Các quán rượu ở San Francisco đóng cửa lúc hai giờ sáng, nhưng cũng đủ kịp cho Nick có tới ba tiếng để hút hết một gói thuốc và nốc đến phần năm chai Johnny Walker trong quán nọ ở khu Mission. Khi nó đóng cửa, gã lại chui vào một quán khác bán thâu đêm ở khu Market làm thêm vài ly nữa rồi mới mò về nhà ngủ quay cuồng được vài tiếng. Lúc thức dậy, hắn tưởng như có ai mới thả một mỏ neo vào đầu mình còn cái lưỡi thì như bọc một lớp da thú. Hắn chịu nổi cơn nhức đầu sau khi say rượu - đã từng quen rồi - nhưng cáu nhất là hắn tự thấy ghét chính mình.
Lúc hắn mò được tới Sở thì nguyên nhóm chuyên án Johnny Boz đã ngồi trong phòng của Walker cả tiếng đồng hồ rồi. Chẳng ai thèm đứng dậy chào khi hắn vô tới.
- Gì mà như tấm giẻ rách vậy? - Walker hỏi.
- Giẻ rách tôi thấy còn đỡ hơn - Andrews nói.
- Xác cha Boz cũng đỡ hơn - Harrigan thêm vào.
- Đừng để bụng nghe - Gus cười ruồi - Coi mày cũng chưa đến nỗi như thế, chỉ hơi tả tơi thôi.
- Ai cũng giễu hay dữ - Nick ầm ừ. Hắn rót một tách café và nốc cái ực như đêm qua đã nốc rượu - Có gì mới không?
- Tôi có gọi điện tới Berkeley - Andrews nói - Năm 1977 có một án mạng ở đó. Một giáo sư bị đâm nhiều nhất bằng dao cạy đá, trên giường ngủ.
- Hồi đó cô ta vẫn còn học ở đó hả? - Nick nhếch mép.
- Hồ sơ của trường có ghi - Andrews đáp.
- Khoan - Nick nói - Năm 1977 hả? Bây giờ cô ta bao nhiêu? 30? 31? Vậy hồi đó cô ta - Hắn lẩm bẩm làm toán trừ - 16? Hay 17?
- Phải. Một đứa trẻ hoang đàng - Gus nói.
- Gus, tôi biết ông chỉ đùa tôi thôi - Nick nói - Nhưng mấy tay kia thì không đâu.
- Vậy là - Walker nói - Mình đang nói chuyện một nữ sinh 16 đâm chết một giáo sư đại học sao?
- Ta đang nói chuyện về Catherine Tramell - Nick đáp. Chứ không phải nữ sinh 16 nào đó. Tôi chưa buông cô ta đâu.
- Mình sẽ kiểm tra lại - Walker nói không hào hứng lắm. - Gus, đi Berkeley điều tra lại coi. Harrigan tìm xem cô ta còn xuất bản những gì. Andrews lục lại hồ sơ tai nạn bố mẹ cô ta. Tìm được gì thì sao một bản cho cô Beth. Tôi muốn có chuyên gia tâm lý trong vụ này. Hiểu chưa?
- Còn tôi làm gì? - Nick hỏi.
- Mày thì đã có chuyên gia tâm lý lo rồi - Gus cười hềnh hệch.
- Đầu tiên, Nick, anh đi thọc đầu vào một xô nước đá. Rồi theo dõi cô ta, xem cổ đưa mình tới đâu.
*
Nick chẳng thèm kiếm xô nước đá, nhưng hắn quất thêm vài cốc café khi lên đường tới Stinson. Hắn hạ hết cửa xe xuống để gió thốc vào mặt. Cầu Golden Gate đầy sương mù nhưng gió biển mát lùa bợt hơi rượu váng vất trong đầu. Khi tới gần Stinson thì hắn thấy đã tỉnh táo đến 8 phần 10.
Chiếc Lotus đen đang đậu trước nhà nàng, hắn ngồi chờ cả tiếng mới thấy nàng ra khỏi cửa và chui vào xe.
Nàng lái xe coi ngon lành, nhưng không phóng bạc mạng. Nick mỉm cười một mình, đôi khi cô nàng cũng không mê tốc độ lắm. Hắn chạy theo nàng xa xa, một khoảng khá an toàn, đủ để thấy mui xe của nàng. Thà mất hút còn hơn để nàng biết có người theo đuôi.
Vài phút sau là hắn tức điên vì thói cẩn thận đó. Nàng chợt nhấn ga và chiếc xe lao bắn đi như một con ngựa vào nước kiệu.
Nàng lượn xe trong dòng xe cộ, lách ra, qua mặt, lách vô, mọi kiểu để tiến lên trước. Nick lau mép đang lấm tấm mồ hôi và nhấn ga bám theo.
Những người lái xe đi dạo sớm trên xa lộ số 1 chưa kịp hoàn hồn với chiếc xe Lotus vọt bán mạng qua thì lại thấy một chiếc Chevrolet nâu bẩn thỉu cũng phóng chế bỏ không kém.
Nhưng tất cả chỉ mới là màn dạo đầu của nàng. Tới một khúc quanh, nàng vọt ra ngoài, lấn hẳn sang tuyến bên kia qua mặt ba chiếc xe một lượt. Nick lập tức cũng lách ra theo đúng kiểu. Khi hắn vượt hẳn đường phân chia giữa lộ thì nàng đã lách vô, để lại hắn đối đầu với một chiếc xe buýt tổ bố đang lao tới như một viên đại bác.
Bên phải hắn là một xe cùng chiều, bên trái là bờ vực vì đang là đoạn đường đồi. Không có chỗ nào chui ra ngoài việc húc thẳng vào chiếc xe buýt hoặc lui trở lại về tuyến của mình trước khi bị đụng nát đầu và ghi thêm một số liệu trong thống kê về tai nạn giao thông. Xe cứ phóng, xe buýt nhấn còi um trời, còn cái xe kề bên phải hắn chưa vượt lên hẳn. Tiêu tùng rồi.
Trong tích tắc cuối cùng hắn đã kịp quyết định: Đạp thắng và lách đích chiếc xe ở bên phải lúc đó vừa vượt lên, hắn chui lại được về tuyến của mình, nhường chỗ cho chiếc buýt kịp thời vọt qua, còi vẫn nhấn ầm vang.
- Mẹ kiếp - Hắn đấm vào tay lái, hoặc chết tươi hoặc mất dấu, bây giờ phải vọt theo. Hắn lại nhấn lút ga, lách qua trái, qua mặt các xe trước và phóng lên.
Hắn còn kịp thấy bóng chiếc Lotus đen thui, tuốt đằng xa, nó vừa quẹo vào ngã cần tới Milly Valley. Hắn thở cái phèo. Miill Valley là một thị trấn nhỏ, yên tĩnh. Dân cảnh sát ở đó không chịu để yên cho chiếc Lotus biểu diễn một màn anh hùng xa lộ đâu, kể cả ở ngoại vi thị trấn.
Hắn theo kịp nàng qua những ngọn đồi, những đoạn đường ngoằn ngoèo nghiêng nghiêng. Nàng dừng lại trước một căn nhà đơn sơ cũ kỹ trông như sắp sập thật trái ngược với những căn của giới trung lưu quanh đó cùng nằm trên đường Balbion của cái thị trấn này. Hắn chạy qua và ghi nhớ số nhà.
Catherine xuống xe và gõ cửa trước. Khi nàng vào trong, hắn cho xe đậu lại và ngồi chờ.
*
Một tiếng sau, chưa thấy nàng ra, hắn thấy chán quá bèn xuống xe tà tà đi ngược trở lại quan sát căn nhà. Chẳng thấy được gì, các cửa sổ đóng kín. Có cái thùng thư tả tơi phía trước, nắp đậy đã sút bản lề. Hắn rút trong đó ra một lá thư của một hãng gởi ông/bà Hazel Dobkins gạ gẫm ông bà tham gia đợt khuyến mại trị giá hàng triệu đô - la và mời ông bà xem kỹ những thông tin bên trong phong bì để quyết định con đường trở thành triệu phú cho mình!
Cái tên chủ nhà chẳng gợi tới gì cả. Đến khi trời sụp tối mới thấy Tramell bước ra khỏi nhà cùng với một bà già cỡ 60, người mảnh mai. Hắn chỉ có thể đoán đó là một bà con gì đó với nàng, bà cô bà dì bên ngoại chẳng hạn. Tuổi tác hai người cách biệt xa, nhưng vấn đề là Catherine Tramell coi bộ không phải típ người mặn mòi với bà con gia tộc.
Nàng chui vào xe, chạy xuống thung lũng. Chuyến về coi bộ nàng thong thả, ít ra cho tới lúc rời khỏi hẳn thị trấn Mill Valley. Rồi tới một ngã tư, đèn đỏ, nàng tà tà chậm lại như mọi tài xế nghiêm túc khác. Một chiếc xe đã đậu sẵn ở đó chờ đèn xanh. Đột nhiên nàng nhấn ga, bẻ lái, cái xe vọt lên, chui vào khoảng trống giữa chiếc xe và lề đường, chồm tới và quẹo cua sang phải ngay lúc đèn đổi màu xanh.
Nick vọt theo, làm y hệt và hướng về phía Stinson. Hắn phải nhủ thầm là mình đang thi hành lệnh của Walker, đang thi hành công vụ theo lệnh cấp trên. Nhưng trong thâm tâm, dù không muốn thừa nhận, hắn cũng hiểu rõ rằng hắn rất muốn gặp lại Catherine Tramell.
Chiếc Lotus đã đậu trước nhà, như một con ngựa thong thả nằm nghỉ sau một cuộc dạo chơi. Hắn có cảm tưởng nàng điều khiển chiếc xe như một sinh vật sống chứ không phải một mớ sắt thép và cao su vô tri giác. Nàng tùy nghi khiến nó chồm lên, phóng đi bẻ cua hay đột nhiên ngừng lại. Cả cỗ máy dưới tay nàng cứ phập phồng với nhịp xăng chảy như là mạch máu.
Đêm đã xuống và hắn có thể nghe tiếng sóng vỗ vào những đập chắn phía sau nhà. Một cửa sổ tầng trên còn sáng đèn và có bóng Catherine đi ngang qua đó. Lát sau nàng tới đứng bên cửa sổ và nhìn ra. Hắn vội lẫn vào bóng tối, e rằng nàng đã nhìn thấy, nhưng nàng chỉ trầm tư nhìn ra xa, về phía biển, trầm tư.
Thong thả, nàng cởi nút áo chemise và đứng phơi ngực trần ở đó một vài giây. Rồi nàng kéo màn, bóng chìm sau lớp vải. Nick ở dưới, mắt mở lớn nhìn chăm chăm, căng thẳng lên khung cửa sổ, tai vẫn nghe rì rào sóng vỗ.
Rồi đèn tắt và hắn tưởng tượng cảnh nàng lặng lẽ chui vào giường.
Độ một tiếng sau hắn về tới San Francisco, mò vào sở và lặng lẽ bấm máy vi tính trong căn phòng vắng. Những ngón tay lướt trên bàn phím. Hắn đánh: Hazel Dobkins, trắng, nữ, 145 đường Albion, Mill Valley. Rồi bấm nút "Enter", hắn chờ máy lục lọi hồ sơ.
Đầu tiên máy lục hồ sơ của Sở Cảnh sát San Francisco và hiện lên dòng chữ Nothing Known Against (Không có ghi nhận gì chống lại đương sự).
- Cụt cứt - Nick thở ra, tuy không ngạc nhiên lắm. Hazel Dobkins có cái tướng một bà ngoại thích nuôi mèo và làm bánh. Dễ gì có chuyên bà ấy bị phạt vi cảnh giao thông chứ đừng nói chuyện tiền án tiền sự.
Cái máy đang chờ lệnh Nick "Mẹ kiếp", hắn nhấn mật mã ra lệnh lục tàng thư hình sự của tiểu bang California và lại đánh tên tuổi, lai lịch Hazel Dobkins lần nữa. Đúng như hắn nghĩ, lần này máy hiện lên câu trả lời: Dobkins, Hazel, Nothing Current (Hiện không có gì). Dĩ nhiên "Hiện không có gì" đâu có nghĩa là "hoàn toàn không có gì".
Máy vẫn tiếp tục lục lọi rồi hiện lên những thông tin khác. Nick chợt nghe rúng động khi đọc thấy: Dobkins, Hazel, Phóng thích 7 tháng 7, 1965, Nhà tù San Quentin.
- Ái chà, Hazel - Hắn thầm thì, rồi lẹ làng ra lệnh moi hồ sơ việc tống giam bà ta, câu trả lời ngay tức khắc: Kết tội giết bốn nhân mạng, tháng 7, 1955. Xử 10 tháng 1, 1956, Toà án tối cao San Francisco.
- Bốn mạng - Nick lầm bầm. Hắn rờ lên màn hình chỗ có những dòng chữ đó để tin rằng đó là sự thật.
- Không có chuyện gì làm sao mà vô đây vọc máy vậy? - một giọng nói vang lên sau lưng. Nghe giọng là biết ai, Nick không rời mắt khỏi màn hình, hắn hỏi:
- Còn ông làm gì ở đây?
Gus Moran ngồi xuống ghế cạnh Nick:
- Tao cũng định vào bấm máy như mày đây - Ông ta vỗ vai Nick - Chí lớn gặp nhau phải không?
- Tìm được gì ở Berkley không? - Nick không rời mắt khỏi màn hình.
- Làm quen với một mớ đồng nghiệp ở đó, đứng ngắm mấy em nữ sinh viên. Nhiều em đẹp mê hồn, Nick à!
- Quên đi, Gus. Các em trí tuệ hơn ông nhiều.
- Phải, nhưng dân lõi đời như tao có nhiều điều các em muốn học lắm.
- Còn ông thì tìm biết được gì?
- Tay giáo sư tâm lý đó là Tiến sĩ Noah Goldstein, bị đâm nhiều nhát tới chết, tháng 9/1977. Đoán ra cái gì không?
- Cô ta gây án hả?
- Không tìm ra thủ phạm, nhưng tiến sĩ Goldstein là giáo sư hướng dẫn Catherine Tramell.
- Cô ta hồi đó có bị tình nghi không?
- Không. Thậm chí cũng chẳng hỏi cung luôn. Không ai bị tình nghi cả, không ai thù oán gì với giáo sư. Không ai bị bắt. Tức là không có gì cả. Vụ án còn bỏ ngỏ. Nhưng cũng may là còn lai một manh mối.
- Cũng chẳng ăn thua gì nếu nó không nối được với vụ Johnny Boz.
Gus nghiêng cổ nhòm vào màn hình của Nick:
- Chúa ơi! Hazel Dobkins! Manh mối gì đây? - Ông ta nhìn Nick lắc đầu - Hay lắm. Tao hầu như sắp quên Hazel rồi.
- Biết bà này hả?
- Biết? Đâu có! Nhưng rất khó quên. Một bà nội trợ hiền lành, ba con nhỏ, một ông chồng không biết la cà đàng điếm, không nợ nần túng bấn. Không hề có tiền sử bệnh tâm thần, không gì cả.
- Rồi sao?
- Rồi một ngày kia bà ta thức dậy, đột nhiên nghĩ rằng phải làm sạch. Hết cả nhà, băng một cái ...
- Dao cạy đá? - Nick đoán mò.
- Từ từ mày. Một con dao khắc gỗ, quà tặng hồi đám cưới. Đầu tiên là làm ông chồng, xe nát ra như làm thịt gà. Rồi tới ba đứa con. Khi làm xong thì cái nhà coi như lò sát sinh.
- Trời ơi! - Nick thở ra.
- Trời đất chẳng dính gì tới vụ này cả. Sau khi làm xong, bà ta gọi cảnh sát. Họ tới thì bà ta còn ngồi đó trong phòng khách, dao đặt trên lòng. Không chối cãi, không có dấu điên, không gì cả.
- Nhưng tại sao? Tại sao lại làm thế?
- Đó là chuyện chẳng ai biết - Gus nhún vai - Chuyên gia tâm lý nào cũng chịu thua. Chỉ có Chúa biết. Hazel cũng không giải thích được. Bà ta chỉ nói là không hiểu sao mình làm thế.
- Không tin nổi.
- Vậy tại sao mày lại ngồi lục hồ sơ Hazel?
Nick kể vắn tắt lại chuyện truy ra mối quen biết giữa Catherine và Hazel Dobkins.
- Lạy Chúa - Gus kêu lên - Chơi với toàn thứ dữ không.
Các quán rượu ở San Francisco đóng cửa lúc hai giờ sáng, nhưng cũng đủ kịp cho Nick có tới ba tiếng để hút hết một gói thuốc và nốc đến phần năm chai Johnny Walker trong quán nọ ở khu Mission. Khi nó đóng cửa, gã lại chui vào một quán khác bán thâu đêm ở khu Market làm thêm vài ly nữa rồi mới mò về nhà ngủ quay cuồng được vài tiếng. Lúc thức dậy, hắn tưởng như có ai mới thả một mỏ neo vào đầu mình còn cái lưỡi thì như bọc một lớp da thú. Hắn chịu nổi cơn nhức đầu sau khi say rượu - đã từng quen rồi - nhưng cáu nhất là hắn tự thấy ghét chính mình.
Lúc hắn mò được tới Sở thì nguyên nhóm chuyên án Johnny Boz đã ngồi trong phòng của Walker cả tiếng đồng hồ rồi. Chẳng ai thèm đứng dậy chào khi hắn vô tới.
- Gì mà như tấm giẻ rách vậy? - Walker hỏi.
- Giẻ rách tôi thấy còn đỡ hơn - Andrews nói.
- Xác cha Boz cũng đỡ hơn - Harrigan thêm vào.
- Đừng để bụng nghe - Gus cười ruồi - Coi mày cũng chưa đến nỗi như thế, chỉ hơi tả tơi thôi.
- Ai cũng giễu hay dữ - Nick ầm ừ. Hắn rót một tách café và nốc cái ực như đêm qua đã nốc rượu - Có gì mới không?
- Tôi có gọi điện tới Berkeley - Andrews nói - Năm có một án mạng ở đó. Một giáo sư bị đâm nhiều nhất bằng dao cạy đá, trên giường ngủ.
- Hồi đó cô ta vẫn còn học ở đó hả? - Nick nhếch mép.
- Hồ sơ của trường có ghi - Andrews đáp.
- Khoan - Nick nói - Năm hả? Bây giờ cô ta bao nhiêu? ? ? Vậy hồi đó cô ta - Hắn lẩm bẩm làm toán trừ - ? Hay ?
- Phải. Một đứa trẻ hoang đàng - Gus nói.
- Gus, tôi biết ông chỉ đùa tôi thôi - Nick nói - Nhưng mấy tay kia thì không đâu.
- Vậy là - Walker nói - Mình đang nói chuyện một nữ sinh đâm chết một giáo sư đại học sao?
- Ta đang nói chuyện về Catherine Tramell - Nick đáp. Chứ không phải nữ sinh nào đó. Tôi chưa buông cô ta đâu.
- Mình sẽ kiểm tra lại - Walker nói không hào hứng lắm. - Gus, đi Berkeley điều tra lại coi. Harrigan tìm xem cô ta còn xuất bản những gì. Andrews lục lại hồ sơ tai nạn bố mẹ cô ta. Tìm được gì thì sao một bản cho cô Beth. Tôi muốn có chuyên gia tâm lý trong vụ này. Hiểu chưa?
- Còn tôi làm gì? - Nick hỏi.
- Mày thì đã có chuyên gia tâm lý lo rồi - Gus cười hềnh hệch.
- Đầu tiên, Nick, anh đi thọc đầu vào một xô nước đá. Rồi theo dõi cô ta, xem cổ đưa mình tới đâu.
Nick chẳng thèm kiếm xô nước đá, nhưng hắn quất thêm vài cốc café khi lên đường tới Stinson. Hắn hạ hết cửa xe xuống để gió thốc vào mặt. Cầu Golden Gate đầy sương mù nhưng gió biển mát lùa bợt hơi rượu váng vất trong đầu. Khi tới gần Stinson thì hắn thấy đã tỉnh táo đến phần .
Chiếc Lotus đen đang đậu trước nhà nàng, hắn ngồi chờ cả tiếng mới thấy nàng ra khỏi cửa và chui vào xe.
Nàng lái xe coi ngon lành, nhưng không phóng bạc mạng. Nick mỉm cười một mình, đôi khi cô nàng cũng không mê tốc độ lắm. Hắn chạy theo nàng xa xa, một khoảng khá an toàn, đủ để thấy mui xe của nàng. Thà mất hút còn hơn để nàng biết có người theo đuôi.
Vài phút sau là hắn tức điên vì thói cẩn thận đó. Nàng chợt nhấn ga và chiếc xe lao bắn đi như một con ngựa vào nước kiệu.
Nàng lượn xe trong dòng xe cộ, lách ra, qua mặt, lách vô, mọi kiểu để tiến lên trước. Nick lau mép đang lấm tấm mồ hôi và nhấn ga bám theo.
Những người lái xe đi dạo sớm trên xa lộ số chưa kịp hoàn hồn với chiếc xe Lotus vọt bán mạng qua thì lại thấy một chiếc Chevrolet nâu bẩn thỉu cũng phóng chế bỏ không kém.
Nhưng tất cả chỉ mới là màn dạo đầu của nàng. Tới một khúc quanh, nàng vọt ra ngoài, lấn hẳn sang tuyến bên kia qua mặt ba chiếc xe một lượt. Nick lập tức cũng lách ra theo đúng kiểu. Khi hắn vượt hẳn đường phân chia giữa lộ thì nàng đã lách vô, để lại hắn đối đầu với một chiếc xe buýt tổ bố đang lao tới như một viên đại bác.
Bên phải hắn là một xe cùng chiều, bên trái là bờ vực vì đang là đoạn đường đồi. Không có chỗ nào chui ra ngoài việc húc thẳng vào chiếc xe buýt hoặc lui trở lại về tuyến của mình trước khi bị đụng nát đầu và ghi thêm một số liệu trong thống kê về tai nạn giao thông. Xe cứ phóng, xe buýt nhấn còi um trời, còn cái xe kề bên phải hắn chưa vượt lên hẳn. Tiêu tùng rồi.
Trong tích tắc cuối cùng hắn đã kịp quyết định: Đạp thắng và lách đích chiếc xe ở bên phải lúc đó vừa vượt lên, hắn chui lại được về tuyến của mình, nhường chỗ cho chiếc buýt kịp thời vọt qua, còi vẫn nhấn ầm vang.
- Mẹ kiếp - Hắn đấm vào tay lái, hoặc chết tươi hoặc mất dấu, bây giờ phải vọt theo. Hắn lại nhấn lút ga, lách qua trái, qua mặt các xe trước và phóng lên.
Hắn còn kịp thấy bóng chiếc Lotus đen thui, tuốt đằng xa, nó vừa quẹo vào ngã cần tới Milly Valley. Hắn thở cái phèo. Miill Valley là một thị trấn nhỏ, yên tĩnh. Dân cảnh sát ở đó không chịu để yên cho chiếc Lotus biểu diễn một màn anh hùng xa lộ đâu, kể cả ở ngoại vi thị trấn.
Hắn theo kịp nàng qua những ngọn đồi, những đoạn đường ngoằn ngoèo nghiêng nghiêng. Nàng dừng lại trước một căn nhà đơn sơ cũ kỹ trông như sắp sập thật trái ngược với những căn của giới trung lưu quanh đó cùng nằm trên đường Balbion của cái thị trấn này. Hắn chạy qua và ghi nhớ số nhà.
Catherine xuống xe và gõ cửa trước. Khi nàng vào trong, hắn cho xe đậu lại và ngồi chờ.
Một tiếng sau, chưa thấy nàng ra, hắn thấy chán quá bèn xuống xe tà tà đi ngược trở lại quan sát căn nhà. Chẳng thấy được gì, các cửa sổ đóng kín. Có cái thùng thư tả tơi phía trước, nắp đậy đã sút bản lề. Hắn rút trong đó ra một lá thư của một hãng gởi ông/bà Hazel Dobkins gạ gẫm ông bà tham gia đợt khuyến mại trị giá hàng triệu đô - la và mời ông bà xem kỹ những thông tin bên trong phong bì để quyết định con đường trở thành triệu phú cho mình!
Cái tên chủ nhà chẳng gợi tới gì cả. Đến khi trời sụp tối mới thấy Tramell bước ra khỏi nhà cùng với một bà già cỡ , người mảnh mai. Hắn chỉ có thể đoán đó là một bà con gì đó với nàng, bà cô bà dì bên ngoại chẳng hạn. Tuổi tác hai người cách biệt xa, nhưng vấn đề là Catherine Tramell coi bộ không phải típ người mặn mòi với bà con gia tộc.
Nàng chui vào xe, chạy xuống thung lũng. Chuyến về coi bộ nàng thong thả, ít ra cho tới lúc rời khỏi hẳn thị trấn Mill Valley. Rồi tới một ngã tư, đèn đỏ, nàng tà tà chậm lại như mọi tài xế nghiêm túc khác. Một chiếc xe đã đậu sẵn ở đó chờ đèn xanh. Đột nhiên nàng nhấn ga, bẻ lái, cái xe vọt lên, chui vào khoảng trống giữa chiếc xe và lề đường, chồm tới và quẹo cua sang phải ngay lúc đèn đổi màu xanh.
Nick vọt theo, làm y hệt và hướng về phía Stinson. Hắn phải nhủ thầm là mình đang thi hành lệnh của Walker, đang thi hành công vụ theo lệnh cấp trên. Nhưng trong thâm tâm, dù không muốn thừa nhận, hắn cũng hiểu rõ rằng hắn rất muốn gặp lại Catherine Tramell.
Chiếc Lotus đã đậu trước nhà, như một con ngựa thong thả nằm nghỉ sau một cuộc dạo chơi. Hắn có cảm tưởng nàng điều khiển chiếc xe như một sinh vật sống chứ không phải một mớ sắt thép và cao su vô tri giác. Nàng tùy nghi khiến nó chồm lên, phóng đi bẻ cua hay đột nhiên ngừng lại. Cả cỗ máy dưới tay nàng cứ phập phồng với nhịp xăng chảy như là mạch máu.
Đêm đã xuống và hắn có thể nghe tiếng sóng vỗ vào những đập chắn phía sau nhà. Một cửa sổ tầng trên còn sáng đèn và có bóng Catherine đi ngang qua đó. Lát sau nàng tới đứng bên cửa sổ và nhìn ra. Hắn vội lẫn vào bóng tối, e rằng nàng đã nhìn thấy, nhưng nàng chỉ trầm tư nhìn ra xa, về phía biển, trầm tư.
Thong thả, nàng cởi nút áo chemise và đứng phơi ngực trần ở đó một vài giây. Rồi nàng kéo màn, bóng chìm sau lớp vải. Nick ở dưới, mắt mở lớn nhìn chăm chăm, căng thẳng lên khung cửa sổ, tai vẫn nghe rì rào sóng vỗ.bg-ssp-{height:px}
Rồi đèn tắt và hắn tưởng tượng cảnh nàng lặng lẽ chui vào giường.
Độ một tiếng sau hắn về tới San Francisco, mò vào sở và lặng lẽ bấm máy vi tính trong căn phòng vắng. Những ngón tay lướt trên bàn phím. Hắn đánh: Hazel Dobkins, trắng, nữ, đường Albion, Mill Valley. Rồi bấm nút "Enter", hắn chờ máy lục lọi hồ sơ.
Đầu tiên máy lục hồ sơ của Sở Cảnh sát San Francisco và hiện lên dòng chữ Nothing Known Against (Không có ghi nhận gì chống lại đương sự).
- Cụt cứt - Nick thở ra, tuy không ngạc nhiên lắm. Hazel Dobkins có cái tướng một bà ngoại thích nuôi mèo và làm bánh. Dễ gì có chuyên bà ấy bị phạt vi cảnh giao thông chứ đừng nói chuyện tiền án tiền sự.
Cái máy đang chờ lệnh Nick "Mẹ kiếp", hắn nhấn mật mã ra lệnh lục tàng thư hình sự của tiểu bang California và lại đánh tên tuổi, lai lịch Hazel Dobkins lần nữa. Đúng như hắn nghĩ, lần này máy hiện lên câu trả lời: Dobkins, Hazel, Nothing Current (Hiện không có gì). Dĩ nhiên "Hiện không có gì" đâu có nghĩa là "hoàn toàn không có gì".
Máy vẫn tiếp tục lục lọi rồi hiện lên những thông tin khác. Nick chợt nghe rúng động khi đọc thấy: Dobkins, Hazel, Phóng thích tháng , , Nhà tù San Quentin.
- Ái chà, Hazel - Hắn thầm thì, rồi lẹ làng ra lệnh moi hồ sơ việc tống giam bà ta, câu trả lời ngay tức khắc: Kết tội giết bốn nhân mạng, tháng , . Xử tháng , , Toà án tối cao San Francisco.
- Bốn mạng - Nick lầm bầm. Hắn rờ lên màn hình chỗ có những dòng chữ đó để tin rằng đó là sự thật.
- Không có chuyện gì làm sao mà vô đây vọc máy vậy? - một giọng nói vang lên sau lưng. Nghe giọng là biết ai, Nick không rời mắt khỏi màn hình, hắn hỏi:
- Còn ông làm gì ở đây?
Gus Moran ngồi xuống ghế cạnh Nick:
- Tao cũng định vào bấm máy như mày đây - Ông ta vỗ vai Nick - Chí lớn gặp nhau phải không?
- Tìm được gì ở Berkley không? - Nick không rời mắt khỏi màn hình.
- Làm quen với một mớ đồng nghiệp ở đó, đứng ngắm mấy em nữ sinh viên. Nhiều em đẹp mê hồn, Nick à!
- Quên đi, Gus. Các em trí tuệ hơn ông nhiều.
- Phải, nhưng dân lõi đời như tao có nhiều điều các em muốn học lắm.
- Còn ông thì tìm biết được gì?
- Tay giáo sư tâm lý đó là Tiến sĩ Noah Goldstein, bị đâm nhiều nhát tới chết, tháng /. Đoán ra cái gì không?
- Cô ta gây án hả?
- Không tìm ra thủ phạm, nhưng tiến sĩ Goldstein là giáo sư hướng dẫn Catherine Tramell.
- Cô ta hồi đó có bị tình nghi không?
- Không. Thậm chí cũng chẳng hỏi cung luôn. Không ai bị tình nghi cả, không ai thù oán gì với giáo sư. Không ai bị bắt. Tức là không có gì cả. Vụ án còn bỏ ngỏ. Nhưng cũng may là còn lai một manh mối.
- Cũng chẳng ăn thua gì nếu nó không nối được với vụ Johnny Boz.
Gus nghiêng cổ nhòm vào màn hình của Nick:
- Chúa ơi! Hazel Dobkins! Manh mối gì đây? - Ông ta nhìn Nick lắc đầu - Hay lắm. Tao hầu như sắp quên Hazel rồi.
- Biết bà này hả?
- Biết? Đâu có! Nhưng rất khó quên. Một bà nội trợ hiền lành, ba con nhỏ, một ông chồng không biết la cà đàng điếm, không nợ nần túng bấn. Không hề có tiền sử bệnh tâm thần, không gì cả.
- Rồi sao?
- Rồi một ngày kia bà ta thức dậy, đột nhiên nghĩ rằng phải làm sạch. Hết cả nhà, băng một cái ...
- Dao cạy đá? - Nick đoán mò.
- Từ từ mày. Một con dao khắc gỗ, quà tặng hồi đám cưới. Đầu tiên là làm ông chồng, xe nát ra như làm thịt gà. Rồi tới ba đứa con. Khi làm xong thì cái nhà coi như lò sát sinh.
- Trời ơi! - Nick thở ra.
- Trời đất chẳng dính gì tới vụ này cả. Sau khi làm xong, bà ta gọi cảnh sát. Họ tới thì bà ta còn ngồi đó trong phòng khách, dao đặt trên lòng. Không chối cãi, không có dấu điên, không gì cả.
- Nhưng tại sao? Tại sao lại làm thế?
- Đó là chuyện chẳng ai biết - Gus nhún vai - Chuyên gia tâm lý nào cũng chịu thua. Chỉ có Chúa biết. Hazel cũng không giải thích được. Bà ta chỉ nói là không hiểu sao mình làm thế.
- Không tin nổi.
- Vậy tại sao mày lại ngồi lục hồ sơ Hazel?
Nick kể vắn tắt lại chuyện truy ra mối quen biết giữa Catherine và Hazel Dobkins.
- Lạy Chúa - Gus kêu lên - Chơi với toàn thứ dữ không.