Từ lúc Elisabeth đọc được mấy dòng thư của Margot, cuộc sống của bà biến thành một trong những câu hỏi đánh đố quái dị dài lê thê mà người ta bắt tay cố giải cho ra trong phòng học mộng tưởng của cơn mê sảng u uất. Và bắt đầu bà có cảm giác như chồng mình đã chết và mọi người đang cố lừa cho bà nghĩ rằng chẳng qua ông đã bỏ rơi bà.
Bà nhớ lại - vào buổi tối mà giờ đây dường như thật xa xăm - bà hôn lên trán ông trước khi ông đi, và ông cúi người nói: "Dù sao đi nữa, tốt hơn em nên xin hẹn với Lampert. Không thể cứ để con bé tiếp tục gãi như thế được."
Đó là những lời cuối cùng của ông trong cuộc sống này, những lời đơn giản bình thường nói về mấy vết sẩy ngứa nhẹ phát ra trên người bé Irma - và rồi ông bỏ đi mãi mãi.
Lọ thuốc mỡ kẽm đã chữa khỏi chỗ ngứa đó sau vài ngày - nhưng không thuốc mỡ nào trên thế giới này có thể xoa dịu và xóa đi ký ức về vầng trán rộng màu trắng của ông và cách ông vỗ nhẹ lên túi áo khi rời khỏi căn phòng.
Trong những ngày đầu tiên, bà đã khóc nhiều đến mức chính là bà cũng ngạc nhiên về dung tích tuyến nước mắt của mình. Các nhà khoa học có biết lượng nước mặn chát có thể chảy ra từ mắt người là bao nhiêu không? Và điều đó làm bà nhớ đến một mùa hè trên bờ biển nước Ý, họ từng hay tắm cho con bé trong bồn nước biển - ôi, những giọt nước mắt của bà có thể trút đầy một cái bồn còn to hơn thế nhiều và tắm cho cả một người khổng lồ vùng vẫy.
Không rõ vì sao bà thấy việc ông từ bỏ Irma dường như còn khủng khiếp hơn nhiều so với việc ông bỏ bà đi. Hay là ông sẽ cố đánh cắp con gái mình? Gửi con bé về quê cùng cô bảo mẫu liệu có là thận trọng hơn không? Thế là thận trọng, Paul nói vậy, và ông giục bà cũng đến đó luôn. Nhưng bà không nghe theo. Tuy bà cảm thấy sẽ không bao giờ có thể tha thứ (không vì ông đã làm bẽ mặt bà - bà quá kiêu hãnh nên không thể cảm thấy mình bị đối xử tệ bạc như thế - nhưng vì ông đã tự hạ nhục mình), song Elisabeth vẫn chờ đợi, ngày này qua ngày khác, hy vọng cửa sẽ mở ra giống trong cái đêm bất ngờ như sét đánh ngang tai đó, và chồng bà sẽ bước vào, nhợt nhạt như Lazarus[1], đôi mắt màu xanh của ông sưng húp nhoẹt nhòe, quần áo tả tơi từng mảnh, hai tay dang rộng.
[1. Trong Tân Ước, Lazarus là em của Madeleine, được Chúa Jesus hồi sinh.]
Phần lớn thời gian mỗi ngày bà ngồi trong một căn phòng nào đó, hay thậm chí đôi khi trong sảnh - ở bất cứ chỗ nào mà màn sương nặng trịch của tâm tư bất thần chiếm ngự bà - và bà suy ngẫm về chi tiết này hay chi tiết kia trong cuộc đời làm vợ của mình. Bà thấy dường như ông đã luôn không chung thủy. Và lúc này đây bà nhớ và hiểu ra (như một người đang học một ngôn ngữ mới có thể nhớ ra mình từng nhìn thấy một cuốn sách bằng ngôn ngữ đó lúc còn chưa biết) những vết đỏ - những nụ hôn đỏ nhớp nhúa – mà bà đã có lần nhìn thấy trên khăn mùi soa của chồng.
Paul đã làm hết những gì có thể để chuyển hướng suy nghĩ của bà. Ông không bao giờ nhắc tới Albinus. Ông thay đổi một số thói quen yêu thích của mình – chẳng hạn như thói quen đi nhà tắm hơi kiểu Thổ mỗi sáng Chủ nhật. Ông mang tạp chí và tiểu thuyết đến cho bà, và họ trò chuyện về thời thơ ấu của họ, về cha mẹ họ đã qua đời từ lâu, và về người anh trai tóc vàng bị chết trong trận Somme[2]: đó là một nhạc sĩ, một kẻ mơ mộng.
[2. Một trận đánh đẫm máu diễn ra vào mùa hè và mùa thu năm 1916 trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất.]
Vào một ngày hè nóng nực nọ, họ đi công viên xem một chú khỉ nhỏ, nó trốn thoát khỏi ông chủ và leo lên một cây du cao. Khuôn mặt nhỏ đen đúa của nó dưới vòng lông tơ màu xám ló nhìn ra từ đám lá xanh và biến mất, rồi một cành cây kêu xào xạc và lay động ở vài thước trên cao. Ông chủ cố dụ nó xuống bằng một điệu huýt sáo khẽ, bằng một quả chuối to màu vàng, bằng một tấm gương bỏ túi mà ông làm lóe sáng đi lóe sáng lại, nhưng chỉ hoài công.
“Nó sẽ không quay lại đâu, vô vọng thôi, nó sẽ vĩnh viễn không quay lại đâu,” bà lẩm bẩm rồi òa khóc.
Từ lúc Elisabeth đọc được mấy dòng thư của Margot, cuộc sống của bà biến thành một trong những câu hỏi đánh đố quái dị dài lê thê mà người ta bắt tay cố giải cho ra trong phòng học mộng tưởng của cơn mê sảng u uất. Và bắt đầu bà có cảm giác như chồng mình đã chết và mọi người đang cố lừa cho bà nghĩ rằng chẳng qua ông đã bỏ rơi bà.
Bà nhớ lại - vào buổi tối mà giờ đây dường như thật xa xăm - bà hôn lên trán ông trước khi ông đi, và ông cúi người nói: "Dù sao đi nữa, tốt hơn em nên xin hẹn với Lampert. Không thể cứ để con bé tiếp tục gãi như thế được."
Đó là những lời cuối cùng của ông trong cuộc sống này, những lời đơn giản bình thường nói về mấy vết sẩy ngứa nhẹ phát ra trên người bé Irma - và rồi ông bỏ đi mãi mãi.
Lọ thuốc mỡ kẽm đã chữa khỏi chỗ ngứa đó sau vài ngày - nhưng không thuốc mỡ nào trên thế giới này có thể xoa dịu và xóa đi ký ức về vầng trán rộng màu trắng của ông và cách ông vỗ nhẹ lên túi áo khi rời khỏi căn phòng.
Trong những ngày đầu tiên, bà đã khóc nhiều đến mức chính là bà cũng ngạc nhiên về dung tích tuyến nước mắt của mình. Các nhà khoa học có biết lượng nước mặn chát có thể chảy ra từ mắt người là bao nhiêu không? Và điều đó làm bà nhớ đến một mùa hè trên bờ biển nước Ý, họ từng hay tắm cho con bé trong bồn nước biển - ôi, những giọt nước mắt của bà có thể trút đầy một cái bồn còn to hơn thế nhiều và tắm cho cả một người khổng lồ vùng vẫy.
Không rõ vì sao bà thấy việc ông từ bỏ Irma dường như còn khủng khiếp hơn nhiều so với việc ông bỏ bà đi. Hay là ông sẽ cố đánh cắp con gái mình? Gửi con bé về quê cùng cô bảo mẫu liệu có là thận trọng hơn không? Thế là thận trọng, Paul nói vậy, và ông giục bà cũng đến đó luôn. Nhưng bà không nghe theo. Tuy bà cảm thấy sẽ không bao giờ có thể tha thứ (không vì ông đã làm bẽ mặt bà - bà quá kiêu hãnh nên không thể cảm thấy mình bị đối xử tệ bạc như thế - nhưng vì ông đã tự hạ nhục mình), song Elisabeth vẫn chờ đợi, ngày này qua ngày khác, hy vọng cửa sẽ mở ra giống trong cái đêm bất ngờ như sét đánh ngang tai đó, và chồng bà sẽ bước vào, nhợt nhạt như Lazarus[], đôi mắt màu xanh của ông sưng húp nhoẹt nhòe, quần áo tả tơi từng mảnh, hai tay dang rộng.
[. Trong Tân Ước, Lazarus là em của Madeleine, được Chúa Jesus hồi sinh.]
Phần lớn thời gian mỗi ngày bà ngồi trong một căn phòng nào đó, hay thậm chí đôi khi trong sảnh - ở bất cứ chỗ nào mà màn sương nặng trịch của tâm tư bất thần chiếm ngự bà - và bà suy ngẫm về chi tiết này hay chi tiết kia trong cuộc đời làm vợ của mình. Bà thấy dường như ông đã luôn không chung thủy. Và lúc này đây bà nhớ và hiểu ra (như một người đang học một ngôn ngữ mới có thể nhớ ra mình từng nhìn thấy một cuốn sách bằng ngôn ngữ đó lúc còn chưa biết) những vết đỏ - những nụ hôn đỏ nhớp nhúa – mà bà đã có lần nhìn thấy trên khăn mùi soa của chồng.
Paul đã làm hết những gì có thể để chuyển hướng suy nghĩ của bà. Ông không bao giờ nhắc tới Albinus. Ông thay đổi một số thói quen yêu thích của mình – chẳng hạn như thói quen đi nhà tắm hơi kiểu Thổ mỗi sáng Chủ nhật. Ông mang tạp chí và tiểu thuyết đến cho bà, và họ trò chuyện về thời thơ ấu của họ, về cha mẹ họ đã qua đời từ lâu, và về người anh trai tóc vàng bị chết trong trận Somme[]: đó là một nhạc sĩ, một kẻ mơ mộng.
[. Một trận đánh đẫm máu diễn ra vào mùa hè và mùa thu năm trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất.]
Vào một ngày hè nóng nực nọ, họ đi công viên xem một chú khỉ nhỏ, nó trốn thoát khỏi ông chủ và leo lên một cây du cao. Khuôn mặt nhỏ đen đúa của nó dưới vòng lông tơ màu xám ló nhìn ra từ đám lá xanh và biến mất, rồi một cành cây kêu xào xạc và lay động ở vài thước trên cao. Ông chủ cố dụ nó xuống bằng một điệu huýt sáo khẽ, bằng một quả chuối to màu vàng, bằng một tấm gương bỏ túi mà ông làm lóe sáng đi lóe sáng lại, nhưng chỉ hoài công.
“Nó sẽ không quay lại đâu, vô vọng thôi, nó sẽ vĩnh viễn không quay lại đâu,” bà lẩm bẩm rồi òa khóc.