Nói ra thì lai lịch Trương Mãnh không hề nhỏ, phụ thân của hắn là một trong Lương Châu Tam Minh danh tiếng lấy lừng: Trương Hoán.
Trương gia ở dải Hà Tây có thanh danh rất lớn, Trương Mãnh khá có tài, năm xưa từng làm thái thú Võ Uy, song chẳng được mấy năm thì Trương Hoán qua đời, hắn phải từ quan về thủ hiếu cho cha, hết ba năm chịu tang thì tình hình triều chính đã có biến động lớn lao.
Trương Mãnh không làm quan nữa, dựa vào uy vọng của Hà Tây, đi kinh doanh. Trước khi Trần Đáo đoạt Trương Dịch, Trương Mãnh là tay buôn ngựa lớn nhất Hà Tây, có điều về sau làm ăn ngày càng đi xuống.
Đổng Phi sau khi chiếm bốn quận Hà Tây, mặc dù mở cửa buôn bán ngựa, nhưng Trương Mãnh không thể chen chân vào trong đó, bởi thế sinh hận, phái người đưa thư cho Mã Đằng, muốn hợp tác lấy lại bốn quận Hà Tây.
Giả Hòa rất nghiêm túc, đọc thư hết lượt này tới lượt khác. Mã Đằng không giục hắn phát biển ý kiến, mắt chăm chăm nhìn vào bản đồ.
- Chủ công!
Mã Đằng quay lại:
- Văn Thúc thấy sao? Phong thư này của Trương Mãnh có mấy phần là thật?
Giả Hòa không chút do dự nói:
- Mười phần.
- Hả?
- Trương gia Võ Uy, Hoàng Phủ tộc ở An Định là thế tộc có danh vọng nhất Lương Châu. Hoàng Phủ tộc sau khi Hoàng Phủ Tung chết, vì tập kích Đổng gia nên uy vọng ở An Định đã giảm mạnh. Nhưng thanh danh của Trương gia ở Võ Uy không ai sánh bằng. Trương Mãnh là kẻ tựa hồ như hào sảng, thực chất tính toán chi li, lòng dạ hẹp hòi. Đổng gia chặn tài lộ của hắn, Trương Mãnh khẳng định không chịu, hắn kinh doanh nhiều năm, có dính líu với Hung Nô cũng không phải là không có khả năng.
Nụ cười trên mặt Mã Đằng càng rực rỡ:
- Vậy ta tập kích Thước Âm, Văn Thúc thấy sao?
- Về chuyện này.
Giả Hòa nhíu mày nói:
- Hòa khó nói, Đổng gia năm ngoái càn quét Tây Vực, mặc dù nói thực lực bị tổn hại, nhưng không động tới gân cốt. Bắc Hung Nô và người Khang Cư chắc gì tạo thành uy hiếp được với Tây Vực.
Nghĩ rồi nói thêm:
- Có điều Từ Vinh điều đi làm thái thú Thú Quận, thái thú Võ Uy là một Từ Thứ vô danh, không hiểu lai lịch thế nào, có điều mới tới cũng cần quá trình thích ứng, đúng là một cơ hội.
Mắt Mã Đằng sáng quắc:
- Nói thế là có thể?
Giả Hòa rất muốn nói :" Có thể!" Nhưng chợt trong đầu hiện lên hình dáng một người, không khỏi rợn người, lời ra tới miệng phải nuốt về:
- Đổng gia tử xảo trá, chủ công muốn đánh Thước Âm phải hành sự thận trọng, tiến chắc từng bước, đừng kinh suất đánh vào.
Mã Đằng gật đầu:
- Ta cũng cho rằng như vậy, trước đoạt Thước Âm, sau đó từ từ mà tiến. Ta đã lệnh Quách Hiến khởi binh, ba ngày sau sẽ tới Lệ Tổ, cùng đại quân của ta hợp binh. Tô Cố chỉ là tên hề nhố nhăng. Lý Quách đang tranh đấu dữ dội, chỉ có Sóc Phương là cái họa lớn. Ta muốn mời Văn Thúc ra mặt trấn thủ An Định, không biết ý ngươi ra sao?
Cố kỵ của Mã Đằng là có lý, Sóc Phương hiện nay binh cường tướng mạnh, Từ Hoàng dùng binh thành thục, Tô Tắc giỏi mưu tính. Võ có Phan Chương, Lăng Thao; văn có Dương Bàng, mấy lần giao phong chẳng được ích gì, đúng là cái họa lớn.
Giả Hòa trầm ngâm:
- Chủ công đã có lệnh, Hòa sao dám không theo? Chỉ là một mình Hòa thế đơn lực mỏng, sợ không đủ đảm đương trọng trách, xin chủ công phái một vị đại tướng làm soái, Hòa nguyện ở bên hiệp trợ, giữ An Định.
Mã Đằng suy nghĩ rồi hỏi:
- Văn Thúc cho rằng dưới trướng của ta ai có thể làm chủ soái.
- Nhị công tử Trọng Khởi có thể đảm nhận trọng trách.
Giả Hòa tiến cử đúng với tâm tư Mã Đằng, nói thật ông ta cũng không muốn giao hậu phương cho một người ngoài, dù Giả Hòa một dạ trung thành, nhưng trên đời này lòng người khó dò, chẳng may có gì sơ sót, ngay chỗ chôn thây cũng chẳng có. Mã Thiết khá được Mã Đằng yêu thương, võ nghệ cao cường không thua kém ông ta, thậm chí có xu thế còn hơn.
Hơn nữa mấy năm qua theo Giả Hòa và Quách Hiến, cũng học được không ít, có hắn ở An Định, đúng là thích hợp nhất.
- Nếu như Văn Thúc nói thế vậy ta để Trọng Khởi trấn thủ An Định, chỉ là trọng khởi tuổi còn nhỏ, khó tránh khỏi suy nghĩ thiếu chu toàn, còn mong Văn Thúc chỉ điểm nhiều hơn.
- Hòa tuyệt đối không phụ kỳ vọng của chủ công.
Giả Hòa cũng chẳng ngốc, sao chẳng nhìn thấu tâm tư của Mã Đằng?
Mã Thiết đúng là nhân tuyển rất thích hợp, Mã Đằng tín nhiệm hắn, với Giả Hòa cũng giữ lễ đệ tử, có thể giảm không ít phiền toái.
Thế là hai người trao đổi chi tiết, định đoạt sự việc này.
Ba ngày sau Mã Đằng và Quách Hiến hợp binh, tám vạn tinh binh Tây Lương rầm rộ tiến về phía Thước Âm.
Trên tường thành Lệ Tổ, Mã Thiết đưa mắt tiễn đại quân đi xa, lòng hết sức phiền muộn, không kìm được oán trách:
- Tiên sinh sao lại giữ ta lại? Đại trượng phu lập nghiệp trên chiến trường, tranh đấu giữa hai trận. Với tài của tiên sinh trấn thủ An Định có thừa, vì sao nhất định phải kéo ta vào?
Giả Hòa chỉ biết cười khổ. Phải giải thích ra sao đây? Chẳng lẽ nói :" Cha ngươi không tin ta, cho nên mới phải đưa ngươi cùng đi giữ An Định!"
Hơn nữa trong lòng Giả Hòa luôn có sợ hãi khó diễn tả với Hà Tây, không phải chỉ vì Đổng Phi, còn có một người khác. Sự lợi hại của người đó Giả Hòa rất rõ, trước kia cho rằng bản lĩnh của mình không thua kém người đó, hai năm qua mới biết, so với người đó mình chẳng qua chỉ là thứ hạng hai.
- Công tử, cần gì phải lo không có đất dụng võ? An Định sát với Sóc Phương và Tam Phụ, muốn đánh trận không thiếu cơ hội.
- Ta chỉ tiếc không được cùng Bạo Hổ đánh một trận.
Mã Thiết mặt buồn rầu, tự như lẩm bẩm một mình nói:
Vẻ mặt đó làm Giả Hòa nhớ tới Mã Siêu, nhớ trước kia Mã Siêu mới vào Lạc Dương, nghe nói Đổng Phi đã xuất chinh Sóc Phương, giọng nói và vẻ mặt không khác gì Mã Thiết hiện giờ: Ta chỉ tiếc chưa được lĩnh giáo sự lợi hại của Hổ lang chi tướng.
Về sau Mã Siêu được lĩnh giáo sự lợi hại của Đổng Phi, nhưng kết quả...
Giả Hòa không muốn Mã Thiết đi vào vết xe đổ của Mã Siêu. Đúng thế, Mã Thiết hiện nay có lẽ lợi hại hơn Mã Siêu năm xưa, nhưng nay Bạo Hổ càng hung dữ lão luyện hơn, làm sao mà so được.
- Công tử, chúng ta mau chuẩn bị rồi tới An Định đi.
Mã Thiết gật đầu, nhưng trong lòng rất hụt hẫng. Giả Hòa nhìn về phía Thước Âm, lòng có chút không yên: Chủ công và Quách Hiến có thể thuận lợi đánh hạ Thước Âm, chiếm lại Hà Tây sao?
Khi Mã Đằng xuất binh tới Thước Âm, Tào Tháo dẫn ba vạn đại quân tới Lạc Dương, tuy nói trước kia Lý Quách rút khỏi Lạc Dương, Tào Tháo đã chiểm lĩnh tòa đô thành cổ này, nhưng do dải Kinh Triệu vô cùng mẫn cảm, tránh kích thích Viên Thiệu quá mức, nên không phái binh trú đóng ở Lạc Dương.
Nói cách khác, mấy năm qua Lạc Dương tuy nắm dưới sự quản lý của Tào Tháo, nhưng thực tế là thành thị không có người trông nom.
Lạc Dương phồn hoa ngày nào đã đổ nát không thể tưởng tượng nổi, hoàng thành huy hoàng chỉ còn tường đổ ngói vỡ, nhân khẩu giảm mạnh, đại hộ hào tộc theo thời cuộc rung chuyển mà rời khỏi Lạc Dương, tới Kinh Tương hoặc Ba Thục.
Đương nhiên cũng có một số tới Sóc Phương, Tây Vực nhưng đêm so ra đó là bộ phận rất ít.
Người ở lại Lạc Dương đều là bách tính phổ thông nhiều đời sống ở nơi này.
Vinh quang ngày xưa không còn nữa, mọi người chỉ biết dựa vào ký ức, hồi tưởng lại cuộc sống mỹ hảo phồn hoa năm xưa.
Tháng 5 năm Hưng Bình thứ tư, Hán đế Lưu Hiệp được thái úy Dương Bưu, Hoàng Uyển hộ vệ, quay lại Lạc Dương.
Vốn cho rằng có thể tìm kiếm được cuộc sống có thể diện trong tòa đô thành cổ xưa này, nhưng khi Lưu Hiệp tới Lạc Dương mới phát hiện ra tòa đô thành này chẳng còn lại có gì, một đám người thủ trong hoàng thành tan hoang, ngay cả việc ăn no mặc ấm cũng không thể giải quyết.
Không một ai biết lúc này trong lòng những người đó suy nghĩ gì.
Dương Bưu, Hoàng Uyển, người nào người nấy sa sút ủ rũ, từ thời khắc bước vào thành Lạc Dương, không một ai nói gì, tín sứ phái đi bốn phía cầu viện, nhưng không một chư hầu nào tỏ ra đặc biệt tích cực.
Ngày qua ngày, trong lòng mọi người chất chứa đầy nỗi tuyệt vọng.
Hứa Chử cùng một đại hán thân cao chín xích, mặc khôi giáp theo sát Tào Tháo, bước về phía Gia Đức điện.
Đại hán kia tên là Tào Bành, huynh đệ trong tộc của Tào Thảo, tuổi 27, đang vào độ chín của cuộc đời, sử dụng một cây khai sơn phủ, nặng 78 cân, bẩm sinh thần lực, thời trẻ đi thỉnh giáo hết danh sư thiên hạ, võ nghệ cao cường.
Sau khi Tào Tháo bình định loạn Biên Chiêu, võ nghệ Tào Bành cũng vừa thành hạ sơn, trận chiến đầu quy thuận Tào Tháo đã lập chiến công hiển hách, được Tào Tháo phong làm giáo úy, cùng Hứa Chử hộ vệ sát bên người hắn.
Tào Bành có cái dũng vạn người khó địch, từng cùng Hứa Chử đại chiến một trăm hiệp, cuối cùng thua một chiêu, trong số võ tướng dưới trướng Tào Tháo, chỉ tính võ lực thì hắn xếp vào sáu hàng đầu.
Tào Tháo bái kiến Hán đế Lưu Hiệp xong lệnh người mang thức ăn tới, trước tiên trấn an đám người Hán đế trước, mọi người đều biểu đạt tạ ơn Tào Tháo, đồng thời uyển chuyển nói, Dương Châu là cố đô Hán thất, nay bộ dạng thế này thật không ra thể thống gì, mong Tào Tháo tu sửa một phen.
Tào Tháo không gật cũng chẳng lắc, chỉ hàm hồ nói cho qua, bái biệt Hán đế.
Soái phủ lâm thời đặt ở trong phủ thái sư Nghênh Xuân môn.
Quách Gia không tới, Y Tịch là mưu thần chuyến đi đón Hán đế, đã quét dọn phủ thái sư sạch sẽ, thấy Tào Tháo về, vội đón vào trong phủ:
- Chủ công, tiếp theo chúng ta phải làm sao.
Đám Y Tịch đều không hỏi tình hình Hán đế, thực ra trong lòng bọn họ, Hán thất tới mức này chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, vị Hán đế trong hoàng thành nói thẳng ra là con rối mà thôi, không cần phí nước bọt với loại đó, chủ công của bọn họ là Tào Tháo.
- Trước kia phồn hoa ra sao, vậy mà nay tàn bại thế này, ai là thủ phạm?
Đám Y Tịch không trả lời, theo quan điểm của số đông mà nói, hết thảy là do Đổng Trác, nhưng bọn họ không n nói ra nổi, nhớ năm xưa Đổng Trác còn sống, đại hộ Lạc Dương bị thanh tẩy nhiều lần, nhưng Lạc Dương phồn hoa hết sức, ngược lại ông ta chết đi....
Trình Dục khẽ nói:
- Lạc Dương luân lạc tới mức này cũng là do thiên mệnh mà ra.
Chỉ có thể đem cái sai đẩy cho thiên mệnh, đôi khi Trình Dục nghĩ, nếu như Đổng Trác không chết, Hán thất sẽ ra sao? Thật khó mà nói được, song ít nhất tệ đến đâu thì cũng hơn thế này.
Đương nhiên những lời này chỉ có thể nói trong lòng mà thôi.
Tào Tháo cười:
- Ý của Mã thái úy là muốn chúng ta trùng tu Lạc Dương, ổn định lại ở đây, mọi người thấy sao?
- Vạn vạn lần không thể.
Y Tịch đứng bật dậy:
- Tu sửa Lạc Dương là công trình khổng lồ, nay Kinh Triệu không phải như xưa, kho đã trống rỗng. Dù là trước kia hưng thịnh chỉ sợ cũng phải giật gấu vá vai, hơn nữa đất này không thích hợp làm đô thành nữa. Từ cổ Lạc Dương thông tới phát phương, nếu chúng ta chiếm cứ lâu dài ở đây, ắt làm Hà Bắc Viên Thiệu bất an.
- Vậy ý Cơ Bá là?
- Tịch trước khi xuất phát đã cùng Phụng Hiếu trao đổi việc này, hiện chúng không tiện khống chế Lạc Dương, nên mời thành thượng tạm trú ở Hứa Xương, cũng tiện cho chủ công chiếu cố.
Những lời này của Y Tịch hợp dạ Tào Tháo, liền gật đầu đồng ý ngay, lệnh Y Tịch, Trình Dục phụ trách việc này.
Đám Dương Bưu nay là chó nhà tang, có chỗ an thân đã đủ, nếu khuyên không được, Tào Tháo ra mặt là xong ngay, hơn nữa hiện tâm tư của Tào Tháo cũng không phải ở đây:
- Trọng Khang, Tông Tự đi theo ta.
Tông Tự là tên chữ của Tào Bành, hai người lập tức tuân mệnh.
Tự có thân tùy an bài ngựa, Tào Tháo ngồi trên Tuyệt Ảnh, dẫn Hứa Chử và Tào Bành rời Nghênh Xuân Môn, dọc đường đi không nói một lời, tâm tình rất kém.
Rời Lạc Dương hai mươi dặm là Bắc Mang sơn, trước kia Đổng Phi xây dựng Bắc Mang sơn trang ở đây, về sau Đổng Phi lập phủ ở An Định, Bắc Mang sơn trang giao cho Đổng Trác. Từng có một dạo Đổng Trác thậm chí hi vọng có thể sống hết quãng đời còn lại ở nơi này.
Có điều nay Bắc Mang sơn trang đã biến thành đống hoang tàn, phòng xá năm xưa chỉ còn là gạch vụn đầy đất. Tào Tháo xuống ngựa ngoài sơn trang, chậm rãi đi vào, Hứa Chử và Tào Bành đưa mắt nhìn nhau, hiệu thân tùy ở ngoài canh, theo Tào Thao đi vào bên trong, dừng lại ở chỗ không có gì bắt mắt.
Nơi này chỉ có một phần mộ, rất đơn giản, xa xa nhìn chỉ như một đống đất.
Bên cạnh phần mộ dựng một khối đá, bên trên dấu vết loang lổ, lờ mờ nhìn thấy được vết chữ " Cố thái sư Đổng chi mộ!"
Tào Tháo vuốt ve chữ viết, tự nói một mình:
- Dù sinh thời có hiển hách ra sao, cuối cùng cũng chỉ là nắm đất vàng mà thôi ...
Đây là mộ Đổng Trác, Tào Tháo và ông ta không có ân oán gì, ngược lại Đổng Trác tán thưởng hắn, từng làm Tào Tháo cảm kích vạn phần.
Nói ra chỉ là chính kiến bất đồng mà thôi. Mặc kệ trước kia chém giết thảm liệt thế nào cũng không ảnh hưởng tới cái nhìn của Tào Tháo với Đổng Trác, cho nên sau khi chiếm lĩnh được Lạc Dương, Tào Tháo bí mật sai người thu thập xác Đổng Trác, an táng tại Bắc Mang.
Suy nghĩ miên man, như quay lại năm tháng xưa.
Trước kia Đổng Phi tổ chức thi đấu kính cúc ở Lạc Dương hưng thịnh biết bao, nhưng nay ai còn nhớ ngày tháng năm đó.
Đổng Phi.
Trong đầu Tào Tháo hiện lên khuôn mặt xấu xí mũi sư tử, lông mày rậm, mắt nhỏ kia.
Cuối cùng cũng định ra tay sao?
Lần trước ta bại, nhưng không đại biểu lần này ta cũng sẽ thua, Đổng Tây Bình nay không phải là Đổng gia tử xưa, nhưng Tào Mạnh Đức này cũng không phải Tào A Man bị ngươi ép phải cưỡi ngựa nhảy qua sông.
Thật mong mỏi có thể giao phong với ngươi một lần.
Mặt Tào Tháo hiện lên nụ cười nhẹ, quay người lại:
- Chúng ta và bọn Trọng Nghĩa tách nhau ra được bao lâu rồi?
Hứa Chử gập ngón tay tính:
- Đã bảy ngày rồi, tính thời gian cũng sắp tới tới Hàm Cốc quan.
Tào Tháo gật đầu không nói nữa, nhìn về phía tây bắc, ánh mắt hết sức thâm thúy, Tây Bình hiền đệ, xem ra lần này ca ca đi trước một bước rồi, đệ sẽ có phản ứng ra sao đây?
****************
Theo kế hoạch của đám Quách Gia, cùng lúc đón Hán đế cũng phải mở cửa Quan Trung, cánh cửa này là Hàm Cốc quan.
Phụng lệnh trấn thủ Hàm Cốc quan chính là Dương Duy danh tướng Tây Lương.
Người này vốn là đại tướng dưới trướng Ngưu Phụ, ở Lũng Tây khá có tên tuổi, từng suất lĩnh hơn mười kỵ sĩ, đánh lui hơn nghìn phỉ tặc, võ lực cao, được mệnh danh là đệ nhất dũng tướng của Ngưu Phụ. Sau khi Ngưu Phụ bị giết, Dương Duy suất lĩnh ba nghìn tinh kỵ quy thuận Lý Quách.
Một mặt đều là người Lương Châu, Lý Quách tất nhiên hoan hỉ, hai là dưới trướng Lý Quách binh nhiều, nhưng tướng không nhiều.
Cũng biết Dương Duy võ nghệ cao cường, thấy hắn tới nương tựa, hai người vô cùng vui mừng, lập tập phong Dương Duy làm Chấn Võ tướng quân, đóng ở Hàm Cốc quan. Lý Quách hiểu rõ, chỉ cần Hàm Cốc quan không mất, tám trăm dặm Tần Xuyên sẽ vững như núi.
Chỉ là không ai ngờ tới một ngày hai người bọn họ trở mặt thành thủ.
Dương Duy ngồi trong đại trướng chăm chú lau kiếm, thanh kiếm này là bảo kiếm Tây Vực hắn bỏ rất nhiều tiền ra mua, cực kỳ sắc bén. Dương Duy coi bảo kiếm như mạng, ngày nào cũng bỏ thời gian ra lau chùi một phen.
Đúng lúc ấy có thân binh đi vào:
- Tướng quân, bên ngoài có người tự xưng là cố nhân của tướng quân cầu kiến.
Viên Hi gặp Chân Lạc bốn năm trước, khi ấy hắn ngây ngất vì dung mạo của nàng, liền khẩn cầu Viên Thiệu cầu thân cho hắn.
Điều này thì Viên Thiệu không chối từ, hắn cũng muốn nghĩ cách thôn tính Chân gia, đây có thể là cách không dính máu, cho nên bất kể Chân Dật có đồng ý hay không, hôn sự này cứ quyết như thế.
Chân gia tuy có thế lực, song bì sao nổi Viên Thiệu, chỉ đành đồng ý. Nay Chân Lạc đã lớn, chính là tuổi hoa nở hái về nhà, ước nguyện bốn năm được báo đáp, với Viên Hi mà nói, tâm tình tất nhiên cực tốt, còn về phần Phùng Kỷ và Chân Dật nói gì thì không quan tâm.
Thế gia chỉ trọng lợi ích, hiếm có hôn sự đích thực, giống Viên Hi, vừa cưới được nữ tử yêu thương, lại góp sức cho gia tộc, lưỡng toàn kỳ mỹ, tội gì không làm.
Người ta nói Chân Lạc có phúc khí, có tướng quý nhân. Giờ thì Viên Hi tin rồi, ít nhất nhất sau khi định thân với Chân Lạc, phụ thân hiển nhiên thân cận với hắn không ít, nhiều việc ủy thác cho hắn đi làm. Viên Hi cũng thể hiện vô cùng xuất sắc.
- Nguyên Đồ tiên sinh, phía trước là Phổ Dương Đình, tuyết dày thế này, đường xá khó đi, hay là tối nay ở lại đó.
Đi nửa ngày trời, quân sĩ và ngựa đều tỏ ra mỏi mệt, Viên Hi không nhịn được hỏi Phùng Kỷ, muốn nghỉ ngơi một chút.
Viên Hi nói thẳng ra là một tên lười, cho nên Phùng Kỷ không xem trọng hắn, nếu chẳng phải mệnh lệnh của Viên Thiệu, Phùng Kỷ tuyệt đối không đi cùng hắn, nhíu mày lại nói:
- Nhị công tử, chủ công đang mòn mỏi trông mong, dù đường khó đi chúng ta cũng không thể trì hoãn lâu. Quan Phổ Dương Đình là Khúc Dương. Theo Kỷ thấy, chúng ta đi thêm một đoạn rồi nghỉ ở Khúc Dương.
- À, thế hả ... Vậy cũng được.
Viên Hi không phải kẻ quyết đoán, Phùng Kỷ nói thế cũng đồng ý, nếu là Viên Đàm hoặc Viên Thượng đã chẳng bận tâm Phùng Kỷ nói gì, muốn sao làm vậy.
Phùng Kỷ thầm thở dài, vị Nhị công tử này thật đúng là, dù có tranh cãi với ta một chút cũng được, chứ thế này, dù chủ công muốn cho gánh vác trọng trách cũng khó.
Nghĩ tới đó Phủng Kỷ lắc đầu.
Xe tiếp tục đi về phía trước, bất tri bất giác đã qua Phổ Dương Đình, lúc này chính là hoàng hôn, tà dương đỏ rực, nơi này là vùng núi đồi, mười mấy dặm không có bóng người.
Viên Hi định tới bên xe an ủi tiểu kiều thê, nhưng bị Phùng Kỷ ngăn cản, cuối cùng bỏ ý định này.
Trời dần dần tối.
Trong lòng Phùng Kỷ đột nhiên có cảm giác không lành, hắn đột nhiên nhớ tới sự nhiệt tình bất thường của Chân Dật hôm nay, giữ bọn họ mãi tới muộn mới cho đi.
Lý ra Chân Dật cũng chẳng phải là phế vật, chủ công có mưu đồ gì chẳng lẽ ông ta không nhìn ra? Nếu nhìn ra rồi tại sao còn nhiệt tình như thế, nếu chẳng phải Chân Dật lôi kéo, có khi lúc này đoàn xe đã tới Khúc Dương.
Chẳng lẽ ... Phùng Kỷ rùng mình.
Có điều hắn mau chóng phủ định suy nghĩ này, chẳng lẽ Chân Dật không muốn sống? Trừ khi điên mới làm loại việc này.
- Thôi Quảng, Đào Thăng.
- Có mạt tướng.
Hai võ tướng uy phong đi sau ưỡn ngực giục ngựa tới:
- Tế tửu đại nhân có gì sai bảo?
- Các ngươi lầm tức phái người tới Khúc Dương, bảo Khúc Dương lệnh điểm binh tới nghênh đón.
- Vâng.
Có câu không nên mang lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người.
Phùng Kỷ cũng là thuộc loại người tâm tư linh hoạt, nếu đã tính kế người ta thì cần phải đề phòng. Bất kể Chân gia có ý đó hay không, tóm lại cẩn thận hơn cũng tốt, chớ vì sơ ý mà để mất uy danh.
Viên Hi không hiểu hỏi:
- Nguyên Đồ tiên sinh làm vậy là sao?
- Nhị công tử ...
Phùng Kỷ định lên tiếng giải thích, song đúng lúc đó trên đồng hoang có tiếng kêu chói tai.
Không xong rồi, Phùng Kỷ vừa nghĩ thế hai bên đường vô số bóng người từ trong tuyết xông ra, những người này toàn bộ mặc áo đen gọn nhẹ, ngoài khoác nhuyển giáp, mặt nạ sắt đen xì, tay cầm bảo kiếm, tay cầm nỏ.
Thôi Quảng, Đào Thăng đang chuẩn bị phái người đi Khúc Dương, không ngờ xảy ra kinh biến, vội dẫn người xông tới, nhưng ngựa hí lên.
Trong đêm trên đường xuất hiện hơn mười sợi bán mã tác, kỵ binh đi đầu ngã nhào.
Nỏ bắn ra ào ào, quân sĩ không kịp đề phòng bị bắn chết gần trăm người.
Phùng Kỷ gào lên:
- Bắt lấy Chân gia tử, bắt lấy ...
Viên Hi lúc này còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng nghe theo phát lệnh. Thôi Quảng thúc ngựa tới đội xe phía sau, lúc này khuôn mặt yếu đuối của Chân Ngiêu lộ ra nụ cười nanh ác:
- Con cháu Chân gia, ngăn cản bọn chúng.
Âm thanh vang lên, hơn trăm gia đinh Chân gia ùa tới tạo thành vòng tròn.
Thôi Quảng coi như không, vung đao chém gục hai tên gia đinh, tiếp tục xông tới, nhưng xe sau lưng đổ sầm một cái, khoang xe tan nát, một hán tử cao hơn trượng, tay cầm đao thuẫn xông ra.
Cự hán đó mặt mày hung dữ, thuẫn bài nặng tới tám mươi cân, trường đao hình thù kỳ dị. Thôi Quảng nhận ra đó là Hán An đao.
Bốn tên sĩ tốt định ngăn cản cự hán, nhưng bị thuẫn trong tay y đập văng đi. Thôi Quảng quay đầu ngựa xông tới, cự hán kia không hề né tránh, rống lớn một tiếng như sét nổ giữa đồng hoang, húc về phía ngựa của Thôi Quảng. Con chiến mã xô vào thuẫn, phát ra tiếng hí dài thê lương, ngã nhào.
Chiến mã bị ngã gẫy xương, Thôi Quảng kinh hoàng, kẻ này có phải là người không? Vừa nghĩ tới đó thì hàn quang lóe lên, hắn bị chém làm hai, nội tạng trào ra đất.
- Tặc tử, dám giết huynh đệ của ta.
Đào Thăng thấy Thôi Quảng bị giết, mắt đỏ kè, hắn và Thôi Quảng cùng gia nhập Viên Thiệu, Thôi Quảng xuất thân tốt hơn, nhưng không coi thường hắn, ngược lại luôn chiếu cố cho hắn, tình cảm rất tốt.
Cự hán thu trường đao, một chiêu Thu Phong Tảo Lạc Diệp quét ra, người xoay tròn trên mặt đất, bảy tám tên sĩ tốt bị chém văng, đại thuẫn giơ lên, cự hán đáp lên người sĩ tốt bên cạnh, thình lình vọt lên không.
Đào Thăng kinh hồn, giơ đao đón đỡ, chỉ nghe rắc một tiếng, không hiểu đao thuẫn của cự hán làm sao có sức lực mạnh như thế, chẳng những đập gãy đao của Đào Thăng mà người cũng văng đi luôn.
Bốn xung quanh toàn là kẻ địch, kiếm quang lấp lóe, nỏ bắn loạn xạ, quân Viên Thiệu chẳng hề có chuẩn bị, chết thảm vô cùng.
Phùng Kỷ không ngờ thường ngày Thôi Quảng, Đào Thăng có cái dũng vạn người khó địch lại bị người ta giải quyết trong một chiêu, trong đầu hiện lên một cái tên.
- Nhị công tử, chạy mau ...
Còn chưa dứt lời một thanh niên mặc trang phục gọn nhẹ mở đường máu tới Phùng Kỷ, tuy có sĩ tốt ngăn cản, nhưng thanh niên kia kiếm pháp trác tuyệt quỉ dị. Kiếm của hắn khác với kiếm người thường, rất dài, lại còn cong, chẳng những dùng được kiếm chiêu lại còn chém bổ hung hãn như trường đao.
Vũ khí trong tay sĩ tốt, căn bản không ngăn cản được một đòn của Hồ Nguyệt kiếm, khải giáp dày nặng cũng bị kiếm chém toạc. Phùng Kỷ định xoay người chạy, nhưng thanh niên kia đã nhắm vào thì sao dễ dàng thoát thân được, mới chạy vài bước đã bị một mũi tên xuyên chân, kêu thảm ngã xuống vũng máu.
Bên cạnh Viên Hi dẫn hơn trăm thân vệ ra sức bỏ chạy.
Khó trách được, hậu quân có tên cự hán như yêu quái đang chém giết điên cuồng, ít nhất hơn trăm sĩ tốt chết trong tay y, đừng nói Viên Hi nhát gan, bất kỳ ai thấy cảnh đó chỉ e cũng phải bỏ chạy.
Chạy được trăm bước thì phía trước có một đạo nhân mã đánh tới, tuy người không nhiều, chỉ có bảy tam chục, nhưng đều cầm nỏ cơ, quỳ một chân trên đất tuyết, viên đại tướng đi đầu chống Nguyệt Nha kích, ngăn đường Viên Hi.
- Kẻ cản ta phải chết.
Lúc này cho dù Viên Hi có ngốc cũng biết chuyện này có liên quan tới Chân gia, đâu còn để ý tới mỹ nhân trong xe, giật cương, phóng ngựa tới.
Võ tướng kia cười lạnh, kích chỉ tới, bảy tám chục cái nỏ bắn ra liên tiếp, Viên Hi tức thì bị bắn như con nhím.
Vốn tưởng đối phương sẽ cùng mình tướng đấu tướng, ai ngờ ...
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Nói ra thì lai lịch Trương Mãnh không hề nhỏ, phụ thân của hắn là một trong Lương Châu Tam Minh danh tiếng lấy lừng: Trương Hoán.
Trương gia ở dải Hà Tây có thanh danh rất lớn, Trương Mãnh khá có tài, năm xưa từng làm thái thú Võ Uy, song chẳng được mấy năm thì Trương Hoán qua đời, hắn phải từ quan về thủ hiếu cho cha, hết ba năm chịu tang thì tình hình triều chính đã có biến động lớn lao.
Trương Mãnh không làm quan nữa, dựa vào uy vọng của Hà Tây, đi kinh doanh. Trước khi Trần Đáo đoạt Trương Dịch, Trương Mãnh là tay buôn ngựa lớn nhất Hà Tây, có điều về sau làm ăn ngày càng đi xuống.
Đổng Phi sau khi chiếm bốn quận Hà Tây, mặc dù mở cửa buôn bán ngựa, nhưng Trương Mãnh không thể chen chân vào trong đó, bởi thế sinh hận, phái người đưa thư cho Mã Đằng, muốn hợp tác lấy lại bốn quận Hà Tây.
Giả Hòa rất nghiêm túc, đọc thư hết lượt này tới lượt khác. Mã Đằng không giục hắn phát biển ý kiến, mắt chăm chăm nhìn vào bản đồ.
- Chủ công!
Mã Đằng quay lại:
- Văn Thúc thấy sao? Phong thư này của Trương Mãnh có mấy phần là thật?
Giả Hòa không chút do dự nói:
- Mười phần.
- Hả?
- Trương gia Võ Uy, Hoàng Phủ tộc ở An Định là thế tộc có danh vọng nhất Lương Châu. Hoàng Phủ tộc sau khi Hoàng Phủ Tung chết, vì tập kích Đổng gia nên uy vọng ở An Định đã giảm mạnh. Nhưng thanh danh của Trương gia ở Võ Uy không ai sánh bằng. Trương Mãnh là kẻ tựa hồ như hào sảng, thực chất tính toán chi li, lòng dạ hẹp hòi. Đổng gia chặn tài lộ của hắn, Trương Mãnh khẳng định không chịu, hắn kinh doanh nhiều năm, có dính líu với Hung Nô cũng không phải là không có khả năng.
Nụ cười trên mặt Mã Đằng càng rực rỡ:
- Vậy ta tập kích Thước Âm, Văn Thúc thấy sao?
- Về chuyện này.
Giả Hòa nhíu mày nói:
- Hòa khó nói, Đổng gia năm ngoái càn quét Tây Vực, mặc dù nói thực lực bị tổn hại, nhưng không động tới gân cốt. Bắc Hung Nô và người Khang Cư chắc gì tạo thành uy hiếp được với Tây Vực.
Nghĩ rồi nói thêm:
- Có điều Từ Vinh điều đi làm thái thú Thú Quận, thái thú Võ Uy là một Từ Thứ vô danh, không hiểu lai lịch thế nào, có điều mới tới cũng cần quá trình thích ứng, đúng là một cơ hội.
Mắt Mã Đằng sáng quắc:
- Nói thế là có thể?
Giả Hòa rất muốn nói :" Có thể!" Nhưng chợt trong đầu hiện lên hình dáng một người, không khỏi rợn người, lời ra tới miệng phải nuốt về:
- Đổng gia tử xảo trá, chủ công muốn đánh Thước Âm phải hành sự thận trọng, tiến chắc từng bước, đừng kinh suất đánh vào.
Mã Đằng gật đầu:
- Ta cũng cho rằng như vậy, trước đoạt Thước Âm, sau đó từ từ mà tiến. Ta đã lệnh Quách Hiến khởi binh, ba ngày sau sẽ tới Lệ Tổ, cùng đại quân của ta hợp binh. Tô Cố chỉ là tên hề nhố nhăng. Lý Quách đang tranh đấu dữ dội, chỉ có Sóc Phương là cái họa lớn. Ta muốn mời Văn Thúc ra mặt trấn thủ An Định, không biết ý ngươi ra sao?
Cố kỵ của Mã Đằng là có lý, Sóc Phương hiện nay binh cường tướng mạnh, Từ Hoàng dùng binh thành thục, Tô Tắc giỏi mưu tính. Võ có Phan Chương, Lăng Thao; văn có Dương Bàng, mấy lần giao phong chẳng được ích gì, đúng là cái họa lớn.
Giả Hòa trầm ngâm:
- Chủ công đã có lệnh, Hòa sao dám không theo? Chỉ là một mình Hòa thế đơn lực mỏng, sợ không đủ đảm đương trọng trách, xin chủ công phái một vị đại tướng làm soái, Hòa nguyện ở bên hiệp trợ, giữ An Định.
Mã Đằng suy nghĩ rồi hỏi:
- Văn Thúc cho rằng dưới trướng của ta ai có thể làm chủ soái.
- Nhị công tử Trọng Khởi có thể đảm nhận trọng trách.
Giả Hòa tiến cử đúng với tâm tư Mã Đằng, nói thật ông ta cũng không muốn giao hậu phương cho một người ngoài, dù Giả Hòa một dạ trung thành, nhưng trên đời này lòng người khó dò, chẳng may có gì sơ sót, ngay chỗ chôn thây cũng chẳng có. Mã Thiết khá được Mã Đằng yêu thương, võ nghệ cao cường không thua kém ông ta, thậm chí có xu thế còn hơn.
Hơn nữa mấy năm qua theo Giả Hòa và Quách Hiến, cũng học được không ít, có hắn ở An Định, đúng là thích hợp nhất.
- Nếu như Văn Thúc nói thế vậy ta để Trọng Khởi trấn thủ An Định, chỉ là trọng khởi tuổi còn nhỏ, khó tránh khỏi suy nghĩ thiếu chu toàn, còn mong Văn Thúc chỉ điểm nhiều hơn.
- Hòa tuyệt đối không phụ kỳ vọng của chủ công.
Giả Hòa cũng chẳng ngốc, sao chẳng nhìn thấu tâm tư của Mã Đằng?
Mã Thiết đúng là nhân tuyển rất thích hợp, Mã Đằng tín nhiệm hắn, với Giả Hòa cũng giữ lễ đệ tử, có thể giảm không ít phiền toái.
Thế là hai người trao đổi chi tiết, định đoạt sự việc này.
Ba ngày sau Mã Đằng và Quách Hiến hợp binh, tám vạn tinh binh Tây Lương rầm rộ tiến về phía Thước Âm.
Trên tường thành Lệ Tổ, Mã Thiết đưa mắt tiễn đại quân đi xa, lòng hết sức phiền muộn, không kìm được oán trách:
- Tiên sinh sao lại giữ ta lại? Đại trượng phu lập nghiệp trên chiến trường, tranh đấu giữa hai trận. Với tài của tiên sinh trấn thủ An Định có thừa, vì sao nhất định phải kéo ta vào?
Giả Hòa chỉ biết cười khổ. Phải giải thích ra sao đây? Chẳng lẽ nói :" Cha ngươi không tin ta, cho nên mới phải đưa ngươi cùng đi giữ An Định!"
Hơn nữa trong lòng Giả Hòa luôn có sợ hãi khó diễn tả với Hà Tây, không phải chỉ vì Đổng Phi, còn có một người khác. Sự lợi hại của người đó Giả Hòa rất rõ, trước kia cho rằng bản lĩnh của mình không thua kém người đó, hai năm qua mới biết, so với người đó mình chẳng qua chỉ là thứ hạng hai.
- Công tử, cần gì phải lo không có đất dụng võ? An Định sát với Sóc Phương và Tam Phụ, muốn đánh trận không thiếu cơ hội.
- Ta chỉ tiếc không được cùng Bạo Hổ đánh một trận.
Mã Thiết mặt buồn rầu, tự như lẩm bẩm một mình nói:
Vẻ mặt đó làm Giả Hòa nhớ tới Mã Siêu, nhớ trước kia Mã Siêu mới vào Lạc Dương, nghe nói Đổng Phi đã xuất chinh Sóc Phương, giọng nói và vẻ mặt không khác gì Mã Thiết hiện giờ: Ta chỉ tiếc chưa được lĩnh giáo sự lợi hại của Hổ lang chi tướng.
Về sau Mã Siêu được lĩnh giáo sự lợi hại của Đổng Phi, nhưng kết quả...
Giả Hòa không muốn Mã Thiết đi vào vết xe đổ của Mã Siêu. Đúng thế, Mã Thiết hiện nay có lẽ lợi hại hơn Mã Siêu năm xưa, nhưng nay Bạo Hổ càng hung dữ lão luyện hơn, làm sao mà so được.
- Công tử, chúng ta mau chuẩn bị rồi tới An Định đi.
Mã Thiết gật đầu, nhưng trong lòng rất hụt hẫng. Giả Hòa nhìn về phía Thước Âm, lòng có chút không yên: Chủ công và Quách Hiến có thể thuận lợi đánh hạ Thước Âm, chiếm lại Hà Tây sao?
Khi Mã Đằng xuất binh tới Thước Âm, Tào Tháo dẫn ba vạn đại quân tới Lạc Dương, tuy nói trước kia Lý Quách rút khỏi Lạc Dương, Tào Tháo đã chiểm lĩnh tòa đô thành cổ này, nhưng do dải Kinh Triệu vô cùng mẫn cảm, tránh kích thích Viên Thiệu quá mức, nên không phái binh trú đóng ở Lạc Dương.
Nói cách khác, mấy năm qua Lạc Dương tuy nắm dưới sự quản lý của Tào Tháo, nhưng thực tế là thành thị không có người trông nom.
Lạc Dương phồn hoa ngày nào đã đổ nát không thể tưởng tượng nổi, hoàng thành huy hoàng chỉ còn tường đổ ngói vỡ, nhân khẩu giảm mạnh, đại hộ hào tộc theo thời cuộc rung chuyển mà rời khỏi Lạc Dương, tới Kinh Tương hoặc Ba Thục.
Đương nhiên cũng có một số tới Sóc Phương, Tây Vực nhưng đêm so ra đó là bộ phận rất ít.
Người ở lại Lạc Dương đều là bách tính phổ thông nhiều đời sống ở nơi này.
Vinh quang ngày xưa không còn nữa, mọi người chỉ biết dựa vào ký ức, hồi tưởng lại cuộc sống mỹ hảo phồn hoa năm xưa.
Tháng 5 năm Hưng Bình thứ tư, Hán đế Lưu Hiệp được thái úy Dương Bưu, Hoàng Uyển hộ vệ, quay lại Lạc Dương.
Vốn cho rằng có thể tìm kiếm được cuộc sống có thể diện trong tòa đô thành cổ xưa này, nhưng khi Lưu Hiệp tới Lạc Dương mới phát hiện ra tòa đô thành này chẳng còn lại có gì, một đám người thủ trong hoàng thành tan hoang, ngay cả việc ăn no mặc ấm cũng không thể giải quyết.
Không một ai biết lúc này trong lòng những người đó suy nghĩ gì.
Dương Bưu, Hoàng Uyển, người nào người nấy sa sút ủ rũ, từ thời khắc bước vào thành Lạc Dương, không một ai nói gì, tín sứ phái đi bốn phía cầu viện, nhưng không một chư hầu nào tỏ ra đặc biệt tích cực.
Ngày qua ngày, trong lòng mọi người chất chứa đầy nỗi tuyệt vọng.
Hứa Chử cùng một đại hán thân cao chín xích, mặc khôi giáp theo sát Tào Tháo, bước về phía Gia Đức điện.
Đại hán kia tên là Tào Bành, huynh đệ trong tộc của Tào Thảo, tuổi 27, đang vào độ chín của cuộc đời, sử dụng một cây khai sơn phủ, nặng 78 cân, bẩm sinh thần lực, thời trẻ đi thỉnh giáo hết danh sư thiên hạ, võ nghệ cao cường.
Sau khi Tào Tháo bình định loạn Biên Chiêu, võ nghệ Tào Bành cũng vừa thành hạ sơn, trận chiến đầu quy thuận Tào Tháo đã lập chiến công hiển hách, được Tào Tháo phong làm giáo úy, cùng Hứa Chử hộ vệ sát bên người hắn.
Tào Bành có cái dũng vạn người khó địch, từng cùng Hứa Chử đại chiến một trăm hiệp, cuối cùng thua một chiêu, trong số võ tướng dưới trướng Tào Tháo, chỉ tính võ lực thì hắn xếp vào sáu hàng đầu.
Tào Tháo bái kiến Hán đế Lưu Hiệp xong lệnh người mang thức ăn tới, trước tiên trấn an đám người Hán đế trước, mọi người đều biểu đạt tạ ơn Tào Tháo, đồng thời uyển chuyển nói, Dương Châu là cố đô Hán thất, nay bộ dạng thế này thật không ra thể thống gì, mong Tào Tháo tu sửa một phen.
Tào Tháo không gật cũng chẳng lắc, chỉ hàm hồ nói cho qua, bái biệt Hán đế.
Soái phủ lâm thời đặt ở trong phủ thái sư Nghênh Xuân môn.
Quách Gia không tới, Y Tịch là mưu thần chuyến đi đón Hán đế, đã quét dọn phủ thái sư sạch sẽ, thấy Tào Tháo về, vội đón vào trong phủ:
- Chủ công, tiếp theo chúng ta phải làm sao.
Đám Y Tịch đều không hỏi tình hình Hán đế, thực ra trong lòng bọn họ, Hán thất tới mức này chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, vị Hán đế trong hoàng thành nói thẳng ra là con rối mà thôi, không cần phí nước bọt với loại đó, chủ công của bọn họ là Tào Tháo.
- Trước kia phồn hoa ra sao, vậy mà nay tàn bại thế này, ai là thủ phạm?
Đám Y Tịch không trả lời, theo quan điểm của số đông mà nói, hết thảy là do Đổng Trác, nhưng bọn họ không n nói ra nổi, nhớ năm xưa Đổng Trác còn sống, đại hộ Lạc Dương bị thanh tẩy nhiều lần, nhưng Lạc Dương phồn hoa hết sức, ngược lại ông ta chết đi....
Trình Dục khẽ nói:
- Lạc Dương luân lạc tới mức này cũng là do thiên mệnh mà ra.
Chỉ có thể đem cái sai đẩy cho thiên mệnh, đôi khi Trình Dục nghĩ, nếu như Đổng Trác không chết, Hán thất sẽ ra sao? Thật khó mà nói được, song ít nhất tệ đến đâu thì cũng hơn thế này.
Đương nhiên những lời này chỉ có thể nói trong lòng mà thôi.
Tào Tháo cười:
- Ý của Mã thái úy là muốn chúng ta trùng tu Lạc Dương, ổn định lại ở đây, mọi người thấy sao?
- Vạn vạn lần không thể.
Y Tịch đứng bật dậy:
- Tu sửa Lạc Dương là công trình khổng lồ, nay Kinh Triệu không phải như xưa, kho đã trống rỗng. Dù là trước kia hưng thịnh chỉ sợ cũng phải giật gấu vá vai, hơn nữa đất này không thích hợp làm đô thành nữa. Từ cổ Lạc Dương thông tới phát phương, nếu chúng ta chiếm cứ lâu dài ở đây, ắt làm Hà Bắc Viên Thiệu bất an.
- Vậy ý Cơ Bá là?
- Tịch trước khi xuất phát đã cùng Phụng Hiếu trao đổi việc này, hiện chúng không tiện khống chế Lạc Dương, nên mời thành thượng tạm trú ở Hứa Xương, cũng tiện cho chủ công chiếu cố.
Những lời này của Y Tịch hợp dạ Tào Tháo, liền gật đầu đồng ý ngay, lệnh Y Tịch, Trình Dục phụ trách việc này.
Đám Dương Bưu nay là chó nhà tang, có chỗ an thân đã đủ, nếu khuyên không được, Tào Tháo ra mặt là xong ngay, hơn nữa hiện tâm tư của Tào Tháo cũng không phải ở đây:
- Trọng Khang, Tông Tự đi theo ta.
Tông Tự là tên chữ của Tào Bành, hai người lập tức tuân mệnh.
Tự có thân tùy an bài ngựa, Tào Tháo ngồi trên Tuyệt Ảnh, dẫn Hứa Chử và Tào Bành rời Nghênh Xuân Môn, dọc đường đi không nói một lời, tâm tình rất kém.
Rời Lạc Dương hai mươi dặm là Bắc Mang sơn, trước kia Đổng Phi xây dựng Bắc Mang sơn trang ở đây, về sau Đổng Phi lập phủ ở An Định, Bắc Mang sơn trang giao cho Đổng Trác. Từng có một dạo Đổng Trác thậm chí hi vọng có thể sống hết quãng đời còn lại ở nơi này.
Có điều nay Bắc Mang sơn trang đã biến thành đống hoang tàn, phòng xá năm xưa chỉ còn là gạch vụn đầy đất. Tào Tháo xuống ngựa ngoài sơn trang, chậm rãi đi vào, Hứa Chử và Tào Bành đưa mắt nhìn nhau, hiệu thân tùy ở ngoài canh, theo Tào Thao đi vào bên trong, dừng lại ở chỗ không có gì bắt mắt.
Nơi này chỉ có một phần mộ, rất đơn giản, xa xa nhìn chỉ như một đống đất.
Bên cạnh phần mộ dựng một khối đá, bên trên dấu vết loang lổ, lờ mờ nhìn thấy được vết chữ " Cố thái sư Đổng chi mộ!"
Tào Tháo vuốt ve chữ viết, tự nói một mình:
- Dù sinh thời có hiển hách ra sao, cuối cùng cũng chỉ là nắm đất vàng mà thôi ...
Đây là mộ Đổng Trác, Tào Tháo và ông ta không có ân oán gì, ngược lại Đổng Trác tán thưởng hắn, từng làm Tào Tháo cảm kích vạn phần.
Nói ra chỉ là chính kiến bất đồng mà thôi. Mặc kệ trước kia chém giết thảm liệt thế nào cũng không ảnh hưởng tới cái nhìn của Tào Tháo với Đổng Trác, cho nên sau khi chiếm lĩnh được Lạc Dương, Tào Tháo bí mật sai người thu thập xác Đổng Trác, an táng tại Bắc Mang.
Suy nghĩ miên man, như quay lại năm tháng xưa.
Trước kia Đổng Phi tổ chức thi đấu kính cúc ở Lạc Dương hưng thịnh biết bao, nhưng nay ai còn nhớ ngày tháng năm đó.
Đổng Phi.
Trong đầu Tào Tháo hiện lên khuôn mặt xấu xí mũi sư tử, lông mày rậm, mắt nhỏ kia.
Cuối cùng cũng định ra tay sao?
Lần trước ta bại, nhưng không đại biểu lần này ta cũng sẽ thua, Đổng Tây Bình nay không phải là Đổng gia tử xưa, nhưng Tào Mạnh Đức này cũng không phải Tào A Man bị ngươi ép phải cưỡi ngựa nhảy qua sông.
Thật mong mỏi có thể giao phong với ngươi một lần.
Mặt Tào Tháo hiện lên nụ cười nhẹ, quay người lại:
- Chúng ta và bọn Trọng Nghĩa tách nhau ra được bao lâu rồi?
Hứa Chử gập ngón tay tính:
- Đã bảy ngày rồi, tính thời gian cũng sắp tới tới Hàm Cốc quan.
Tào Tháo gật đầu không nói nữa, nhìn về phía tây bắc, ánh mắt hết sức thâm thúy, Tây Bình hiền đệ, xem ra lần này ca ca đi trước một bước rồi, đệ sẽ có phản ứng ra sao đây?
****************
Theo kế hoạch của đám Quách Gia, cùng lúc đón Hán đế cũng phải mở cửa Quan Trung, cánh cửa này là Hàm Cốc quan.
Phụng lệnh trấn thủ Hàm Cốc quan chính là Dương Duy danh tướng Tây Lương.
Người này vốn là đại tướng dưới trướng Ngưu Phụ, ở Lũng Tây khá có tên tuổi, từng suất lĩnh hơn mười kỵ sĩ, đánh lui hơn nghìn phỉ tặc, võ lực cao, được mệnh danh là đệ nhất dũng tướng của Ngưu Phụ. Sau khi Ngưu Phụ bị giết, Dương Duy suất lĩnh ba nghìn tinh kỵ quy thuận Lý Quách.
Một mặt đều là người Lương Châu, Lý Quách tất nhiên hoan hỉ, hai là dưới trướng Lý Quách binh nhiều, nhưng tướng không nhiều.
Cũng biết Dương Duy võ nghệ cao cường, thấy hắn tới nương tựa, hai người vô cùng vui mừng, lập tập phong Dương Duy làm Chấn Võ tướng quân, đóng ở Hàm Cốc quan. Lý Quách hiểu rõ, chỉ cần Hàm Cốc quan không mất, tám trăm dặm Tần Xuyên sẽ vững như núi.
Chỉ là không ai ngờ tới một ngày hai người bọn họ trở mặt thành thủ.
Dương Duy ngồi trong đại trướng chăm chú lau kiếm, thanh kiếm này là bảo kiếm Tây Vực hắn bỏ rất nhiều tiền ra mua, cực kỳ sắc bén. Dương Duy coi bảo kiếm như mạng, ngày nào cũng bỏ thời gian ra lau chùi một phen.
Đúng lúc ấy có thân binh đi vào:
- Tướng quân, bên ngoài có người tự xưng là cố nhân của tướng quân cầu kiến.