Thi thể cha Tengo trong bộ đồng phục của nhân viên thu phí NHK là ủi phẳng phiu được đặt vào cỗ quan tài gỗ mộc mạc. Có lẽ đây là loại quan tài gỗ rẻ nhất, một món đồ hết sức hời hợt, trông chỉ chắc chắn hơn cái hộp gỗ đựng bánh ga tô một chút mà thôi. Người chết vốn người thấp nhỏ, vậy mà không gian bên trong gần như không thừa ra một chút nào. Quan tài được làm bằng gỗ dán, không có chút trang trí gì. Dùng cỗ quan tài này không sao chứ? Người ở công ty tổ chức tang lễ hỏi cho chắc. Không sao cả, Tengo trả lời. Đây là cỗ quan tài cha anh đã tự chọn ra trong mục sản phẩm và đã trả tiền rồi. Nếu bản thân người chết đã không có ý kiến thì Tengo đương nhiên không có.
Mặc đồng phục của nhân viên thu phí NHK nằm trong cỗ quan tài đơn sơ, cha anh trông không giống đã qua đời. Trông ông như thể đang tranh thủ lúc rảnh chợp mắt giây lát giữa bọn bề công việc, bất cứ lúc nào ông cũng có thể ngồi dậy, đội mũ lên tiếp tục đi thu tiền. Bộ đồng phục có thêu logo của NHK này giống như một phần da thịt của ông. Người này ra đời trong bộ đồng phục, rồi mặc cũng bộ đồng phục ấy đi vào lò hỏa thiêu. Khi nhìn thấy nó trong thực tế, Tengo không tưởng tượng nổi ngoài bộ đồng phục NHK ra thì còn bộ y phục nào thích hợp hơn với ông trong giờ khắc cuối cùng. Giống như các chiến binh trong ca kịch của Wagner khi được đưa đi hỏa táng thì nhất thiết phải mặc áo giáp vậy.
Sáng sớm ngày thứ Hai, trước mặt Tengo và Adachi Kumi, người ta đậy nắp quan tài, đóng đinh, sau đó cho lên xe tang. Gọi là xe tang nhưng thực ra nó giống hệt chiếc xe đã đưa thi thể ông từ bệnh viện đến công ty tổ chức tang lễ, loại xe van Toyota chú trọng công năng, chỉ là thay cỗ quan tài vào chỗ giường gắn dưới bánh xe. Đây chắc cũng là loại xe tang rẻ nhất. Hoàn toàn không có vẻ gì là trang nghiêm. Cũng không có tiếng nhạc Götterdämmerung[1] đưa tiễn. Mặc dù vậy Tengo dường như cũng không tìm ra được lý do gì để phàn nàn. Adachi Kumi dường như cũng không để tâm cho lắm. Quan trọng là một con người đã biến mất khỏi thế gian, những người còn sống nên khắc ghi sự thật này vào lòng. Hai người ngồi lên taxi, đi theo chiếc xe van màu đen ấy.
[1] Hoàng hôn của các vị thần, tên một vở nhạc kịch của Richard Wagner, nhạc sĩ Đức.
Rời khỏi đường quốc lộ ven bờ biển, đi thêm một đoạn về phía vùng đồi núi, họ đến khu hỏa táng. Nơi này tương đối mới, nhưng lại là một kiến trúc cực kỳ thiếu cá tính. Tiếng là nhà hỏa táng, nhưng nhìn nó giống như công xưởng hay cơ quan của chính phủ hơn. Có điều khu vườn rất đẹp, được cắt tỉa cẩn thận. Ống khói sừng sững vươn cao, chĩa thẳng lên trời. Nhìn ống khói này có thể nhận ra đây là một kiến trúc được sử dụng vào mục đích đặc biệt. Hôm ấy có lẽ nhà hỏa táng không nhiều việc lắm, họ không phải chờ, quan tài được nhận vào ngay. Cỗ quan tài chậm chậm đi vào lò đốt nhiệt độ cao, cánh cửa sắt nặng nề tựa như nắp tàu ngầm đóng lại. Người đàn ông trung niên ở nhà hỏa táng đeo găng trắng chắp tay thi lễ với Tengo, sau đó ấn nút châm lửa. Adachi Kumi hướng về phía cánh cửa sắt đóng kín chắp hai tay lại, Tengo làm theo.
Cuộc hỏa táng kéo dài khoảng một tiếng, Tengo và Adachi Kumi đợi ở phòng nghỉ trong tòa nhà. Adachi Kumi mua hai lon cà phê nóng ở máy bán hàng tự động, hai người họ ngồi cạnh nhau lặng lẽ uống trên băng ghế dài đối diện với ô cửa sổ kiểu Pháp. Ngoài cửa sổ là một thảm cỏ mùa đông khô héo, và những cây trụi lá. Hai con chim màu đen đậu trên cành cây. Tengo không biết chúng là loài chim gì. Đuôi dài, thân nhỏ, giọng hót lớn, sắc lanh lảnh. Lúc kêu, đuôi chúng dựng đứng lên. Bên trên rừng cây nhỏ ấy là bầu trời mùa đông xanh ngắt không một gợn mây. Bên trong áo khoác nỉ màu kem có cúc bằng sừng trâu, Adachi Kumi mặc váy đen ngắn, Tengo mặc áo len cao cổ màu đen, áo khoác dạ màu xám sẫm. Anh đi giày đế bằng màu cà phê đậm. Trong đống quần áo của anh, đây đã là bộ nghiêm chỉnh nhất rồi.
“Bố em cũng hỏa táng ở đây,” Adachi Kumi nói, “những người cùng đến ai cũng hút thuốc liên tục không ngừng. Kết quả là cả một quầng khói lơ lửng trên trần nhà. Cũng chả trách được, họ đều là bạn đánh cá với bố em mà.”
Tengo tưởng tượng ra cảnh ấy. Một đám người da ngăm đen vì cháy nắng, khoác trên mìn bộ vest đen không quen mặc, người nào người nấy không ngừng hút thuốc, ai điếu cho người đàn ông chết vì ung thư phổi. Nhưng lúc này trong phòng nghỉ chỉ có Tengo và Adachi Kumi. Bầu trời khí xung quanh tĩnh lặng. Tiếng hót lanh lảnh của lũ chim chốc chốc vẳng từ khu rừng nhỏ đến, ngoài ra không có bất cứ âm thanh nào phá vỡ sự tĩnh lặng ấy. Không âm nhạc, không tiếng người. Mặt trời trút ánh sáng dịu dàng ấm áp xuống mặt đất. Ánh sáng xuyên qua cửa kính lọt vào phòng, tụ thành một mảng sáng trầm mặc dưới chân hai người. Thời gian tựa như dòng nước gần cửa sông, trôi đi chầm chậm.
“Cảm ơn cô đã đi với tôi,” Tengo nói sau một hồi im lặng.
Adachi Kumi vươn tay ra, đặt lên bàn tay Tengo. “Đi một mình sẽ không chịu đựng nổi đâu. Tốt nhất là bên cạnh có một người. Giống như thế này này.”
“Có lẽ thế thật,” Tengo thừa nhận.
“Một người chết đi, dù hoàn cảnh thế nào thì cũng là chuyện khủng khiếp. Vì thế giới này đột nhiên vỡ ra một lỗ thủng. Chúng ta cần phải bày tỏ lòng thành kính. Bằng không, lỗ thủng ấy sẽ không bao giờ bịt lại được.”
Tengo gật đầu.
“Không thể bỏ mặc nó được,” Adachi Kumi nói tiếp, “không khéo có người rơi xuống khỏi lỗ thủng ấy.”
“Nhưng cũng có lúc người chết mang theo bí mật,” Tengo nói, “trường hợp đó mà bít lỗ thủng thì những bí mật ấy sẽ trở thành bí mật vĩnh viễn.”
“Nhưng em cảm thấy thế cũng là cần thiết.”
“Tại sao?”
“Nếu người chết đã mang bí mật ấy đi theo thì chắc chắn nó là thứ không thể để lại phía sau.”
“Tại sao không thể để lại phía sau?”
Adachi Kumi buông tay Tengo ra, nhìn chằm chằm vào mặt anh. “Hẳn là trong những bí mật ấy có một số việc chỉ người chết mới hiểu được. Có tốn bao nhiêu thời gian, nói bao nhiêu lời cũng không thể lý giải cho cùng những sự việc ấy. Thứ ấy người chết chỉ có thể mang theo xuống mồ, như một món hành lý tùy thân quan trọng vậy.”
Tengo không nói gì, nhìn vạt nắng dưới chân. Sàn nhà lót vải sơn sáng lên mờ mờ. Trước mắt Tengo là đôi giày đế bằng đã cũ của anh, và đôi giày gót thấp kiểu dáng đơn giản màu đen của Adachi Kumi. Cảnh ấy ngay trước mắt anh, nhưng lại dường như xa hàng dặm.
“Anh Tengo chắc cũng có những điều khó lòng nói rõ với người khác, phải không?”
“Có lẽ,” Tengo đáp.
Adachi Kumi không nói gì, đan chéo đôi chân thanh mảnh trong chiếc tất liền quần vào với nhau.
“Lần trước cô nói, cô đã chết một lần,” Tengo hỏi Adachi Kumi.
“Ưm. Hồi trước em từng chết một lần. Trong một đêm mưa lạnh cô đơn.”
“Cô còn nhớ tình cảnh lúc đó không?”
“Có chứ, em nghĩ thế. Từ lâu lắm rồi em đã thường xuyên nằm mơ, thấy tình cảnh lúc đó. Giấc mơ rất rõ ràng, lần nào cũng như lần nào, nên em buộc phải tin chuyện đó thực sự đã xảy ra.”
“Có giống như reincarnation không?”
“Reincarnation?”
“Chuyển thế. Luân hồi.”
Adachi Kumi ngẫm nghĩ giây lát. “Em biết nói thế nào nhỉ? Có lẽ phải. Cũng có lẽ là không.”
“Sau khi chết, cô cũng được hỏa thiêu thế này à?”
Adachi Kumi lắc đầu. “Em không nhớ nữa. Vì đó là chuyện sau khi chết. Em chỉ nhớ khoảnh khắc lúc mình chết thôi. Có người siết cổ em. Một người đàn ông xa lạ.”
“Cô còn nhớ mặt hắn ta không?”
“Tất nhiên. Em đã nhìn thấy vô số lần trong các giấc mơ. Nếu gặp ở trên đường, thoạt nhìn cái là em có thể nhận ra ngay.”
“Nếu thật sự gặp lại hắn trên đường, cô sẽ làm gì?”
Adachi Kumi lấy đầu ngón tay day day mũi, như kiểm tra xem mũi mình có còn ở đó không. “Chuyện này à, em nghĩ đi nghĩ lại nhiều rồi. Nếu thực sự gặp hắn trên đường thì tính sao? Có thể em sẽ co giò chạy, cũng có thể sẽ lẳng lặng bám theo sau hắn. Mà không, phải đến lúc ấy thì em mới biết được mình sẽ làm gì chứ.”
“Theo dõi hắn, sau đó thì thế nào?”
“Em làm sao mà biết được. Nhưng có lẽ người đàn ông ấy nắm được bí mật quan trọng gì đó về em chăng. Nếu thuận lợi, biết đâu em sẽ làm rõ được chân tướng cái bí mật ấy.”
“Bí mật gì?”
“Ví dụ như ý nghĩa của việc em ở nơi này chẳng hạn.”
“Nhưng người đàn ông ấy có thể sẽ giết cô thêm một lần nữa.”
“Cũng không chừng,” Adachi Kumi hơi dẩu môi lên. “Hắn ta nguy hiểm. Chuyện này thì tất nhiên em biết. Có lẽ bỏ chạy mới là cách hay nhất. Nhưng em vẫn bị cái bí mật chắc chắn là có tồn tại ấy thu hút. Kiểu như chỉ cần có hang hốc tối tăm là lũ mèo phải vào do thám cho bằng được ấy.”
Sau khi hỏa táng xong, Tengo và Adachi Kumi cùng thu nhặt di cốt của cha anh, cho vào hũ nhỏ. Hũ tro cốt được trao lại cho Tengo. Nhận thì nhận, song Tengo không biết phải xử lý ra sao cho ổn, lại không thể tùy tiện bỏ đâu thì bỏ. Anh lúng túng ôm lọ tro, cùng Adachi Kumi bắt taxi chạy về phía nhà ga.
“Những chuyện lặt vặt còn lại, em sẽ xử lý ổn thỏa.” Adachi Kumi nói trên taxi. Sau đó, thoáng trầm ngâm, cô nói thêm: “Nếu anh không ngại, việc đặt hũ di cốt này cũng để em làm hộ cho, được không?”
Tengo nghe cô nói thế, lấy làm kinh ngạc. “Như vậy được không?”
“Có gì mà không được,” Kumi nói, “còn có những tang lễ mà không người thân nào có mặt cơ mà.”
“Nếu cô có thể làm vậy thì đã giúp được tôi một việc lớn rồi,” Tengo nói, ít nhiều thấy áy náy, nhưng thật ra anh có cảm giác vừa trút đi được một gánh nặng. Anh đưa hũ tro cốt cho Adachi Kumi. Chắc mình sẽ không bao giờ trông thấy hũ di cốt này nữa, anh nghĩ. Giờ chỉ còn lại ký ức. Và ký ức này đến một ngày cũng sẽ hóa thành tro bụi, tan vào thinh không.
“Em là người ở đây, chuyện gì cũng có thể lo liệu được. Cho nên anh cứ về Tokyo đi. Tất nhiên bọn em đều rất quý anh, nhưng đây không phải là nơi anh nên ở lại lâu.”
Rời khỏi thành phố mèo, Tengo nghĩ.
“Cám ơn cô đã giúp tôi rất nhiều,” anh cảm ơn thêm lần nữa.
“Ừm, anh Tengo này, em có thể chân thành khuyên anh một điều không? Tất nhiên, em chẳng xứng để chân thành khuyên ai cái gì cả.”
“Tất nhiên là được rồi.”
“Có lẽ cha anh đúng là đã mang theo bí mật gì đó sang thế giới kia rồi. Em thấy hình như anh hơi hoang mang vì chuyện này. Tâm trạng ấy của anh em có thể hiểu được. Nhưng mà, anh Tengo này, tốt nhất anh đừng nên thám thính cái hố đen sâu tối ấy làm gì. Chuyện ấy cứ giao cho lũ mèo ấy. Anh cứ cố làm cũng chẳng đi tới đâu cả. Chi bằng hãy nghĩ đến tương lai thì hơn.”
“Lỗ hổng càn phải bịt lại,” Tengo nói.
“Đúng thế,” Adachi Kumi đáp, “cú mèo cũng nói thế. Anh còn nhớ cú mèo không?”
“Tất nhiên.”
Cú mèo là thần bảo vệ rừng sâu, biết hết mọi thứ trên đời, nó sẽ truyền thụ trí tuệ của màn đêm cho chúng ta.
“Cú mèo vẫn kêu trong khu rừng gỗ tạp ấy hả?”
“Nó chẳng đi đâu hết,” cô y tá trẻ nói, “vẫn luôn luôn ở đó.”
Tengo lên tàu hỏa đi Tateyama, Adachi Kumi tiễn anh. Tựa như cô phải tận mắt xác nhận anh đã lên tàu rời khỏi thành phố nhỏ này. Cô đứng trên sân ga vẫy vẫy tay, cho đến khi đoàn tàu khuất hẳn.
Bảy giờ tối thứ Hai, Tengo về đến nhà ở Koenji. Anh bật đèn, ngồi xuống ghế cạnh bàn ăn, đảo mắt nhìn một vòng quanh nhà. Chẳng có gì thay đổi so với hôm qua lúc anh đi. Rèm cửa kéo kín mít, không một khe hở. Trên bàn chất chồng những bản thảo in ra. Sáu chiếc bút chì gọt nhọn hoắc cắm trong ống bút. Bát đũa rửa sạch xếp thành đống trong bồn rửa. Kim đồng hồ lẳng lặng ghi lại sự chuyển dịch của thời gian, lịch treo tường tuyên cáo năm nay đã đi đến tháng cuối cùng. Căn phòng cơ hồ còn tĩnh mịch hơn ngày thường. Hơi tĩnh mịch quá, khiến anh có cảm giác trong đây có gì đó quá độ. Nhưng có lẽ là do ảnh hưởng tâm lý. Có lẽ vì mới đây không lâu anh vừa tận mắt nhìn thấy một người tiêu vong. Có lẽ vì lỗ hỏng của thế giới vẫn chưa hoàn toàn được bịt kín.
Tengo uống một cốc nước rồi đi tắm nước nóng. Anh gội đầu ngoáy tai, cắt móng tay kỹ càng, đoạn lấy quần áo lót mới trong ngăn kéo tủ ra mặc vào. Cần phải loại bỏ các loại mùi trên cơ thể. Mùi của thành phố mèo. Tất nhiên bọn em đều rất quý anh, nhưng đây không phải là nơi anh nên ở lại lâu. Adachi Kumi đã nói vậy.
Tengo không có cảm giác đói. Anh không có tâm trạng làm việc, cũng không muốn mở sách ra đọc. Cũng không muốn nghe nhạc. Cơ thể mệt mỏi rã rời nhưng thần kinh anh lại hưng phấn lạ thường, xem ra không thể nằm xuống dỗ mình ngủ được. Ngay cả bầu không khí yên ắng bao trùm xung quanh cũng toát lên một vẻ giả tạo nào đó.
Nếu Fukaeri ở đây thì tốt biết mấy, Tengo nghĩ. Cô ấy nói chuyện nhạt nhẽo cũng được. Vô nghĩa cũng được. Kể cả giọng nói thiếu thanh điệu và dấu chấm hỏi ở cuối câu của cô ấy nữa. Đã lâu rồi anh không nghe thấy giọng cô, và anh nhớ nó. Nhưng Tengo cũng biết, Fukaeri sẽ không quay lại căn hộ này nữa. Tengo không thể nói rõ tại sao anh biết. Nhưng cô sẽ không quay lại đây nữa. Đại khái là vậy.
Dù là ai cũng được, anh muốn tìm người để nói chuyện. Nếu có thể, anh muốn chuyện phiếm với người tình hơn tuổi của mình. Nhưng không thể liên lạc được với cô. Anh không biết địa chỉ của cô, hơn nữa, từ những gì người khác nói với anh, cô đã mất rồi.
Anh thử bấm số điện thoại công ty của Komatsu. Đây là số gọi trực tiếp đến bàn làm việc của anh ta. Nhưng không ai bắt máy. Sau khi để chuông đổ mười lăm lần, Tengo bỏ cuộc, gác ống nghe lên.
Còn ai có thể gọi điện thoại nữa đây nhỉ? Tengo thầm tính toán trong đầu, nhưng không nghĩ ra người nào thích hợp. Anh cũng nghĩ đến Adachi Kumi, nhưng rồi nghĩ lại, kỳ thực anh không biết số điện thoại của cô.
Sau đó, anh nghĩ đến một nơi nào đó trên thế giới vẫn còn lỗ hổng đen ngòm chưa được bít lại. Lỗ hổng không lớn lắm, nhưng sâu vô cùng. Nếu mình lớn tiếng hét vào trong đó, liệu có thể nói chuyện với cha được không nhỉ? Liệu người chết có nói sự thật với mình hay không?
“Anh cứ cố làm thì cũng chẳng đi tới đâu cả,” Adachi Kumi nói, “chi bằng hãy nghĩ đến tương lai thì hơn.”
Nói vậy không đúng, Tengo nghĩ. Không phải chỉ như vậy, Đúng là biết được bí mật cũng chưa chắc đã đưa mình tới đâu. Nhưng dù là thế, mình vẫn phải tìm hiểu tại sao nó không thể chỉ dẫn cho mình. Biết được lý do chính xác, có lẽ mình sẽ có thể đi tới một nơi nào đó.
Bố có là bố thật của con hay không cũng được, chuyện này không quan trọng nữa. Tengo hét vào cái hố đen tối om ấy. Sao cũng được. Tựu trung, bố đã mang theo một phần của con chết đi, còn con thì tiếp tục sống với một phần của bố. Dù chúng ta có phải máu mủ ruột rà hay không, sự thật này không bao giờ thay đổi. Thời gian đã qua lâu đến vậy rồi, mà thế giới này thì phải tiến lên phía trước.
Anh như nghe thấy ngoài cửa sổ vẳng lại tiếng cú mèo kêu. Đương nhiên, đó là ảo giác của đôi tai.