Đêm trên núi cực yên tĩnh, tuyết đã ngừng rơi, những cơn gió lạnh buốt cũng đã ngừng thổi. Trên mặt đất đóng một lớp tuyết thật dày. Khi ánh trăng hắt vào, phát ra thứ ánh sáng lung linh mờ ảo, tạo nên một khung cảnh diễm lệ vô cùng. Tạ Giám bước cẩn trọng từng bước một, thoáng ngẩng đầu, nhất thời hít một hơi, mắt nhìn ngây ngốc.
Dừng lại một hồi, hắn cười rạng rỡ nói: “Ta nếu tiếp tục đi sẽ đạp lên chỗ này mất. Cảnh đẹp như ngọc lưu ly này mà bị hủy, chẳng phải chết trăm lần cũng không đền tội được hay sao.” Quay đầu nhìn nhìn dấu chân hỗn độn trên tuyết, lại lẩm bẩm: “Không được, dù hôm nay trời lạnh vô pháp bị đông chết, nhưng nếu để người ta thấy Tạ Giám ta biến thành một khối tử thi phá hủy cảnh tuyết thanh tuyệt cùng bóng trăng lẻ loi trên núi rừng hoang vu này thì khác nào đại sát phong cảnh, cũng giống như để tiếng xấu muôn đời. Này làm như thế nào mới tốt?”
Đang đứng chôn chân trong tuyết mà lo nghĩ, chợt nghe phía trước một ngữ thanh trong trẻo vang lên: “Huynh đài nếu cảm thấy khó xử, tiểu đệ liền đưa huynh đài một đoạn đường”.
Tạ Giám cả kinh không ít, vội vàng ngẩng đầu nhìn, thì thấy cạnh cây quất bên đường, một người khoan thai đứng, so với nhánh cây chìa ra kia cao thấp không bao nhiêu. Tuyết đọng trên các nhánh cây như những nhánh pha lê tuyết trắng, vạt áo người nọ tung bay, dáng người nhanh nhẹn.
Tạ Giám vui vẻ nói: “Đa tạ. Chính là không biết huynh đài muốn dẫn tiểu đệ đi nơi nào?”
Người nọ nói: “Cách đây không xa có một đạo quán, đạo sĩ ở đó là người quen cũ của tiểu đệ, tối nay tạm ở nhờ một đêm, ngày mai mới quyết định, huynh đài cảm thấy như thế nào?”
Tạ Giám cười nói: “Rất tốt, đa tạ huynh đài. Tiểu đệ tối nay có thể bầu bạn cùng nguyệt, ngủ cùng tuyết, còn có thể đến chốn tu hành linh thiêng, thật là may mắn, thật là may mắn.”
Người nọ nở nụ cười: “Huynh đài quả là người tao nhã”. Phất ống tay áo, một đạo quang cuốn lấy Tạ Giám, làm hắn suýt ngã, một bàn tay đưa ra nắm nhanh lấy cánh tay hắn, giọng nói của người nọ cất lên: “Cẩn thận!”
Tạ Giám thấy hoa mắt, thân thể bị người nọ túm lấy, từ trong tuyết nhảy vọt lên. Hắn chỉ thấy trước mắt lúc là sương trắng lúc lại là một màu đen, khung cảnh xung quanh xoay tròn loạn thành một khối hỗn độn. Bên tai vù vù tiếng gió, bông tuyết liên tiếp đánh vào mặt, trong lòng muốn kinh sợ cũng không kịp.
Không bao lâu sau người nọ mang theo Tạ Giám nhẹ nhàng đáp xuống. Tạ Giám hít vào mấy hơi, lấy lại bình tĩnh, trông thấy trước mặt đúng là có một đạo quán nhỏ, nhưng tường loang lổ, tồi tàn đổ nát, tại sâu trong núi rừng cô lãnh càng trở nên yên tĩnh thê lương. Tạ Giám nếu một mình đi tới nơi này, ắt hẳn sẽ không thèm xem đến đạo quán hoang tàn này mà sẽ bỏ đi ngay tức khắc.
Người nọ không gõ cửa mà cầm lấy tay nắm thẳng đem cánh cửa đẩy khai, nói: “Huynh đài mời theo ta”. Tạ Giám khẽ gật đầu, hắn thẳng đến lúc này mới thấy rõ dung mạo người nọ, là một thanh niên cực kì tuấn tú.
Bên trong đạo quán cũng là hoang vắng quạnh quẽ, không thấy có hơi người. Bên kia có một đình viện nhỏ cũ kĩ, cây cỏ khô héo mọc đầy, thế nhưng bên trong đình viện lại có một mã xa màu đen tráng lệ với màn che chu sa (đỏ thắm), Tạ Giám không khỏi ngẩn người. Thanh niên nọ cũng dừng lại nhìn, nhưng chỉ một thoáng liền kéo theo Tạ Giám đi vào thần điện.
Trong điện bụi phủ khắp nơi, xà nhà cột trụ mục ruỗng, ba pho tượng Phật cũ nát đến không còn nhìn ra diện mạo, có hai người mặc thanh y bộ dáng như tư phó (đầy tớ trai) đang dùng củi nhóm lửa. Cạnh bên có hai người khác ngồi đối diện nhau bàn chuyện phiếm, nghe được có người tiến vào, nhất tề (đồng loạt) ngẩng đầu nhìn, trong đó một người cười nói: “Ta đoán rằng ngươi vài ngày nữa sẽ quay lại, thật đúng là đã trở về rồi. Di, người đi cùng ngươi là ai?” Người vừa nói chính là một người mặc trang phục đạo sĩ.
Thanh niên dẫn Tạ Giám lại gần đống lửa ngồi: “Bằng hữu gặp trên đường.”
Tạ Giám hướng đạo nhân nọ cúi chào: “Đạo trưởng mạnh khỏe.”
Đạo nhân nọ cũng không hoàn lễ mà tinh tế xem xét Tạ Giám: “Công tử là chưa gặp được ý trung nhân đi? Mấy ngày nay thuận tiện có một trường lam kiều chi hội, không biết là phúc hay là họa.” (đại khái “lam kiều chi hội” là dấu hiệu gì đó nhưng không đoán được là phúc hay họa)
Tạ Giám xưa nay không tin vào số mệnh, chỉ cười nhạt: “Đạo trưởng nói đùa.”
Thanh niên nọ liếc mắt nhìn cẩm y công tử bên kia, hướng đạo nhân nọ hỏi: “Vị công tử kia là…”
Đạo nhân nọ đáp: “Khách đến tá túc tránh tuyết, ta cũng không biết.”
Thanh niên cười nói: “Gặp nhau bất luận là người ở đâu, không quan tâm người thế nào, nhưng ắt hẳn phải hỏi tính danh. Là ta dung tục.” Rồi đối công tử kia chắp tay thi lễ, cũng không tái hỏi.
Đạo nhân nọ thở dài một tiếng, tư lự nói: “Chấp Nhu, ngươi hành động theo bản năng, theo tình cảm, tâm lại hư vô mờ mịt, cũng hữu tình cũng vô tình, sao lại nói là thanh cao hay dung tục. Làm sao giống ta, đạo hiệu “Vong Nhất”, quả nhiên là vạn sự giai vong, độc di kì nhất, không khỏi nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, cuối cùng không thể thanh tịnh giải thoát.” (triết lý khó hiểu quá =”=)
Thanh niên tên Chấp Nhu mỉm cười: “Người xuất gia như thế nào lại so sánh với người trần tục nếm trải sầu khổ phiền não như ta. Hơn nữa ngươi đã nhìn ra Vô Trần bản chất thủ đoạn độc ác, ta tái tu một trăm năm cũng không bằng được.”
Cẩm y công tử bên kia cũng cười nói: “Đạo trưởng linh thai thanh minh, thiên hoa phất tụ bất lưu dư hương (Tâm linh trong sáng, hoa trên trời phất tay áo không để lại mùi hương dư thừa. Ý chỉ thanh cao) còn vị huynh đài này “kết lư tại nhân cảnh, nhi vô xa mã huyên” (Làm nhà ở nơi đông người, vậy mà không thấy tiếng ồn ào ngựa xe, ý chỉ ở nơi hỗn tạp vẫn giữ tâm hồn trong sạch), giữa chốn hồng trần vượt lên thế nhân, quả là làm cho người khác ngưỡng mộ”.
Tạ Giám nghe bọn họ đàm đạo, cảm thấy thanh niên tên gọi “Chấp Nhu” cũng có một phần tính khí giống mình, đạo nhân kia cũng không phải loại tầm thường chỉ vẽ bùa niệm chú, thật cũng có hứng thú.
Vong Nhất cười nói: “Chấp Nhu lại trách ta trừ yêu rất nhẫn tâm. Cũng biết ta lần này đến Lạc Dương, đó là vì một con yêu vật.”
Chấp Nhu nói: “Yêu quái gì lợi hại khiến ngươi từ Lĩnh Nam núi cao sông dài xa xôi đến đây, vậy đã bắt được chưa?”
Tạ Giám ở một bên cũng không khỏi tò mò.
Vong Nhất cười nói: “Tiểu yêu này chưa tu thành hình người, tự nhiên là dễ như trở bàn tay.”
Chấp Nhu ngạc nhiên: “Nó đạo hạnh còn thấp, ngươi ngàn dặm bôn ba như vậy cóđáng?”
Vong Nhất bình thản đáp lời: “Chấp Nhu có điều không biết, yêu vật này chính là một con mị hồ, khổ tu đã lớn hình, mỗi ngày không thể không sinh ra tinh khí, đợi lâu đến lúc đó không biết sẽ hại chết bao nhiêu người vô tội. Ta tất nhiên không thể không nhanh chóng bắt nó.”
Dứt lời phất tay một cái, một tiểu bạch hồ tựa như một con mèo con xuất hiện, đôi mắt như ngọc đen láy lén lút thoáng nhìn thấy vạt áo Vong Nhất, liền lui lại thành một đoàn, thân hình run rẩy.
Tạ Giám thấy nó đáng thương, không đành lòng bèn nói: “Tiểu hồ ly này vẫn còn nhỏ, sợ là ngay cả con thỏ còn hại không được, đạo trưởng lại nói nó thành tinh hại nhân, rất không đạo lý. Nếu ta nói đạo trưởng ngày mai hướng thành Lạc Dương giả hồn giả quỷ, giả danh lừa bịp, giờ liền lột đạo bào (áo đạo sĩ) của đạo trưởng mà đánh, đạo trưởng khả có đồng ý không?” Vừa nói vừa đưa tay xoa xoa tiểu hồ, lại đưa tay đặt bên miệng nó xem nó có cắn hay không.
Tiểu hồ há mồm hàm trụ ngón tay Tạ Giám, nhẹ nhàng liếm, một đôi mắt đen bi thương nhìn hắn, tựa như cầu cứu. Tạ Giám vỗ vỗ đầu nó, ôn nhu nói: “Đừng sợ.”
Vong Nhất cười to: “Lời này của công tử thật thú vị, ta tất nhiên là không đồng ý. Chính là hồ ly này hại nhân cũng không phải đạo nhân thuận miệng bịa chuyện, công tử không tin, ta cũng vô pháp. Nếu nó không đả thương người, ta liền không hủy nội đan nó là được.” Nói xong liền hối hận, lời này tức là nói hồ ly này một ngày không đả thương người, thì là một ngày hắn phải chăm sóc nó. Hắn thiên nam hải bắc đã quen độc lai độc vãng (mình ta với ta), như thế nào có thể thêm một con hồ ly bên người.
Chấp Nhu ở một bên mỉm cười: “Đạo nhân hôm nay sinh lòng từ bi, đây chính là lần đầu gặp. Trước kia đã diệt không biết bao nhiêu yêu quái tu hành. E rằng vật nhỏ này cũng sẽ có kết cục như vậy, không quá ba ngày liền trở thành một hồ ly bình thường không có nội đan ở trong núi.”
Vong Nhất nghe được băn khoăn của Chấp Nhu, ha ha cười, thấy tiểu hồ kia thật là không muốn xa rời Tạ Giám, cư nhiên giật mình. Hồ tinh mặc dù là yêu hại nhân, nhưng phải tu thành hình người ít nhất ba trăm năm, tiểu bạch hồ này mãn một tuổi lại có thể biến hóa hình người. Vong Nhất lúc đầu nghĩ là hồ ly này có được yêu chi linh khí (năng lực thần kỳ, super hồ yêu =))), làm hại tất là thật lớn, bắt được sau mới biết tiểu hồ này trên người nguyên là có một nửa huyết mạch nhân loại, tất nhiên là dễ dàng biến hóa hình người, cũng không phải ngày ngày hấp nhân tinh khí (hấp thu tinh khí của người để sống, gia tăng công lực =”=)
Hiện giờ nếu nó cảm động và nhớ ân đức cứu giúp của Tạ Giám, lấy tinh thần và thể xác báo đáp, như vậy sẽ không làm hại thế gian. Còn về khả năng hồ ly trước hút khô tinh khí Tạ Giám, sau đi gây họa cho người khác, Vong Nhất cũng lười suy nghĩ. Lập tức nói: “Tiểu hồ này nguyên cũng cùng công tử có một đoạn túc duyến (duyên phận), công tử đã thích nó, ta liền đem nó đưa cho công tử. Công tử thấy như thế nào?” “Túc duyến” vân vân, đó là Vong Nhất buột miệng nói liều (nhưng sau này lại thành sự thật =)))
Tạ Giám nghe thế liền trở nên vui vẻ: “Đa tạ đạo trưởng.” Thấy tiểu hồ kia vẫn là không dám nhúc nhích, liền đem nó ôm lại bên người. Tiểu hồ mặc hắn bế, ngoan ngoãn nằm bên cạnh đống lửa, đôi mắt đen long lanh xoay tròn xem xét cái này, trộm nhìn cái kia nhưng không dám nhìn tới Vong Nhất. Cái đuôi tuyết trắng dày mượt nhẹ nhàng quét qua quét lại trên mặt đất.
Cẩm y công tử kia một bên xem tiểu tuyết hồ đáng yêu, một bên lấy một khối lương khô vừa mới nướng để trước mắt nó. Tiểu hồ dường như không thấy, thân mình run run, lông xù cả lên, uể oải tựa vào bên đống lửa sưởi ấm.
Tạ Giám cười nói: “Đây là linh vật, đồ ăn vứt trên mặt đất, nó tất không chịu ăn.” Một bên lấy một khối khác, cầm ở trong tay uy nó. Tiểu hồ quả nhiên lại gần hắn ăn. Tạ Giám tái uy nó một hồi, nó cắn mấy khẩu, liền dựa vào bên chân Tạ Giám mà ngủ.
Vong Nhất liếc mắt nhìn tiểu bạch hồ ngủ say một cái, đột nhiên thở dài.
Chấp Nhu thấy thế liền hỏi: “Đạo nhân thả tiểu yêu này, giờ thấy hối hận sao?”
Vong Nhất cười: “Quả nhiên là Chấp Nhu hiểu ta”.
Chấp Nhu vỗ tay cười to nói: “Không ổn rồi! Lại không biết bao nhiêu yêu vật phải gặp họa, điên đạo nhân này không biết phải bắt bao nhiêu yêu để bù. Hết thảy hổ báo lang trùng, điệp điểu hoa và cây cảnh, mau mau trốn đi thôi!”
Vong Nhất cười: “Chấp Nhu thấy bất mãn sao?”
Chấp Nhu không cười nữa, vẻ mặt nghiêm lại: “Yêu đa tình, nhân vô nghĩa. Đạo nhân tự mình hạ sơn hơn ba mươi năm, không vấn Thanh Hồng một mực bắt yêu, đã chặt đứt bao nhiêu mối lương duyên giữa nhân với yêu, theo đó gây nên vô số bi thương ai oán chốn hồng trần. Những tiểu yêu vô hại yếu ớt thế kia như thế nào bì được với oán cừu như biển của thế nhân? Theo ta thấy, đạo nhân như vậy…” Thở dài một tiếng cũng không nói tiếp.
Vong Nhất lắc đầu, “Chấp Nhu trách ta rất nhẫn tâm trong khi ta chưa từng quá cướp đi tánh mạng của một con yêu vật, nhưng Chấp Nhu làm việc, chưa lần nào không thấy huyết quang.” Lại than một tiếng, tiếp lời: “Yêu quái không phải là nhân…”
Tạ Giám nghe đạo nhân nọ nói xong, ý tứ đúng là nói thanh niên tên “Chấp Nhu” kia diệt không phải yêu, mà là nhân.
Cẩm y công tử bên kia thản nhiên cười nói: “Như vậy xem ra, yêu không hẳn hữu tình, nhân cũng không tất vô tình. Yêu đa tình, hữu tình giả thiểu, nhân đa hữu tình, vô tình giả thiểu.” (Yêu đa tình thì nhiều, hữu tình thì ít, nhân tuy có một số ít người vô tình, nhưng có nhiều người hữu tình)
Chấp Nhu mỉm cười: “Lời này thật đảo lộn luân lý.”
Vong Nhất đồng tình: “Đúng là lời này!” Lại nói: “Lúc ta thu phục yêu hồ này, Lạc Dương lại xuất hiện yêu vật, đã giết hơn mười người. Ta nếu đi bắt nó, Chấp Nhu có hài lòng?”
Chấp Nhu còn chưa trả lời, Tạ Giám ở một bên đã lên tiếng: “Tạ Giám là người Lạc Dương, việc này cũng có nghe nói một ít. Những kẻ chết đó, đều là ngày thường ỷ quyền thế, ức hiếp người lương thiện. Nay bọn chúng gặp nạn, mỗi người đều tỏ ý vui mừng, nhà nhà còn dâng hương đốt nến bái tế yêu nọ. Đạo trưởng nếu bắt nó, bất luận này là yêu gì, không phải đi ngược lại với lòng nhân?”
Vong Nhất im lặng. Chấp Nhu vui vẻ gật gù: “Đúng là lời này!” Lại nói: “Yêu vật kia tất là tỷ muội thiên tiên, với lực của một thiếu nữ lại có thể trừ hơn mười ác nhân, ta cực kỳ kính nể.”
Cẩm y công tử khẽ nhếch đuôi lông mày: “Nếu yêu vật này đối công tử có ý, công tử có tiếp nhận nàng?”
Chấp Nhu cười to: “Chẳng phải có câu “có áp bức là có đấu tranh”, huống chi trừ bạo? Được nữ hiệp này để mắt, cầu còn không được!”
Vong Nhất nãy giờ một tiếng cũng không nói. Ba người quay lại nhìn, chỉ thấy Vong Nhất ngẩn người ngửa đầu nhìn bên ngoài, ánh nhìn suy tư ẩn chứa đau khổ. Tạ Giám ngạc nhiên lên tiếng gọi: “Đạo trưởng?”.
Vong Nhất dường như phục hồi tinh thần, cũng không nhìn đến ba người kia, cúi đầu lẩm bẩm: “Ta sống hơn ba mươi năm, nhưng đều là sai lầm rồi hay sao?” Rồi thở dài một tiếng, lắc lắc thân đứng lên khỏi ghế, ống tay áo phất phơ đi thẳng.
Tạ Giám cùng công tử kia ngạc nhiên. Chấp Nhu lại nhẹ nhàng nói: “Không cần giật mình, đạo nhân điên đó là như vậy. Trời cũng không còn sớm, mọi người nghỉ đi.” Cẩm y công tử tự hồi mã xa nghỉ ngơi, Tạ Giám cùng Chấp Nhu ở trong điện, phủi bớt bụi rồi cũng nằm xuống. Tiểu bạch hồ chui vào trong lòng Tạ Giám, Tạ Giám liền đem nó bọc lại trong xiêm y. Đêm đông mặc dù lạnh, hắn bế con hồ ly trong ngực, ngủ rất an ổn.
Ngày kế tỉnh lại, mặt trời đã lên cao, trong đình mã xa sớm không thấy, Chấp Nhu cũng không biết tung tích. Đêm qua mọi chuyện thoáng qua như một giấc mộng. Tạ Giám trong lòng buồn bã, chậm rãi đi đến trước cửa đạo quan, nhưng xa xa lại thấy Chấp Nhu đang xuống núi. Hắn trong lòng vui vẻ, lớn tiếng gọi: “Còn chưa thỉnh giáo tên họ!”
Chấp Nhu xa xa nghe thấy, cũng không quay đầu lại, cất tiếng nói: “Họ Dương, danh Chấp Nhu!” Lời còn chưa dứt, bóng dáng đã biến mất dưới chân núi.
Tạ Giám than nhỏ một tiếng, hắn vốn định cùng Chấp Nhu xuống núi. Nếu tính tình quả thực hợp nhau, hai người du lịch khắp nơi ngắm cảnh một phen cũng tốt. Hiện nay xem ra cũng không được. Cầm bọc hành lý đang muốn rời đi, chợt thấy có vật gì bên chân mình cọ tới cọ lui, Tạ Giám cúi đầu nhìn, mới nhớ tới tiểu bạch hồ đêm qua được mình cứu.
Tạ Giám mặc dù so với Vong Nhất đạo nhân tứ hải dạo chơi không bì được, nhưng cũng là người thích ngao du. Hắn đêm qua cứu tiểu hồ này, bất quá là thấy nó còn nhỏ dại, lại bị người bắt nạt nên thương xót. Phải ôm con hồ ly đi khắp nơi, hắn là cực không tình nguyện, huống chi đây lại là mị hồ hấp nhân tinh khí. Tạ Giám mặc dù không sợ chết, nhưng cũng không nghĩ chết kiểu này.
Lập tức lui từng bước, đối tiểu hồ kia làm một cái cúi chào: “Tạ Giám phải hướng Trường An đi, đại tiên nhất định chịu không nổi đường đi mệt nhọc khổ sở, vẫn là không đi cùng sẽ tốt hơn. Động tiên nơi nào, hãy mau chóng quay về. Nếu chậm trễ, chỉ sợ lại bị đạo nhân hòa thượng bắt đi”
Tiểu hồ kia cũng không biết nghe hiểu không, chính là hướng đến bên người hắn mà dựa vào. Tạ Giám ngồi xổm xuống xoa xoa nó vài cái, lại nói: “Ta phải đi, ngươi cũng không nên tái đi theo.” Nói xong liền đứng dậy rời đi.
Hắn đi được một đoạn, rồi lại không yên lòng, lại nghe không biết sao lại có tiếng “xích xích”. Quay lại nhìn thấy tiểu tuyết hồ thỉnh thoảng đưa móng vuốt từ trên cao cánh cửa kéo xuống, dường như là muốn gặm lấy, hắn liền vội vàng trở về xem. Giữa đạo quán trống trải, tiểu hồ liều mạng hướng cánh cửa cào cào, đem cánh cửa in hằn mấy dấu vết không rõ hình thù. Nó nhìn thấy Tạ Giám trở về, nức nở cúi đầu bi thống kêu.
Tạ Giám thở dài, núi hoang tuyết sâu, nếu mặc kệ nó, tiểu hồ này không đông chết cũng đói chết. Thôi thì đem nó đi, đợi đến lúc xuân về hoa nở hoặc nó tu thành hình người thì rời đi cũng chưa muộn. Nghĩ thế hắn liền đem nó bế lên: “Hồ nhi hồ nhi, ta mang ngươi đi rồi, ngươi không được hại ta.”
Tiểu hồ cuộn tròn trong lòng Tạ Giám, cực kỳ thân thiết dụi dụi vào gương mặt hắn. Tạ Giám xưa nay không thích mèo con hay chó con này nọ, nhưng cũng không chán ghét tiểu hồ này. Hắn vỗ vỗ nó, ôn nhu nói: “Ngoan chút.” Tiểu hồ quả nhiên ngoan ngoãn nằm sấp, đến khi Tạ Giám hạ sơn, nó đã sớm ngủ. Tạ Giám không khỏi bật cười, trên trán nó hôn một cái.
Lúc đó đúng là mồng một tháng Giêng, vừa qua khỏi trừ tịch (giao thừa), trên đường người thưa thớt, khách *** cũng là phần lớn đóng cửa. Ngẫu nhiên có khai trương, cũng là mễ châu củi quế (mùng 1 nên chém đẹp _ _!!). Tạ Giám vẫn nhớ rõ nhiều lần phải uy tiểu hồ kia một mâm nộn kê (gà non). Tiểu hồ kia cũng không kiêng ăn, vô luận rau quả thịt bò, chỉ cần Tạ Giám uy nó, nó liền ngoan ngoãn ăn.
Như thế qua bảy tám ngày, trên đường các cửa hàng dần khai trương, phí ăn ở rốt cục không còn đắt đến dọa người. Chi phí tiêu xài tuy ít nhưng lúc đến được Đồ Châu, Tạ Giám trong túi cũng không còn một văn tiễn.
Lạc Dương Tạ thị tuy là thế gia, Tạ Giám lại là con vợ kế không được coi trọng, bằng không lại như thế nào ở đêm trừ tịch chạy đến thâm sơn du ngoạn để bị lạc đường. Trong nhà tự nhiên sẽ không cho hắn bao nhiêu tiền tài chi tiêu, Tạ Giám tự bốn năm trước cũng đã không dựa vào trong nhà cung cấp. Hiện giờ không có tiền, hắn cũng không vội. Mấy ngày liền chạy đến chạy đi mệt mỏi, buổi chiều hắn chỉ đơn giản gọi tiểu nhị đến đun nước tắm rửa.
Tạ Giám tẩy qua một lần, lại thay đổi nước ấm, thư thư phục phục (thong thả) ngâm. Hắn đảo mắt thấy tiểu hồ kia ghé vào trên bàn nhìn mình, cái đuôi dài buông xuống, nhẹ nhàng lay động qua lại. Tạ Giám bật cười: “Ngươi cũng muốn tẩy hay sao?” Nói rồi đem nó ôm vào trong dục dũng. Ngày qua ngày cùng tiểu hồ xinh đẹp nhu thuận cùng ăn cùng ngủ, bất tri bất giác cũng sinh ra cảm tình.
Tiểu hồ chợt kinh hãi, sợ tới mức bốn tiểu móng vuốt giống như ôm cây ôm lấy cánh tay Tạ Giám, dính sát vào nhau, động cũng không dám động. Tạ Giám nhẹ nhàng vỗ vỗ nó, cười nói: “Đừng sợ, đừng sợ.” Rồi từng chút từng chút vốc nước lên người nó vẩy vẩy. Hắn đem tiểu hồ thả vào trong nước ấm. Tiểu tuyết hồ kia một thân bạch mao từ cổ trở xuống đều tẩm ở trong nước, khoan khoái khẽ động, tựa như trong nước nở ra một đóa hoa tuyết trắng.
Tạ Giám thấy nó vẫn còn sợ hãi, chính mình cũng ngâm đủ, liền bế kia tiểu hồ đi ra. Hắn cầm khăn tắm đem nó bao lấy rồi tự đi mặc quần áo. Đợi hắn mặc xong quần áo nhìn đến tiểu hồ, đã thấy nó lạnh đến run rẩy, trong khăn tắm lui thành nho nhỏ một đoàn. Tạ Giám vội thay nó lau nước trên người, lại ôm nó đến cạnh lò sưởi ngồi. Tiểu hồ hồi lâu mới ấm áp chút, mỏi mệt đứng lên từ từ.
Tạ Giám ôn nhu hỏi: “Còn lạnh không?” Tiểu hồ tự nhiên không đáp. Tạ Giám lại nói: “Sớm đi ngủ đi. Cẩn thận bị phong hàn, ta không thể mời thầy thuốc cấp hồ ly xem bệnh được.” Sau đó liền đem tiểu hồ bỏ vào trong ổ chăn, lại vuốt ve nó vài cái.
Xong xuôi đâu đó, Tạ Giám không lâu cũng đi ngủ. Hắn đi đường rất mệt, tắm rửa xong thoải mái, quả nhiên là một đêm vô mộng.
Cũng không biết ngủ thẳng đến khi nào, Tạ Giám mông mông lung lung tỉnh lại, mơ hồ cảm thấy được bên mình một người đang nằm. Hơi thở đều đều, rất khẽ, mùi hương thơm mát thoang thoảng. Tạ Giám xưa nay là miên hương túc ngọc quán (thường ngủ ôm người đẹp _ _!!), lại đang mơ mơ hồ hồ, nghĩ chính mình đang ở tần lâu sở quán kia, liền thuận tay đem người nọ ôm vào trong ngực, tùy tiện xoa vài cái. Chỉ có cảm giác tinh tế mát lạnh, so với lụa tơ tằm thượng hạn Tô Châu còn nhuyễn hoạt (mềm mại trơn bóng) hơn vài phần. Bỗng dưng truyền lại cảm giác quen thuộc giống như chính mình đã từng chạm qua, nhưng lại không nhớ rõ khi nào hưởng thụ qua mỹ nhân này.
Tạ Giám trong lòng đoán đây là hoa khôi ở đây, miễn cưỡng nâng nửa người dậy quay lại xem người nọ. Ánh mặt trời xuyên qua khe cửa, hắn ẩn ẩn nhìn ra gương mặt người nọ ôn nhu, không có vẻ kiều mỵ của nữ tử, chính là một thiếu niên. Tạ Giám lắp bắp kinh hãi, trong đầu tỉnh táo lại, biết này là tiểu bạch hồ hóa thành hình người.
Hồ ly cảm giác vốn nhạy bén, nhận ra Tạ Giám đang nhìn mình, thiếu niên kia liền mở mắt, lộ ra một đôi ngươi vẫn nhu nhuận như trước. Thếu niên cúi đầu kêu một tiếng “Công tử”. Thanh âm vô cùng êm ái dễ nghe, sợ là thanh âm của thiếu nữ cũng không thanh nhu (giọng nói trong trẻo, dịu dàng) được như vậy.
Tạ Giám mặc dù thường ngày cùng này hồ ly nói chuyện, nhưng hiện tại lần đầu tiên gặp hồ ly biến nhân trong truyền thuyết, nhất thời nói không ra lời. Đi tới đi lui đẩy cửa sổ ra nhìn nhìn, bên ngoài tiếng người dần ồn ào, thì ra đã là sáng sớm. Sau một lúc lâu chỉ nói: “Ngươi ngày hôm qua ăn không nhiều, hiện nay đói bụng sao, đứng lên ăn sớm một chút đi.”
Hồ ly thiếu niên không lên tiếng, vẫn là cuộn tròn trong chăn, chậm chạp bất động.
Tạ Giám ngạc nhiên: “Ngươi như thế nào còn không đứng lên?”
Thiếu niên đỏ mặt, thấp giọng nói: “Ta, ta không có quần áo.”
Tạ Giám thoáng ngạc nhiên bỗng nhớ tới truyền thuyết lúc trước đã nghe qua, còn có “Liêu trai chí dị”, đều nói da hồ có thể biến thành xiêm y. Thì ra nguyên lai không phải như thế. Nghĩ nghĩ một hồi liền lục lọi quần áo chính mình lấy ra một bộ đưa cho nó, rồi ra ngoài gọi hai bát mì.
Khi trở về đã thấy hồ ly thiếu niên mặc xong quần áo, còn chưa buộc tóc. Nó mặc quần áo Tạ Giám hơi rộng một chút, vạt áo cũng dài quá chân, nhưng cũng rất vừa mắt. Không bao lâu sau tiểu nhị đưa mì lên, thấy phòng Tạ Giám tự nhiên có thêm một người, ngẩn ra nhìn chằm chằm, suýt nữa quăng luôn cái mâm.
Tạ Giám ăn mấy miếng, nhìn hồ ly thiếu niên kia chỉ thấy nó chính là cúi đầu ngồi, cũng không động đũa. Hắn nhẹ nhàng hỏi: “Ngươi không ăn được cái này hay sao?” Thầm nghĩ nó lúc trước cũng đã ăn qua, có thể nào giờ biến thành người nên khủng hoảng không nuốt nổi.
Thiếu niên lắc lắc đầu, cầm đũa lên, song vẫn là cúi đầu bất động. Tạ Giám thấy nó cầm chặt đôi đũa trong tay, bỗng nhiên nghĩ đến một chuyện: “Ngươi không biết dùng đũa?”
Người kia gật gật đầu, trên mặt hơi hơi đỏ.
Tạ Giám nhịn cười, chỉ dẫn thiếu niên thoạt nhìn ước chừng mười bốn mười lăm tuổi cách dùng đũa. Hắn đối tiểu hồ ly này vốn có một ít cảnh giác không rõ ràng, lúc này hoàn toàn tiêu. Đợi khi nó tự mình có thể cầm đũa được mới buông tay.
Tạ Giám ăn một nửa lại nhìn nó, hồ ly thiếu niên kia vẫn là không được tự nhiên xoay xoay đũa chọt chọt mì. Dường như còn sợ hắn sẽ thấy, thỉnh thoảng trộm giương mắt liếc Tạ Giám. Bất ngờ rùng hợp gặp Tạ Giám nhìn lại, bốn mắt nhìn nhau, nó nhất thời quăng đũa, cúi gằm mặt xuống, hai tai đỏ ửng. Một chiếc đũa văng tới tận mép bàn, suýt rơi xuống.
Tạ Giám cười nói: “Đến đây.” Lấy lại đôi đũa, Tạ Giám một ngụm uy nó. Thiếu niên mặt ửng đỏ ngoan ngoãn há mồm ăn.
Đợi cho uy hoàn, bát mì của Tạ Giám đã sớm lạnh ngắt, cũng không tái ăn. Hồ ly thiếu niên nhìn xem bát mì còn hơn phân nửa, nhìn nhìn lại Tạ Giám, trong ánh mắt tràn đầy băn khoăn.
Tạ Giám thấy nó xinh đẹp sạch sẽ, vốn quen thói phong lưu liền vương tay xoa bóp hai má nó cười nói: “Nhìn cái gì? Từ trước làm hồ ly còn có thể kêu vài tiếng, làm nhân ngược lại một chữ cũng không nói. Nói chuyện về ngươi đi.”
Thiếu niên hai má hồng hồng cúi đầu, vẫn là không nói lời nào.
Tạ Giám thấy tóc nó tán loạn, hơn nữa không buộc. Hắn vừa thay nó chải đầu vừa hỏi: “Ngươi có tên không?”
Thiếu niên gật gật đầu: “Ta gọi là Linh Hồ Thanh.”
Tạ Giám “Nga” một tiếng, gật gù: “Quả nhiên đem “Linh Hồ” làm họ. “Linh” nghĩa là tốt đẹp, “Linh Hồ” theo mặt chữ xem ra, đó là “hồ ly xinh đẹp”. Linh Hồ Thanh nghe không hiểu rõ lắm, nhưng cũng không hỏi lại.
Tạ Giám một bên thay nó chải đầu một bên hỏi tiếp: “Ngươi nhiêu tuổi?”
Linh Hồ Thanh đáp: “Hôm nay mới vừa mãn một tuổi.”
Tạ Giám suýt quăng cây lược trong tay, cả kinh: “Một tuổi?”
Linh Hồ Thanh cực tự nhiên giải thích: “Hồ ly không bằng nhân sống lâu dài, một tuổi tự nhiên liền tương đương với nhân hơn mười tuổi.”
Tạ Giám không giấu nổi ngạc nhiên: “Ngươi một tuổi liền có thể hóa thành hình người?”
Linh Hồ Thanh đáp lại ngượng ngùng: “Ta có một nửa huyết mạch của nhân loại, cha ta là người.”
Tạ Giám thắc mắc: “Cha ngươi còn ở cùng một chỗ với ngươi hay không?”
Linh Hồ Thanh thấp giọng: “Ta chưa thấy qua cha, cũng chưa thấy qua nương.”
Tạ Giám ngẩn ra, hắn trước đây còn có mẫu thân yêu thương, tiểu hồ ly này so với hắn còn đáng thương hơn vài phần. Chọn một chiếc khăn chít đầu trắng trong thuần khiết thay Linh Hồ Thanh buộc hảo tóc, ôn nhu nói: “Thanh Nhi này một năm qua sống hảo hay không?”
Linh Hồ Thanh suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Hoàn hảo. Có tỷ tỷ chiếu cố ta.”
Tạ Giám mỉm cười: “Ngươi nguyên lai còn có tỷ tỷ.”
Linh Hồ Thanh gật đầu: “Ta cùng tỷ tỷ ở ngọn núi ngoài thành Lạc Dương.”
Tạ Giám cười nói: “Hóa ra chúng ta đồng hương.” Lại tiếp: “Ngươi bị bắt đi rất nhiều ngày rồi, tỷ tỷ ngươi nhất định vội vã tìm ngươi.”
Linh Hồ Thanh không nói lời nào, ánh mắt nhìn Tạ Giám có ý không muốn xa rời, sau một lúc lâu mới lên tiếng: “Ân, ta có lẽ nên về nhìn xem.” Lại thấp giọng nói: “Trở về vài ngày ta sẽ quay lại. Công tử đã cứu ta, ta không biết như thế nào báo đáp mới tốt…”
Tạ Giám ngây người một chút. Hắn mặc dù rất thích tiểu hồ ly, nhưng cũng biết đây là mị hồ, chưa bao giờ nghĩ tới phải như thế nào sống cùng nó. Lời nói của Linh Hồ Thanh, rõ ràng là có ý lấy thân báo đáp, da đầu không khỏi một trận run lên. Lập tức nói: “Ta muốn đi Trường An, không thể ở lại khách *** này mãi, Thanh Nhi nếu trở về tìm ta, nhất định là không thấy. Vẫn là quay về Lạc Dương hảo hảo ở đi, đừng bận tâm đến việc này, cẩn thận lại bị nhân bắt đi. Ngày mai ta đi mua con ngựa, Thanh Nhi có thể trở về mau chút.”
Linh Hồ Thanh nhìn hắn, hơi cúi đầu, cũng không biết có hay không nghe ra ý tứ Tạ Giám không muốn nó đi theo. Lát sau mới đáp lại: “Đa tạ công tử.”
Ngày thứ hai Tạ Giám quả nhiên mua hai con ngựa đến, lại đưa nó một ít lộ phí. Sau đó hắn đưa Linh Hồ Thanh đến cổng thành Lạc Dương, chỉ nói một câu “Bảo trọng” coi như từ biệt.
Linh Hồ Thanh không nói gì, chỉ mong hắn nhìn đến mình một cái liền đi.
-oOo-