt đang thắc mắc thì nghe thấy tiếng nói chuyện vọng ra từ phòng bên cạnh.
Cách âm của các phòng ở Thanh Phong lâu không tốt lắm, nhưng cũng chẳng có ai đến bàn chuyện cơ mật ở nơi này cả, giọng hai người nói chuyện trong phòng bên canh không to lắm nhưng đối với những người luyện võ tai mắt nhanh nhạy như Địch, Hầu thì lại nghe thấy rất rõ ràng.
Trước đó hai người họ đã nói gì Địch Vịnh không để tâm, nhưng không ngờ bọn họ lại nói tới chuyện Đường mạnh, Tống yếu.
Luận điểm này cũng lưu truyền nhiều trong các phố, triều Tống tự do ngôn luận nên luôn có người cứ lợi dụng điểm này. Chỉ là sau khi thái tổ hoàng đế dùng tiệc rượu tước binh quyền, địa vị của võ tướng giảm đi rất nhiều, đây cũng là nguyên nhân chính khiến cha của Địch Vịnh là Địch Thanh bị chèn ép dữ dội dẫn tới kết thúc cuộc đời trong uất ức.
(Tiệc rượu tước binh quyền: xin xem lại chương"Rìu Thiên Việt", "Tiệm đồ cổ Á Xá" tập )
Rất nhiều người cho rằng, triều Tống bây giờ không thể bì được với triều Đường binh hùng tướng mạnh. Hôm nay đúng lúc gã chủ tiệm đồ cổ trả lại tiền Vô Bội của phụ thân chế tác, Địch Vịnh mới có cảm giác uất ức khó nói ra, muốn nghe xem những người khác đánh giá thế nào.
Chỉ nghe thấy giọng một người không thể kiềm chế nổi mà đập bàn: "Đại Tống nhu nhược đã lâu, đánh trận không thắng nổi, cho dù có thắng cũng phải bồi thường, rõ là một quãng lịch sử ô nhục của dân tộc! Lục Tử, sao cậu lại chỉnh la bàn về thời đại này? Nhìn đã thấy tức giận!".
Bàn tay đang giữ cốc trà của Địch Vịnh nổi gân xanh. Câu này dù không phải nói trước mặt chàng nhưng chàng lại có cảm giác như bị người ta tát cho một cái, hai má đau điếng.
Lúc này phòng bên cạnh lại vang lên một giọng nói trầm ấm điềm tĩnh khác: "Đánh nhau? Chủ yếu xem xem đánh nhau vì cái gì. Đám người ngoại tộc kia ra sức một trận cũng chẳng qua vì muốn giành được gốm sứ, tơ lụa, lá trà của Trung Nguyên, mở cửa giao lưu thị trường là có thể giải quyết vấn đề này. Không chết ai, lại cổ thể trao đổi gốm sứ, tơ lụa lá trà, vậy còn ai đánh nhau nữa? Giống như thương nhân mở cửa hàng sẽ có bọn lưu manh tới thu phí, anh đưa tiền cho tôi hay đợi bọn lưu manh đập tan tành cửa hàng của anh ra rồi mới đưa tiền? Anh không thể giết sạch đám lưu manh kia, vì thế chỉ cần không phải cá chết lưới rách, thì biết sẽ phải làm thế nào để đưa ra lựa chọn".
Địch Vịnh nghe xong sững sờ cả người, chàng đúng là không hề suy nghĩ từ góc độ này. Nhưng suy nghĩ từ đại cục thì đúng là như vậy.
Thời Hán Vũ Đế nhờ nền chính trị thịnh vượng thời Hán Văn đế và Hán Cảnh đế nên quốc khố dư dả, quân phí đại chiến Hung Nô cũng được cấp dồi dào, thuế góp chinh chiến hàng năm cũng khiến bách tính dân thường hao tài tốn của, vô cùng cực khổ, ngay cả Hán Vũ Đế đến những năm cuối đời cũng từng hối hận.
Hơn nữa dân tộc du mục kia quả thực khó mà vây bắt sạch sẽ, giống như người này nói, thương gia vốn không có thực lực tuyệt đối để đám lưu manh biến mất, hơn nữa đáng sợ hơn là cho dù có giải quyết được đám lưu manh này thì vẫn còn đám tiếp theo.
Giọng nói trầm ổn kia lại tiếp tục vang lên: "Thực ra các triều đại quan trọng nhất là kinh tế, về đại thể chỉ cần bách tính có thể ăn no uống no thì sẽ không có xuất hiện động loạn liên tiếp. Ví dụ Tần Thủy Hoàng sửa Trường Thành, tôi tính bởi vì ông ta tính toán rằng, tiền phí sửa Trường Thành còn tiết kiệm hơn phí nuôi quân, hơn nữa còn không có hiểm họa binh quân trong tay không phục, tại sao lại không làm? Nhưng quân thần triều Tống lại phát hiện ra cách tiết kiệm hơn, không cần tu sửa Trường Thành, nộp phí bảo vệ là xong".
"Minh ước Thiền Uyên được ký kết thời Chân Tông, triều Tống mỗi năm cho Khiết Đan ba mươi vạn quan tiền. Nghe thì thấy nhiều, nhưng anh có biết quốc khố triều Tống thu nhập bao nhiêu không? Triều Tống lúc này mỗi năm thu nhập nhẹ nhàng cũng cả trăm triệu quan, ba mươi vạn quan tiền chỉ tương đương ,% thu nhập tài chính một năm thôi, Tống Chân Tông chỉ để lọt qua kẽ tay một chút tiền tiêu vặt là có thể dẹp được đám ăn mày, vậy còn ai không bỏ tiền ra mua bình an chứ? Chúng ta có thiếu tiền đâu!".
"Hơn nữa, triều Tống bồi thường chỉ muốn đưa bạc trắng và vải lụa, từ trước tới giờ không lấy tiền đồng làm đồ bồi thường, thậm chí còn hạn chế tiền đồng lưu thông ra ngoài. Bởi vì triều Tống thiếu đồng, giá trị của tiền đồng không theo kịp với giá trị của nguyên liệu đồng, cuối cùng lạm phát ngân phiếu dẫn tới lạm phát kinh tế, thực ra sau này triều Tống bị sập do nguy cơ kinh tế. Vì thế học kinh tế thực sự rất quan trọng...".
Địch Vịnh ngồi nghe rất chăm chú, những cách nói này cho dù hàng ngày chàng được nghe triều ở điện Thùy Củng rồi nhưng vẫn cảm thấy rất mới mẻ, nói gì tới trong đó còn có rất nhiều từ mới chàng nghe không hiểu. Chỉ là... sập? Giang sơn triều Tống đang rực rỡ thế này, người kia đang nói linh tinh gì thế?
Đôi mày đẹp của Địch Vịnh chau lại, chàng đứng dậy. Mặc dù chàng cảm thấy đối phương nói rất có lý nhưng lại có cảm giác lý thuyết suông xa rời thực tế, trong chốc lát chàng không nắm bắt được thứ suy nghĩ này, chỉ muốn kết giao với hai vị nhân huynh đó. Bọn họ có thể nói chuyện với nhau, ví dụ làm sao bọn họ biết được thông tin cơ mật như số liệu thu nhập tài chính cụ thể. Ví dụ lạm phát kinh tế là cái gì, nguy cơ kinh tế là cái gì. Làm sao mà triều Tống sẽ sập....
Hầu Phương Kiệt cùng nghe cao luận của hai vị nhân huynh kia nhưng chỉ thấy mới mẻ thôi, thấy Địch Vịnh sầm mặt bước đi cũng vội đuổi theo. Vị huynh đệ này của mình bộ dạng sắp đi báo thù đến nơi, ăn nói không hợp nhau là đánh thẳng tay luôn.
Chỉ là sự lo lắng của Hầu Phương Kiệt có phần thừa thãi, Địch Vịnh bảo người hầu gõ cửa bước vào thì nghe thấy một tiếng thở dài của người hầu.
Trên chiếc bàn vuông trong phòng kín có mấy đĩa đồ ăn sáng đã ăn được kha khá, nửa bát nước đậu còn thừa vẫn đang bốc khói, nhưng không thấy nửa bóng người bên bàn.
Địch Vịnh chau mày, đây chính là phòng bên cạnh phòng của chàng, lúc chàng bước sang đây hoàn toàn không nghe thấy tiếng bước chân rời đi, rốt cuộc chuyện này là sao? Cửa sổ trong phòng được đóng ngay ngắn, nếu bọn họ nhảy từ tầng ba xuống thì bên dưới chắc chắn đã vang lên tiếng la hét từ lâu rồi.
Lúc này bên tai chàng vang lên giọng nói đáng thương của người hầu: "Hầu thiếu gia, ngài có quen hai người này không? Bọn họ vẫn chưa trả tiền!".
Một bàn đồ ăn sáng cũng không đáng bao nhiêu tiền, Hầu Phương Kiệt cũng có chút quen biết với đám người hầu này, cậu đành chấp nhận, ngoan ngoãn đưa tay vào túi vừa lấy tiền ra vừa lẩm bẩm: "Thiếu gia ta đây không có bạn bè nào ăn bữa bá vương thế này đâu, mà thôi, vì mấy lời bàn luận kia, chút tiền này không là gì cả. Thiếu gia ta coi như cho ăn mày. Ta cũng đâu có thiếu tiền".
Ở đế đô, con cháu gia đình quan lại nếu không phải những kẻ ăn chơi không cầu thăng tiến, vậy thì chỉ có hai con đường văn, võ để lựa chọn. Nếu lựa chọn làm quan văn, không có học thức thì nhờ quan hệ để mua chức quan; có học thức thực sự thì vào nhà thái học, thi khoa cử, vào Hàn lâm viện. Nếu lựa chọn làm võ tướng vậy thì đi theo những con đường như làm thị vệ ở điện tiền, rèn luyện trong quân đội, phong quan. Địch Vịnh nhờ bóng phụ thân mình là Vũ Tương Công, vốn có thể có số má trước mặt hoàng đế, làm vài năm ở ngự tiền là có thể được điều vào cấm quân rèn luyện, lấy chút danh tiếng là có thể kết thân với quận chúa rồi.
Nhưng Địch Vịnh lại xin ra vị trí tiền tuyến nhất của Tây Bắc.
Nếu chàng đã dám thỉnh cầu, hoàng đế đương nhiên sẽ đồng ý. Huống hồ mặc dù Vũ Tương Công Địch Thanh chết có phần uất ức, nhưng đối với đương kim thánh thượng mà nói, ông cũng là nhân vật hoàng đế sùng bái thời niên thiếu nên sớm đã hạ lệnh khi tiên hoàng chết sẽ dời mộ Vũ Tương Công về tùy táng ở lăng Vĩnh Hậu. Được hậu ái như thế này đương nhiên cũng có cái nhìn khác về Địch Vịnh con ông.
Vì vậy Địch Vịnh thuận lợi đến thành Hoàn Châu trong ánh mắt khó hiểu của người trên người dưới ở Biện Kinh.
Đường Hoàn Khánh thống lĩnh Khánh Châu, Hoàn Châu, Mân Châu, Ninh Châu và Càn Châu; lấy Khánh Châu là trung tâm, Hoàn Châu ở phía Tây Bắc của Khánh Châu, có thể nói nơi đây là điểm đầu tiền tuyến đối mặt với Tây Hạ. Đường Hoàn Khánh trước đây từng được Chủng Thế Hoành, Phạm Trọng Yêm bố trí tỉ mỉ, lớn nhỏ tổng cộng có mười thành trì và sơn trại phối hợp lẫn nhau, nhìn rất kiên cố không gì phá vỡ nổi. Nhưng Địch Vịnh tới đây quan sát kỹ càng, càng tìm hiểu càng thấy kinh sợ.
Minh ước Thiền Uyên đã giúp hai nước Tống Liêu không chiến tranh hơn một trăm năm, nhưng tên đại lưu manh Liêu quốc được dẹp yên như vậy, Tây Hạ vùng lên sau này đương nhiên không chịu lạc hậu. Trước khi Phạm Văn Chính Công - Phạm Trọng Yêm nhậm chức Thiểm Tây kinh lược phủ an chiêu thảo phó sứ, quân Tống và quân Tây Hạ trước sau đã đánh nhau mấy trận ở Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, quân Tống đều bị quân Tây Hạ đánh cho không còn mảnh giáp, thương vong nặng nề. Mặc dù bây giờ đã tốt hơn trước rất nhiều nhưng sau khi Phạm Văn Chính Công đi, không ai có thể cứu vãn được tình hình quân Tống rệu rã cả.
Đúng thế, ai còn muốn đánh trận chứ? Cùng lắm thì bồi thường chút tiền thôi.
Địch Vịnh đứng trên tường thành ở Thanh Bình Quan, nhìn cát vàng đang cuộn lên phía chân trời, gần như đã che khuất mặt trời nhưng không thể nào chôn vùi được những lá cờ chiến bay phấp phới của hùng binh Tây Hạ ở ngoài thành.
Giờ này khắc này, Địch Vịnh bỗng dưng nhớ tới đoạn bình luận chàng nghe được ở Phong Thanh lâu, chợt cảm thấy vô cùng châm biếm.
Đúng thế, không có gì sai cả, đám tiền lẻ lọt qua kẽ tay quả thực có thể dẹp yên bọn ăn xin, nhưng về lâu về dài đám ăn xin được cho ăn đến béo ních đẫy đà, béo cũng béo rồi, muốn nhiều tiền hơn thì làm thế nào?
Địch Vịnh nhắm nghiền đôi mắt, bàn tay đang bám vào tường thành trở nên kiên định vững chãi hơn.
Cho đến bây giờ, chàng cũng không hề hối hận về lựa chọn của mình.
Hiện tại chàng đang ở biên cương Thanh Bình Quan, nơi đây phía đông cách sơn trại Quỷ Thông hai mươi lăm dặm, phía tây cách thành An Biên bốn mươi dặm, phía nam cách thành Hưng Bình ba mươi dặm, phía Bắc cách Hiểm Đạo Khẩu Bô hai mươi bảy dặm, là cứ điểm thành lũy quan trọng của thành Hoàn Châu. Nhưng lúc này, đại tướng Tây Hạ Nhân Đa Hãn dẫn đầu ba vạn người ngựa đánh giết tới đây, mà Thanh Bình Quan vẻn vẹn chỉ có ba nghìn người trấn giữ.
Cách đây một khắc, chàng đã dẫn binh sĩ đánh lùi đợt tấn công đầu tiên của đối phương, nhưng Địch Vịnh biết, đó chỉ là màn thăm dò mà thôi. Lần sau, quân địch sẽ vung Liêu đao sắc bén sáng quắc, chứ không dễ dàng đẩy lùi như bây giờ.
Hầu Phương Kiệt nhét kiếm vội vàng đi tới, ngoắc tay Địch Vịnh kéo về phía sau, miệng lo lắng làu bàu: "Tư Đào, tường thành này vốn không cao, huynh đứng đó nếu như bị tên bắn coi như xong đời rồi". Nói đây là tường thành vẫn còn quá khoa trương, theo như Hầu Phương Kiệt thấy đây chỉ là ụ đất nhỏ, ngay cả Thanh Phong lâu còn cao hơn đây.
Nghĩ tới đây Hầu Phương Kiệt lập tức nổi giận, không đến biên cương thì không biết, đến rồi mới biết nơi đây lạc hậu tới mức nào. Cậu cũng không phải chưa từng hối hận chỉ vì kích động trong giây lát nên đòi đi theo Địch Vịnh tới đây, nhưng trong gia tộc của mình cậu chỉ là con của người vợ lẽ không có gì nổi bật, muốn nổi bật hơn người quả thực không còn nơi nào có thể kiến công lập nghiệp nhanh hơn chiến trường.
Mọi thứ đều có nguy hiểm, muốn được báo đáp nhiều hơn thì phải có sự chuẩn bị tâm lý trả giá bằng tất cả.
Vì vậy Hầu Phương Kiệt nhìn thông mọi thứ, trước khi chết có thể giết được mấy tên Tây Hạ tùy táng, như thể cũng không uổng phí cả đời này. Chỉ là cậu liếc mắt nhìn Địch Vịnh không chút biểu cảm đứng bên cạnh, thầm than một tiếng đáng tiếc. Địch tiểu soái ca nổi danh cả triều Tống này đang đứng thẳng như một cây giáo dài, vì trận chém giết trước đó khiến sát khí đang bao quanh chàng, nửa bên áo giáp bị máu kẻ địch nhuộm đỏ, ngay cả khuôn mặt tuấn tú cũng dính vài giọt máu. Thậm chí có một giọt máu còn bắn vào khóe mắt chàng, càng làm tăng thêm vẻ sát khí lạ lùng khó diễn tả bằng lời. Nếu để đám thiếu nữ tặng trâm hoa mà biết Địch tiểu soái ca bị thương tổn ở đây khéo cả thành Biện Kinh sẽ bị nhấn chìm trong nước mắt mất.
Trái tim Hầu Phương Kiệt rất rộng mở, cho dù vào lúc tồn vong nguy cấp đầu óc vẫn có thể tưởng tượng miên man. Bỗng nhiên lúc này nghe thấy Địch Vịnh gọi mình một tiếng "Giới Thịnh", Hầu Phương Kiệt lập tức nghiêm túc trở lại, Địch Vịnh rất ít khi gọi tên tự của cậu, bởi vì bình thường đều là cậu nói chuyện, Địch Vịnh vốn chẳng hề tiếp lời.
Thấy Địch Vịnh lấy tấu sớ đã viết sẵn trong áo giáp ra, trầm giọng nổi: "Giới Thịnh, huynh cầm tấu sớ của ta tới thành Khánh Châu cầu viện".
"Huynh đi! Ta ở lại giữ thành!" Hầu Phương Kiệt nói ngay không cần suy nghĩ.
"Huynh giữ thành? Huynh có thể cầm cự tới lúc ta dẫn quân cứu viện về không? Hơn nữa làm gì có chủ tướng nào rời đi lúc lâm trận?". Trong đôi mắt phong nhã của Địch Vịnh lộ ra nét cười hiếm có: "Khánh Châu của đường Hoàn Khánh tiếp giáp với Hoàn Châu, nếu Hoàn Châu thất thủ, Khánh Châu cũng gặp nguy. Thanh Bình Quan đang bị bao vây, e rằng thành An Biên, lũy La Câu, lũy A Nguyên, lũy Chu Đài đều đã đắm chìm, vì vậy huynh buộc phải đi thẳng tới thành Khánh Châu, hiểu không?".
Thật là khó khăn lắm mới nghe thấy tên tiểu tử này nói một hơi nhiều lời như vậy, Hầu Phương Kiệt chau mày nhưng không nhận tấu sớ mà phản biện: "Nếu ta tới lũy Thông Quy, lũy Huệ Đinh cầu viện thì sao? Gần hơn nhiều so với đi thành Khánh Châu".
"Mấy nơi đó có được bao nhiêu binh sĩ? Liệu có ai bỏ thành lũy của mình đến nơi này cứu viện?". Địch Vịnh hướng tầm mắt về đại quân Tây Hạ phía xa xa, giờ đúng lúc ngừng chiến nghỉ ngơi, binh sĩ hai bên đều rất hiểu nhau không ai công kích mà thu dọn thi thể binh sĩ bỏ xác trên chiến trường thuộc về bên mình.
Địch Vịnh kế thừa truyền thống luyện binh của phụ thân, binh lính dày công rèn luyện đương nhiên sẽ mạnh hơn quân đội bình thường, chỉ là thời gian chàng tới thành Hoàn Châu chưa dài, nên đám binh lính này tuyệt đối không thể lấy một địch mười được. Ánh mắt Địch Vịnh kiên định, ngữ khí sắc bén: "Hầu phó tướng, không nên lãng phí thời gian nữa, đi chọn hai mươi người, phi ngựa nhanh tới thành Khánh Châu".
Nghe thấy bạn thân thay đổi cách xưng hô, Hầu Phương Kiệt mím chặt môi, biết nhiệm vụ này mình không nhận không được. Quân lệnh như sơn, cậu là phó tướng của Địch Vinh, đương nhiên không thể kháng lệnh.
Địch Vịnh thấy Hầu Phương Kiệt đón nhận tấu sớ xong, lại lấy ở thắt lưng ra một con hổ bằng gốm Ni Hưng Khâm Châu vừa trong lòng bàn tay, bình thản nói: "Huynh giữ hộ ta thứ này, ta sợ lúc chiến đấu giữ thành sẽ làm vỡ mất".
Hầu Phương Kiệt thờ ơ cầm lấy, cậu đã sớm biết huynh đệ mình lúc rời kinh thành ở thắt lưng đã có thêm con hổ gốm vui vẻ này, còn tưởng là cô nương nhà nào tặng nữa, còn từng trêu đùa không ít lần. Bây giờ thấy Địch Vịnh vào lúc này còn nhớ tới thứ này, Hầu Phương Kiệt đoán chắc vật này do người khác tặng. Có điều giờ phút này cậu cũng không có tâm trạng trêu đùa, cậu tùy ý đút vào trong kính hộ tâm, hỏi lại với vẻ không yên tâm: "Đồng tiền Vô Bội đâu? Huynh có đeo bên người thường xuyên không đấy?".
Chuyện này có tiền lệ sẵn, Diện Niết tướng quân Địch Thanh đã từng đem tiền Vô Bội chia cho thuộc hạ, Hầu Phương Kiệt sợ Địch Vịnh đầu óc đơn giản, đem bảo bối ấy tùy tiện tặng người khác. Mặc dù thật giả chưa bàn đến, nhưng xét cho cùng vẫn là mong an tâm.
Địch Vịnh lôi một sợi dây đỏ trong cổ ra, bên dưới đeo đồng tiền Vô Bội. Hầu Phương Kiệt thấy chính là đồng Hoàng Tống cửu điệp triện mới yên tâm. Thời cơ chiến đấu thay đổi trong chốc lát, cậu không phí lời thêm nữa mà lên trước ôm chặt Địch Vinh, áo giáp hai người va vào nhau thành tiếng lẻng xẻng, sau đó nghiến răng quay đầu ra đi, đi chọn binh sĩ phá vòng vây chuẩn bị tất cả mọi chuyện.
Mặc dù hai người đã tranh luận một hồi về việc ai ở ai đi, nhưng chuyện phá vòng vây là một việc vô cùng nguy hiểm. Tiểu đội hai mươi người vốn chỉ như một đàn kiến nhỏ trên chiến trường, phải xem đối phương có chịu mắt nhắm mắt mở hay không mà thôi.
Địch Vịnh đứng trên tường thành cũng ngẩn ngơ một hồi, sau đó thong thả gọi thuộc hạ tới, bố trí làm thế nào để chống lại đợt tấn công tiếp theo của Tây Hạ và quan trọng nhất là che chắn cho Hầu Phương Kiệt thoát khỏi vòng vây. Dùng binh thần tốc, rất nhanh chóng đã thương thảo xong mọi chuyện chúng quân đợi sẵn ở trong cửa thành, Hầu Phương Kiệt ngồi lên ngựa đội sẵn mũ giáp, tiện tay đưa cho Địch Vịnh một chiếc mặt nạ quỷ bằng đồng xanh.
"Này, ta tìm được trong hành lý của huynh. Đây là mặt nạ của Vũ Tương Công à? Đội vào đi, uy danh của Vũ Tương Công cũng được lưu truyền rộng rãi với người Tây Hạ, ít nhiều cũng có thể trông cậy".
Hầu Phương Kiệt nheo mắt cười, chẳng hề có chút căng thẳng khi sắp đối mặt với sinh tử, tùy ý như đang thảo luận với Địch Vịnh hôm nay đi đâu ăn cơm ở thành Biện Kinh vậy. Cậu tin rằng sinh tử có số trời định, quá lo lắng và băn khoăn đều là thứ cảm xúc thừa thãi, cứ cố gắng hết sức mình, không buồn không hối hận là xứng đáng rồi.
Cho dù là Địch Vịnh cũng không thể không phục sự bình tĩnh phóng khoáng lúc nào của bạn thân, chàng im lặng đón lấy mặt nạ đeo lên mặt, cũng giấu luôn sắc mặt của mình đằng sau tấm mặt nạ ấy.
Bên ngoài thành vang lên tiếng trống chiến đấu đinh tai nhức óc.
"Giết!" Theo tiếng la hét là cửa thành hé mở một nửa, Địch Vịnh phi ngựa dẫn đầu xông lên.
Trong cát vàng bay mù mịt là từng đám khói đen ngùn ngụt, xộc vào mũi đều là thứ không khí mang theo mùi máu tanh, bên tai vang lên đều là những tiếng chém giết và tiếng kêu thảm thiết trước khi chết, đây giống như cơn ác mộng vĩnh viễn không thể nào thức tỉnh được.
"Hự...... ", Địch Vịnh chỉ cảm thấy phổi mình như sắp nổ tung đến nơi, bao nhiêu lâu rồi chàng chưa uống nước? Đã ba canh giờ chưa? Hay là năm canh giờ rồi?
Vầng thái dương bị mây đen che kín đã nhú trở lại, Địch Vịnh hơi hoảng loạn vì ánh mặt trời khúc xạ trên đao kiếm, không thể nào kiềm chế được nên nhắm nghiền mắt lại, dường như cơn gió cuồng loạn thấu xương vang lên bên tai, chàng nghiêng người theo phản xạ, tay phải cầm đao vung mạnh một cái. Kèm theo đó là tiếng lưỡi đao sắc lẹm đâm vào cơ thể người, đối phương rú lên một tiếng, Địch Vịnh giơ chân đạp mạnh một cái, đạp đối phương bay xuống dưới tường thành.
"Hự...", thực sự không muốn mở mắt ra, cứ muốn chìm vào bóng tối như thế này, bao nhiêu lâu rồi chàng chưa ngủ? Một ngày? Hay là hai ngày?
Một mũi tên có đầu bằng lông vũ xé gió lao lên từ phía dưới tường thành, Địch Vịnh nghiêng đầu tránh được mũi tên đó, chật vật mở mắt ra. Mũi tên đâm vào đống cỏ phía sau lưng chàng, ngay lập tức có binh sĩ rút mũi tên ra, lên dây cung bắn mũi tên đó trở lại.
Vũ khí của bọn họ đã cạn kiệt, chỉ có thể dùng cách này để duy trì chiến đấu. Dùng đao của người Tây Hạ, tên của người Tây Hạ, chỉ cần có thể chiến đấu thì không chịu dễ dàng ngã xuống.
Tường thành Thanh Bình Quan đã tan nát không còn gì, những binh sĩ còn cố sức đứng dậy chiến đấu đều đang huyết chiến với đám quân Tây Hạ đang trèo lên. Địch Vịnh đã không nhớ nổi đây là lần thứ mấy chống đỡ đợt tấn công của quân Tây Hạ nữa, đám quân Tây Hạ này giống như châu chấu giết mãi không hết, giết chết loạt này lại có loạt khác ùn ùn kéo đến.
Chiếc mặt nạ vốn đeo trên mặt không biết đã bị quân địch chém bay từ lúc nào, thậm chí đối phương còn để lại một vết đao trên má chàng.
Xem ra bản thân mình thực sự hủy hoại thanh danh của phụ thân rồi, ngay cả một chiếc mặt nạ cũng không bảo vệ nổi.
Có điều, tại sao phải dùng mặt nạ chứ?
Trên chiến trường thực sự chẳng có ai kịp để tâm tới đối phương trông như thế nào.
Không biết mình đã giết ai, hoặc là, không biết ai đã giết mình.
"Hự...", Địch Vịnh lần nữa chém bay một tên Tây Hạ, bản thân suýt chút nữa bị đối phương lôi xuống dưới thành. Chàng chỉ cảm thấy đôi tay mình tê liệt sắp không thuộc về mình nữa, khắp người đâu đâu cũng là vết thương đao kiếm, hoàn toàn gắng gượng nhờ hơi thở. Thanh đao trên tay đã cong lưỡi, chàng cúi người nhặt thanh loan đao của quân Tây Hạ lên, ngẩng đầu nhìn tình hình bốn phía xung quanh.
Ba nghìn binh sĩ trong tay bây giờ có thể đứng trên tường thành chưa đầy một trăm người.
Địch Vịnh thở một hơi sâu, chàng sớm đã đoán được chiến sự sẽ phát triển tới bước này, vì thế cũng không có quá nhiều cảm xúc. Cũng may trước đó Hầu Phương Kiệt đã thoát được vòng vây, chàng cũng yên tâm phần nào. Nếu như cậu bạn thân thông minh thêm chút nữa, chàng không có cách nào lừa cậu ta thuận lợi như vậy.
Khánh Châu cách Hoàn Châu hơn hai trăm dặm, khi Hầu Phương Kiệt đi mỗi người mang theo hai con ngựa để thay đổi, nếu thuận lợi nửa ngày có thể tới thành Khánh Châu. Nhưng khó ở chỗ, thành Khánh Châu có chịu phái quân cứu viện hay không?
Hơn nữa Hoàn Châu có nhiều thành lũy sơn trại gần nhau bị chiếm đóng, quân cứu viện ít ỏi thì chẳng khác nào tìm đến cái chết. Nếu phái cả đoàn cứu viện đi nhỡ may trúng kế điệu hổ ly sơn của đối phương... Khác với Hoàn Châu, thành Khánh Châu là nơi biên cương trọng yếu, một khi thất thủ quân Tây Hạ có thể men theo đường Hoàn Khánh đánh thẳng tới Biện Kinh, thì Đại Tống sẽ gặp nguy.
Vì thế, từ giây phút phát hiện quân Tây Hạ, Địch Vịnh đã biết mình phải đối mặt với một trận tử chiến.
Chàng lệnh cho Hầu Phương Kiệt thoát vòng vây không chỉ vì sự riêng tư của mình muốn bảo toàn tính mạng cho bạn thân, mà quan trọng hơn là muốn để cho thuộc hạ binh sĩ niềm tin và hy vọng. Bọn họ cầu viện rồi, có thể lúc sau sẽ có quân cứu viện tới giúp đỡ, vì thế chỉ cần bọn họ có thể kiên trì tiếp tục kiên trì thêm chút nữa....
Mỗi người đều ôm hy vọng đẹp đẽ như vậy, Địch Vịnh lại không hề thấy hối hận vì đã lừa gạt thuộc hạ.
Trái phải đều là chết, vậy thì lựa chọn chiến đấu đến giây phút cuối cùng hay cúi đầu cầu xin tha mạng rồi vẫn chết?
Tại sao không chết một cách có ý nghĩa?
Tại sao không có ai ý thức được rằng Đại Tống đang rơi vào tình cảnh nguy hiểm như thế nào?
Tại sao không ai cảm nhận được đám hổ sói xung quanh đều đang giương đôi mắt rực lửa bao vây chúng ta?
Tại sao không ai biết rằng bọn họ đang ngồi trên một chiếc thuyền hoa vừa nguy hiểm lại thủng lỗ chỗ? Đang từ từ chìm xuống đáy biển, mà đám người ngồi trên ấy vẫn đang vui vẻ uống rượu hát ca vô ưu vô lo?
Trong lồng ngực phừng phừng lửa giận, Địch Vịnh lần nữa vác đao chém bay tên lính Tây Hạ vừa trèo lên tường thành, bây giờ chàng chẳng còn phong thái của đệ nhất mỹ nam Đại Tống như trước đây nữa, khắp người đầy máu tươi, giống như ác quỷ bò lên từ âm phủ.
Cơ thể đang tuân theo bản năng cứ chém từng đao, nhưng trong đầu lại hiện lên lời nói khiến chàng để tâm từ lâu.
Bỏ tiền mua bình an...
Không phải chàng không tán đồng quan điểm của người đó, góc độ nhìn vấn đề của mỗi người khác nhau, có lẽ người ấy đã sống quá lâu trong thời thanh bình nên đã quên mất dưới mặt hồ phẳng lặng là những cơn sóng ngầm hung hãn. Không chỉ có người đó, mà nhiều người ở thành Biện Kinh đều tưởng rằng thế gian này ca múa thanh bình, quốc thái dân an.
Chim trên trời đang cất tiếng véo von, vui vẻ nô đùa trong rừng làm sao có thể biết được bầy sói trong rừng dưới chân họ đang tranh đấu đời đời để giành lấy địa bàn chính là khu rừng này.
Rừng xanh đổi chủ, chim muông cầm thú chọn cây mà ở lại, nhưng đám sói cô đơn đã mất đi nhà của mình chỉ cần máu còn chảy trong huyết quản đều không muốn thoi thóp trên đời này!
Chàng nhất định phải bảo vệ lãnh thổ Đại Tống! Nếu không từ nay về sau bản đồ Đại Tống càng ngày càng nhỏ, cuối cùng diệt vong...
A... Phật Tổ ơi... con nguyện hiến tế sinh mạng của con... nếu ngài nghe thấy tiếng khẩn cầu của con... hy vọng ngày ấy đừng đến quá nhanh...
Sợi dây đỏ đã đứt, Hoàng Tống cửu điệp triện trên cổ Địch Vịnh lượn một đường cong hoàn mỹ trên không rồi rơi từ tường thành xuống vũng bùn, nẩy lên hai cái cuối cùng nằm lặng lẽ giữa vũng máu.
Ánh nắng chính ngọ chiếu trên mặt đồng tiền, không có bất cứ chữ triện nào cả.
Là mặt sau...
Gió nổi lên, mang theo cát vàng bụi mù khắp trời, cuối cùng từng hạt từng hạt cát phủ lên đồng tiền xu, chôn vùi nó...
Niên hiệu Trị Bình năm thứ ba, tháng Chín, năm Nhâm Ngọ, đại tướng Tây Hạ Nhân Đa Hãn dẫn ba vạn tinh binh công phá thành Hoàn Châu, tấn công rất lâu nhưng không hạ được. Con trai Vũ Tương Công - Địch Vịnh huyết chiến ba ngày, ba nghìn binh sĩ chống lại hơn vạn quân Tây Hạ, cuối cùng vì tường sập mà chiến bại. Ba nghìn quân không ai lùi bước, một lòng hy sinh cho tổ quốc. Trận huyết chiến chưa từng có trong hơn một trăm năm qua, khắp nước đều chấn động.
Di tấu của Địch Vịnh truyền tới Biện Kinh, chín chữ viết nên huyết thư. Mặc dù dẫn lại danh ngôn của Hán Vũ Đế nhưng vẫn vô cùng khí phách!
"Phạm ngã Đại Tống giả, kỳ viễn tất tru!"
"Kẻ nào phạm Đại Tống ta, dù xa đến mấy cũng đuổi cùng giết tận!"
Nhiều năm sau, Hàu Phương Kiệt đã già cả đang nằm nghỉ ngơi trong sân, đứa cháu trai mới năm tuổi tới, nâng vật trong tay lên như muốn tặng bảo vật.
"Ông ơi, ông ơi! Ông nhìn này, bên trong con hổ gốm lại có một đồng tiền xu!". Đứa cháu nói đến đây mới nhớ ra con hổ gốm là bảo bối vô cùng quý giá của ông nội, nên vội vã phân bua: "Là do đệ đệ không cẩn thận lúc lấy trong hộp ra, không cầm chắc đã đánh rơi xuống đất vỡ rồi...".
Đứa bé không nói tiếp nữa bởi vì ông nội đã giật lấy con hổ gốm trong tay cậu, sững sờ nhìn đồng tiền xu bên trong con hổ gốm đã vỡ làm đôi.
Đứa trẻ khóc ầm ĩ một hồi, thấy ông nội yêu quý mình nhất lần này không quan tâm tới mình nữa, đành lật đật chạy đi tìm cha mẹ.
Ánh dương những ngày trời thu đã không còn rừng rực nữa nhưng mồ hôi lại túa ra ướt đẫm toàn thân Hầu Phương Kiệt.
Lúc này ông mới biết tại sao năm đó khi mình phá vòng vây, rõ ràng cảm nhận được mình bị đao sắc chém vào nhưng sau khi thoát khỏi vòng vây lại phát hiện ra bản thân không hề có vết thương nào.
Hóa ra là như vậy... hóa ra huynh ấy sớm đã có lòng lấy cái chết để bảo vệ tổ quốc...
"Tư Đào...".
Lúc đứa bé kéo người lớn tới làm chỗ dựa, muốn giành lại con hổ gốm, thì phát hiện ra ông nội mình đã mãi mãi khép lại đôi mắt.
Đồng tiền xu vỡ đôi ấy nằm chặt trong lòng bàn tay ông.
Không ai có thể lấy ra được.