Thần trí Vân Tức đại nhân dần dần tỉnh táo cùng với sự phục sinh của thân thể. Cảnh tượng khi ông bị rơi xuống đây như hiện lên rõ nét, cánh cửa U Ngục dưới đáy hồ đột ngột mở ra, hồng y nữ đồng thét lên một tiếng chói tai, rồi bỗng nhiên đẩy ông xuống.
"Hãy chết đi! Vân Tức, ông hãy chết đi!"
Dường như bị ma quỷ nhập hồn, nữ đồng cười lạnh, trên gương mặt còn non trẻ ấy toát lên một vẻ điên cuồng, hiểm ác.
Trong cái giây phút rơi xuống, ông giơ tay ra định ôm lấy nó để kéo xuống cùng, nhưng, khi vừa chạm vào vạt váy đỏ kia, ông lại buông ra, bởi câu nói ấy lại văng vẳng bên tai:
"Vân Tức, ông hãy chết đi!"
Ông rơi xuống cái hồ đầy hồn ma này, bị truy cản, bị chìm xuống dưới đáy sâu. Khi đến Hồng Liên U Ngục, ông không ngờ lại được gặp một người - người con gái đang ngẩng đầu lên nhìn ông rơi xuống.
Cô gái ấy xem chừng không quá mười ba tuổi. Với ánh mắt sắc sảo của mình, dù là trong bóng tối, ông vẫn nhận ra sắc mặt cô gái trắng bệch đến lạ thường, chứng tỏ rằng đã bị nhốt ở đây từ lâu lắm.
Điều làm ông kinh ngạc là vừa nhìn thấy, cô gái đã nhận ra ông.
"Cô là ai?" Khi các cơ và mạch máu ở họng đã hoàn toàn khôi phục, ông thở một hơi rồi yếu ớt cất tiếng: "Tại sao lại ở đây?"
"Vân Tức đại nhân, ngài không nhận ra tôi nữa hay sao? Tôi là A Triệt đây mà!" Nàng trả lời với vẻ ngây thơ và nhiệt thành, giơ đôi tay nhỏ bé chạm vào người ông, nhưng lại sợ cái sợi dây kim loại có lời nguyền huyết chú kia, nàng ngẩng đầu nhìn lên kinh sợ: "Vân Tức dại nhân, ngài... sao ngài lại bị nhốt vào đây? Ai cả gan khiến ngài trở nên nông nỗi này?"
"A Triệt..." Viên Tế Tư chợt nhắm mắt lại.
Sau khi sư phụ Phong Nha qua đời, ông đã sống quãng đời rất dài, và cho đến tận ngày hôm này, nếu không nhờ vào việc dùng những suy nghĩ để che lấp đi cảnh tượng ở chốn nước mênh mông này, nếu cứ để cho những ký ức chồng chất lên nhau, thì chắc đầu ông sẽ nổ tung!
Nhưng, nhìn cái vết mờ mờ hình trăng khuyết màu vàng trên má cô gái, trong thoáng chốc ọng đã nhớ ra đang đứng trước mặt ông là ai, đó là vị Giáo chủ Bái Nguyệt thứ bảy do chính ông đã từng sắc lập.
Từ khi được Đỉnh Kiếm Hầu ở Trung Nguyên phong làm Đại Lý Vương, hợp nhất chính giáo, cả vùng Nam Cương này là thiên hạ của ông. Là một Tế Tư có quyền lực nhất từ trước đến giờ, ông đồng thời cũng là một Tế Tư bất tuân giáo lý nhất trong lịch sử hàng mấy trăm năm của Bái Nguyệt giáo.
Dưới sự lãnh đạo của ông, Bái Nguyệt giáo từ chỗ cách ly thoát tục trần gian, đã dần dần trở thành một đạo giáo cầm quyền thống trị. Sau đó, tình thể của Trung Nguyên lại có thay đổi lớn, khi vương triều Đại Tịnhh bị thay thế, Bái Nguyệt giáo bị chư hầu của Trung Nguyên là Nam Hạ chinh phạt, cuối cùng không thể không giao lại chính quyền, nơi đây trở lại là vùng cỏ hoang dã.
Đó là khó khăn lớn nhất mà Bái Nguyệt giáo phải trải qua kể từ khi đối mặt với Thính Tuyết Lâu hàng trăm năm trước.
Ông biết rằng các trưởng lão đã tỏ ý không hài lòng, nhưng không buồn bận tâm.
Không giống như những Tế Tư trước đó, ông không muốn chọn những người con gái ở trong trại làm thần nữa đãi nguyệt, mà thường thu nhận những đứa trẻ lưu lạc ở bên ngoài, dù là chúng có xuất thân hèn mọn đến đâu. Sau đó, nếu thấy bé gái nào thông minh lanh lợi, có thể lĩnh hội và nắm được pháp thuật của Bái Nguyệt giáo, ông sẽ phong làm Giáo chủ, đưa lên ngồi trên chiếc ghế ngọc cao quý, rồi vui sướng quan sát nhất cử nhất động của những cô búp bê xinh đẹp đó trước sự quỳ bái của muôn người.
Thế nhưng lòng kiên nhẫn của ông cũng có hạn, khi thấy không còn hứng thú, bất cứ lúc nào ông cũng có thể phế truất ngay mà không báo trước cho những vị Giáo chủ xinh đẹo đang lớn lên từng ngày đó, rồi tìm một bé gái khác thay thế.
Trong thời gian gần 100 năm, ông đã phế truất rất nhiều vị Giáo chủ.
Và trước mặt ông là một trong những Giáo chủ đó. Thần Triệt được ông nhặt về lúc ba tuổi, rồi được học pháp thuật của đạo giáo từ khi còn ngày chưa hiểu chuyện, và sau đó, giữa hai thần nữa đãi nguyệt là Thần Triệt và Phiêu Bích, ông đã chọn cô bé có đôi mắt to tròn, trong sáng này đưa lên ngồi chiếc ghế cao quý của Giáo chủ.
Cô bé không có họ, nhưng có đôi mắt sáng và trong vắt, vì thế ông đặt tên Triệt.
Khi bị ông phế truất, cô bé mới tám tuổi - lúc đó ông đã gặp Tiểu Diệp Tử, và phong nó lên làm Giáo chủ mới mà không mảy may do dự. Từ cái ngày mà ơng6 hạ lệnh phế truất ngôi vị Giáo chủ Bái Nguyệt cho đến nay, năm năm đã trôi qua, một đứa con gái bé nhỏ bị nhốt trong mật thất dưới đáy hồ, làm sao có thể vẫn còn sống sót?
"Trước đây, cô có hận ta không?" Bất giác có một cảm xúc kỳ lạ chợt ùa đến, khiến ông buột miệng hỏi.
"Dạ không... chỉ buồn một chút thôi. Tôi nghĩ, hẳn là mình có chỗ nào không phải, đã làm cho đại nhân giận..." Thần Triệt thoáng chút ngơ ngác, trong mắt vẫn còn ngập tràn nỗi đau." Nhưng giờ tôi đã hiểu ra, ở đây không có lý do tại sao cả, chỉ đơn giản là đại nhân không còn cần tôi nữa - cũng giống như cha tôi năm đó..."
"Vậy thì, hiện giờ, cô bắt đầu hận ta rồi phải không?" Ông hạ giọng hỏi tiếp.
Đứng giữa gian phòng đã giam cầm mình suốt năm năm trời, Thần Triệt ngẩng đầu về phía người đàn ông bị treo trên dây kim loại, nhìn người đã từng vứt bỏ mình - ánh mắt trong veo, trầm mặc hồi lâu - rồi khẽ lắc đầu.
Sau hôm đó, lại một khoảng thời gian rất dài trôi qua.
Hai năm, hay là ba năm?
Trong Hồng Liên U Ngục chỉ có hai người họ, hằng ngày ân thầm, lặng lẽ đối diện nhau. Tế Tư Vân Tức vốn không phải là người ưa nói nhiều, sau khi bị nhốt trong căn mật thất này lại càng ít cất tiếng hơn, dù rằng hằng ngày vẫn bị những hồn ma xông đến cắn xé da thịt, nhưng ông hầu như vẫn lặng im.
Mỗi lần như thế, Thần Triệt ngồi co mình lại ở một góc, sợ đến run lên, nhắm chặt mắt lại không dám nhìn.
Đó là lời huyết chú nào mà độc địa như vậy? Để cho người ta mỗi ngày đều phải chết một lần, rồi lại sống lại một lần?
Bất đắc dĩ, nàng trở thành người quan sát duy nhất cảnh tượng ấy, và với nàng, đó quả là một cực hình dã man. Thế nhưng, nàng vẫn cứ phải âm thầm chịu đựng. Và vì thế, ngày qua ngày, người sụp đổ trước chính là nàng.
"Cút đi, hay mau cút đi! Đứng có ăn thịt người nữa, không được ăn thịt người nữa!" Lúc này, nàng không thể chịu đựng nổi, chạy tới khua tay tứ phía, miệng gào thét, những mong có thể đuổi được lũ hồn ma ấy. Nàng cố hết sức lay động sợi dây kim loại, mặc cho trên đó tóe lên ánh lửa xanh làm cháy bỏng tay mình.
Mặc dù hằng ngày vẫn ra vào căn mật thất, song không biết vì lý do gì, những hồn ma đó ấy không bao giờ đụng đến nàng. Nhưng bây giờ thấy nàng có ý gây hấn trước, chúng lập tức xông đến, nhe những hàm răng hung hãn ra định cắn nàng! Đối mặt với gương mặt trắng dã của một hồn ma lao tới, nàng bỗng nhiên có một cảm giác quen thuộc đến kỳ lạ.
Nhưng không còn thời gian để nghĩ, nàng liền tay không chống lại lũ hồn mà độc ác kia!
Nàng nhanh chóng cảm thấy không còn khả năng chống đỡ được nữa. Trước mắt nàng, tất cả chỉ là một đám khói trắng xám mờ mịt. Những hồn ma kéo đến đông nghịt, chúng kêu gào, la hét, từng con một bay đến nhe những bộ răng trắng dã cắn vào vai nàng.
Nàng muốn vùng vẫy chống lại, nhưng chân tay sao không chịu nghe theo.
"Mau nhảy đi!" Bỗng nhiên nàng nghe có giọng nói khe khẽ bên tai, nhắc nàng: "Hãy nhãy lên là sẽ không sợ nữa!"
Anh nhi? Có phải là Anh nhi không? Nhưng nhảy thế nào đây? Nàng chỉ biết mỗi trò nhảy lò cò mà thôi.
"Nhảy đi!" Tiếng nói ấy lại vang lên, "Khi hoa đầu lâu nở, tất cả cõi âm sẽ cùng nhảy theo nàng!"
Nàng nhảy. Và rồi, không hiểu vì sao đám hỗn loạn ấy đã kết thúc.
Nàng chỉ còn nhớ rằng, có âm thanh răng rắc vang lên thật mau, tất cả những chiếc xương trắng trên đất bắt đầu nhảy theo nàng, tạo thành một thanh kiếm sắc nhọn đâm thẳng vào lũ hồn ma. Đám khói trắng xám kia nhạt dần, tan dần và rồi hoàn toàn biến mất.
"Bạch cốt chi vũ?" Vị Tế Tư từ trên chiếc dây kim loại chứng kiến toàn bộ cảnh tượng những hồn ma bị bi tiêu diệt hết với ánh mắt lạ kỳ và bí hiểm, một ý nghĩ chợt lóe lên, ông không khỏi ngạc nhiên trước người con gái bé nhỏ đó, miệng lẩm bẩm: "Hoa đầu lâu... cô ta biết cách chi phối hoa đầu lâu!"
Cùng với "Phệ hồn thuật" và "Phân huyết đại pháp", đây là một trong ba tà pháp của giáo, đã bị thất truyền từ khi Trầm Anh Giáo chủ qua đời. Trong ba tà pháp này, Phệ hồn là thuật để cướp đoạt sinh khí của người khác, Phân huyết là đại pháp để kêu gọi những hồn ma, chỉ duy có Hoa đâu lâu là thuật pháp tấn công, với sức hủy diệt có thể làm kinh động thế gian.
"Tôi chẳng biết hoa đầu lâu là gì cả..." Nàng mệt mỏi ngồi xuống đất, vứt thanh xương trắng khỏi tay, và cảm thấy mắt mình mờ đi, trắng xóa. "Tôi chỉ biết mỗi trò nhày lò cò, Anh nhi bảo tôi nhảy, thế là tôi nhảy..."
"Anh nhi?" Ánh mắt Vân Tức thoáng chốc dừng lại, sắc nhọn: "Cô nói 'Anh nhi'? Cô ta đang ở đâu?"
"Ơ, ông cũng biết Anh nhi ư?" Thần Triệt bỗng nhiên hứng thú trở lại, ngó nhìn xung quanh để tìm người bạn nhỏ hay ngồi trong góc tối của mình, nhưng không thấy, bèn ngạc nhiên, "Ban nãy còn ở đây mà, ngày nào cọ ấy cũng đến cho tôi ăn nấm - chẳng lẽ ông không nhìn thấy hay sao?"
Tế Tư khẽ lướt nhìn quanh, rồi im lặng.
Nếu là xuất hiện ngay tại đây, mà suốt thời gian qua ông không nhìn thấy, chứng tỏ rằng, chỉ có một cách giải thích, đó là pháp thuật của người đó cao siêu hơn ông!
Thế nhưng, cô ta lại không chịu ra mặt.
Trong Bái Nguyệt giáo này, có cao thủ bí ẩn nào mà lợi hại như thế? Trầm mặc hồi lâu, một vẻ gì khác thường ánh lên trong mắt Vân Tức, ông ta quay sang phía nàng, khẽ mỉm cười, và nhẹ nhàng nói: "A Triệt, lần sau khi Anh nhi đến, cô âm thầm ra hiệu chỉ cho ta nhé, được không?"
"Vâng!" Nàng vô tư gật đầu đồng ý, và vẫn còn thấy vui thích: "Vân Tức đại nhân cũng muốn gặp cô ấy ư?"
Vân Tức cười không thành tiếng. Đôi mắt màu xanh ánh lên đầy bí ẩn.
Vân Tức lại trầm tư, nhìn ngắm cô gái đang lớn lên trong bóng tối này, hồi lâu sau mới cất tiếng nói: "Cô rất giống ngày ấy... Một tâm hồn thật thuần khiết. Một ánh sáng thật dịu dàng."
"Giống ai cơ?" Lần đầu tiên trong đời nàng được nhận một lời khen, hơi ngượng ngùng, nhưng không thể kìm nổi tò mò.
"Đó là Giáo chủ thứ nhất, tên là Sa Mạn Hoa." Với ánh mắt sâu thẳm như vô tận, Vân Tức nhìn cô gái trước mặt như nhìn vào một khoảng không mênh mang rộng lớn, "Nhưng ta đã mất người con gái đó mãi mãi, từ rất lâu rồi."
Sau câu nói ấy, căn phòng tiếp tục chìm vào im lặng.
Trong không khí nặng nề ấy, Vân Tức cảm thấy thấp thỏm không yên, không biết phải làm sao trước thái độ bỗng mềm yếu của vị Tế Tư.
"Ngày trước sư phụ nói với ta, người trong lòng trống rỗng như ta, khó lòng mà kế tục được... cho đến 55 sau khi sư phụ qua đời, ta mới nhận ra là sư phụ nói đúng." Trong căn mật thất u tối, tiếng nói của vị Tế Tư tỏa lan, mang theo chút gì đó hư vô, xa thẳm, "Sư phụ đã qua đời bởi sự hoang vắng trong cõi lòng. Ta rất sợ mình cũng sẽ biến thành như thế... Vì thế bao nhiêu năm qua, ta đã không ngừng tìm kiếm - tìm kiếm người con gái giống như Sa Mạn Hoa... hoặc là giống như Tiểu Diệp Tử."
Thần Triệt quả thực không hiểu hết những gì Tế Tư đang nói, chỉ biết lắng nghe và nhìn một cách mơ hồ, đôi mắt vẫn thật sáng trong.
Thần trí Vân Tức đại nhân dần dần tỉnh táo cùng với sự phục sinh của thân thể. Cảnh tượng khi ông bị rơi xuống đây như hiện lên rõ nét, cánh cửa U Ngục dưới đáy hồ đột ngột mở ra, hồng y nữ đồng thét lên một tiếng chói tai, rồi bỗng nhiên đẩy ông xuống.
"Hãy chết đi! Vân Tức, ông hãy chết đi!"
Dường như bị ma quỷ nhập hồn, nữ đồng cười lạnh, trên gương mặt còn non trẻ ấy toát lên một vẻ điên cuồng, hiểm ác.
Trong cái giây phút rơi xuống, ông giơ tay ra định ôm lấy nó để kéo xuống cùng, nhưng, khi vừa chạm vào vạt váy đỏ kia, ông lại buông ra, bởi câu nói ấy lại văng vẳng bên tai:
"Vân Tức, ông hãy chết đi!"
Ông rơi xuống cái hồ đầy hồn ma này, bị truy cản, bị chìm xuống dưới đáy sâu. Khi đến Hồng Liên U Ngục, ông không ngờ lại được gặp một người - người con gái đang ngẩng đầu lên nhìn ông rơi xuống.
Cô gái ấy xem chừng không quá mười ba tuổi. Với ánh mắt sắc sảo của mình, dù là trong bóng tối, ông vẫn nhận ra sắc mặt cô gái trắng bệch đến lạ thường, chứng tỏ rằng đã bị nhốt ở đây từ lâu lắm.
Điều làm ông kinh ngạc là vừa nhìn thấy, cô gái đã nhận ra ông.
"Cô là ai?" Khi các cơ và mạch máu ở họng đã hoàn toàn khôi phục, ông thở một hơi rồi yếu ớt cất tiếng: "Tại sao lại ở đây?"
"Vân Tức đại nhân, ngài không nhận ra tôi nữa hay sao? Tôi là A Triệt đây mà!" Nàng trả lời với vẻ ngây thơ và nhiệt thành, giơ đôi tay nhỏ bé chạm vào người ông, nhưng lại sợ cái sợi dây kim loại có lời nguyền huyết chú kia, nàng ngẩng đầu nhìn lên kinh sợ: "Vân Tức dại nhân, ngài... sao ngài lại bị nhốt vào đây? Ai cả gan khiến ngài trở nên nông nỗi này?"
"A Triệt..." Viên Tế Tư chợt nhắm mắt lại.
Sau khi sư phụ Phong Nha qua đời, ông đã sống quãng đời rất dài, và cho đến tận ngày hôm này, nếu không nhờ vào việc dùng những suy nghĩ để che lấp đi cảnh tượng ở chốn nước mênh mông này, nếu cứ để cho những ký ức chồng chất lên nhau, thì chắc đầu ông sẽ nổ tung!
Nhưng, nhìn cái vết mờ mờ hình trăng khuyết màu vàng trên má cô gái, trong thoáng chốc ọng đã nhớ ra đang đứng trước mặt ông là ai, đó là vị Giáo chủ Bái Nguyệt thứ bảy do chính ông đã từng sắc lập.
Từ khi được Đỉnh Kiếm Hầu ở Trung Nguyên phong làm Đại Lý Vương, hợp nhất chính giáo, cả vùng Nam Cương này là thiên hạ của ông. Là một Tế Tư có quyền lực nhất từ trước đến giờ, ông đồng thời cũng là một Tế Tư bất tuân giáo lý nhất trong lịch sử hàng mấy trăm năm của Bái Nguyệt giáo.
Dưới sự lãnh đạo của ông, Bái Nguyệt giáo từ chỗ cách ly thoát tục trần gian, đã dần dần trở thành một đạo giáo cầm quyền thống trị. Sau đó, tình thể của Trung Nguyên lại có thay đổi lớn, khi vương triều Đại Tịnhh bị thay thế, Bái Nguyệt giáo bị chư hầu của Trung Nguyên là Nam Hạ chinh phạt, cuối cùng không thể không giao lại chính quyền, nơi đây trở lại là vùng cỏ hoang dã.
Đó là khó khăn lớn nhất mà Bái Nguyệt giáo phải trải qua kể từ khi đối mặt với Thính Tuyết Lâu hàng trăm năm trước.
Ông biết rằng các trưởng lão đã tỏ ý không hài lòng, nhưng không buồn bận tâm.
Không giống như những Tế Tư trước đó, ông không muốn chọn những người con gái ở trong trại làm thần nữa đãi nguyệt, mà thường thu nhận những đứa trẻ lưu lạc ở bên ngoài, dù là chúng có xuất thân hèn mọn đến đâu. Sau đó, nếu thấy bé gái nào thông minh lanh lợi, có thể lĩnh hội và nắm được pháp thuật của Bái Nguyệt giáo, ông sẽ phong làm Giáo chủ, đưa lên ngồi trên chiếc ghế ngọc cao quý, rồi vui sướng quan sát nhất cử nhất động của những cô búp bê xinh đẹp đó trước sự quỳ bái của muôn người.
Thế nhưng lòng kiên nhẫn của ông cũng có hạn, khi thấy không còn hứng thú, bất cứ lúc nào ông cũng có thể phế truất ngay mà không báo trước cho những vị Giáo chủ xinh đẹo đang lớn lên từng ngày đó, rồi tìm một bé gái khác thay thế.
Trong thời gian gần năm, ông đã phế truất rất nhiều vị Giáo chủ.
Và trước mặt ông là một trong những Giáo chủ đó. Thần Triệt được ông nhặt về lúc ba tuổi, rồi được học pháp thuật của đạo giáo từ khi còn ngày chưa hiểu chuyện, và sau đó, giữa hai thần nữa đãi nguyệt là Thần Triệt và Phiêu Bích, ông đã chọn cô bé có đôi mắt to tròn, trong sáng này đưa lên ngồi chiếc ghế cao quý của Giáo chủ.
Cô bé không có họ, nhưng có đôi mắt sáng và trong vắt, vì thế ông đặt tên Triệt.
Khi bị ông phế truất, cô bé mới tám tuổi - lúc đó ông đã gặp Tiểu Diệp Tử, và phong nó lên làm Giáo chủ mới mà không mảy may do dự. Từ cái ngày mà ơng hạ lệnh phế truất ngôi vị Giáo chủ Bái Nguyệt cho đến nay, năm năm đã trôi qua, một đứa con gái bé nhỏ bị nhốt trong mật thất dưới đáy hồ, làm sao có thể vẫn còn sống sót?
"Trước đây, cô có hận ta không?" Bất giác có một cảm xúc kỳ lạ chợt ùa đến, khiến ông buột miệng hỏi.
"Dạ không... chỉ buồn một chút thôi. Tôi nghĩ, hẳn là mình có chỗ nào không phải, đã làm cho đại nhân giận..." Thần Triệt thoáng chút ngơ ngác, trong mắt vẫn còn ngập tràn nỗi đau." Nhưng giờ tôi đã hiểu ra, ở đây không có lý do tại sao cả, chỉ đơn giản là đại nhân không còn cần tôi nữa - cũng giống như cha tôi năm đó..."
"Vậy thì, hiện giờ, cô bắt đầu hận ta rồi phải không?" Ông hạ giọng hỏi tiếp.
Đứng giữa gian phòng đã giam cầm mình suốt năm năm trời, Thần Triệt ngẩng đầu về phía người đàn ông bị treo trên dây kim loại, nhìn người đã từng vứt bỏ mình - ánh mắt trong veo, trầm mặc hồi lâu - rồi khẽ lắc đầu.
Sau hôm đó, lại một khoảng thời gian rất dài trôi qua.
Hai năm, hay là ba năm?
Trong Hồng Liên U Ngục chỉ có hai người họ, hằng ngày ân thầm, lặng lẽ đối diện nhau. Tế Tư Vân Tức vốn không phải là người ưa nói nhiều, sau khi bị nhốt trong căn mật thất này lại càng ít cất tiếng hơn, dù rằng hằng ngày vẫn bị những hồn ma xông đến cắn xé da thịt, nhưng ông hầu như vẫn lặng im.
Mỗi lần như thế, Thần Triệt ngồi co mình lại ở một góc, sợ đến run lên, nhắm chặt mắt lại không dám nhìn.
Đó là lời huyết chú nào mà độc địa như vậy? Để cho người ta mỗi ngày đều phải chết một lần, rồi lại sống lại một lần?
Bất đắc dĩ, nàng trở thành người quan sát duy nhất cảnh tượng ấy, và với nàng, đó quả là một cực hình dã man. Thế nhưng, nàng vẫn cứ phải âm thầm chịu đựng. Và vì thế, ngày qua ngày, người sụp đổ trước chính là nàng.
"Cút đi, hay mau cút đi! Đứng có ăn thịt người nữa, không được ăn thịt người nữa!" Lúc này, nàng không thể chịu đựng nổi, chạy tới khua tay tứ phía, miệng gào thét, những mong có thể đuổi được lũ hồn ma ấy. Nàng cố hết sức lay động sợi dây kim loại, mặc cho trên đó tóe lên ánh lửa xanh làm cháy bỏng tay mình.
Mặc dù hằng ngày vẫn ra vào căn mật thất, song không biết vì lý do gì, những hồn ma đó ấy không bao giờ đụng đến nàng. Nhưng bây giờ thấy nàng có ý gây hấn trước, chúng lập tức xông đến, nhe những hàm răng hung hãn ra định cắn nàng! Đối mặt với gương mặt trắng dã của một hồn ma lao tới, nàng bỗng nhiên có một cảm giác quen thuộc đến kỳ lạ.
Nhưng không còn thời gian để nghĩ, nàng liền tay không chống lại lũ hồn mà độc ác kia!
Nàng nhanh chóng cảm thấy không còn khả năng chống đỡ được nữa. Trước mắt nàng, tất cả chỉ là một đám khói trắng xám mờ mịt. Những hồn ma kéo đến đông nghịt, chúng kêu gào, la hét, từng con một bay đến nhe những bộ răng trắng dã cắn vào vai nàng.
Nàng muốn vùng vẫy chống lại, nhưng chân tay sao không chịu nghe theo.
"Mau nhảy đi!" Bỗng nhiên nàng nghe có giọng nói khe khẽ bên tai, nhắc nàng: "Hãy nhãy lên là sẽ không sợ nữa!"
Anh nhi? Có phải là Anh nhi không? Nhưng nhảy thế nào đây? Nàng chỉ biết mỗi trò nhảy lò cò mà thôi.
"Nhảy đi!" Tiếng nói ấy lại vang lên, "Khi hoa đầu lâu nở, tất cả cõi âm sẽ cùng nhảy theo nàng!"
Nàng nhảy. Và rồi, không hiểu vì sao đám hỗn loạn ấy đã kết thúc.
Nàng chỉ còn nhớ rằng, có âm thanh răng rắc vang lên thật mau, tất cả những chiếc xương trắng trên đất bắt đầu nhảy theo nàng, tạo thành một thanh kiếm sắc nhọn đâm thẳng vào lũ hồn ma. Đám khói trắng xám kia nhạt dần, tan dần và rồi hoàn toàn biến mất.
"Bạch cốt chi vũ?" Vị Tế Tư từ trên chiếc dây kim loại chứng kiến toàn bộ cảnh tượng những hồn ma bị bi tiêu diệt hết với ánh mắt lạ kỳ và bí hiểm, một ý nghĩ chợt lóe lên, ông không khỏi ngạc nhiên trước người con gái bé nhỏ đó, miệng lẩm bẩm: "Hoa đầu lâu... cô ta biết cách chi phối hoa đầu lâu!"
Cùng với "Phệ hồn thuật" và "Phân huyết đại pháp", đây là một trong ba tà pháp của giáo, đã bị thất truyền từ khi Trầm Anh Giáo chủ qua đời. Trong ba tà pháp này, Phệ hồn là thuật để cướp đoạt sinh khí của người khác, Phân huyết là đại pháp để kêu gọi những hồn ma, chỉ duy có Hoa đâu lâu là thuật pháp tấn công, với sức hủy diệt có thể làm kinh động thế gian.
"Tôi chẳng biết hoa đầu lâu là gì cả..." Nàng mệt mỏi ngồi xuống đất, vứt thanh xương trắng khỏi tay, và cảm thấy mắt mình mờ đi, trắng xóa. "Tôi chỉ biết mỗi trò nhày lò cò, Anh nhi bảo tôi nhảy, thế là tôi nhảy..."
"Anh nhi?" Ánh mắt Vân Tức thoáng chốc dừng lại, sắc nhọn: "Cô nói 'Anh nhi'? Cô ta đang ở đâu?"
"Ơ, ông cũng biết Anh nhi ư?" Thần Triệt bỗng nhiên hứng thú trở lại, ngó nhìn xung quanh để tìm người bạn nhỏ hay ngồi trong góc tối của mình, nhưng không thấy, bèn ngạc nhiên, "Ban nãy còn ở đây mà, ngày nào cọ ấy cũng đến cho tôi ăn nấm - chẳng lẽ ông không nhìn thấy hay sao?"
Tế Tư khẽ lướt nhìn quanh, rồi im lặng.
Nếu là xuất hiện ngay tại đây, mà suốt thời gian qua ông không nhìn thấy, chứng tỏ rằng, chỉ có một cách giải thích, đó là pháp thuật của người đó cao siêu hơn ông!
Thế nhưng, cô ta lại không chịu ra mặt.
Trong Bái Nguyệt giáo này, có cao thủ bí ẩn nào mà lợi hại như thế? Trầm mặc hồi lâu, một vẻ gì khác thường ánh lên trong mắt Vân Tức, ông ta quay sang phía nàng, khẽ mỉm cười, và nhẹ nhàng nói: "A Triệt, lần sau khi Anh nhi đến, cô âm thầm ra hiệu chỉ cho ta nhé, được không?"
"Vâng!" Nàng vô tư gật đầu đồng ý, và vẫn còn thấy vui thích: "Vân Tức đại nhân cũng muốn gặp cô ấy ư?"
Vân Tức cười không thành tiếng. Đôi mắt màu xanh ánh lên đầy bí ẩn.
Vân Tức lại trầm tư, nhìn ngắm cô gái đang lớn lên trong bóng tối này, hồi lâu sau mới cất tiếng nói: "Cô rất giống ngày ấy... Một tâm hồn thật thuần khiết. Một ánh sáng thật dịu dàng."
"Giống ai cơ?" Lần đầu tiên trong đời nàng được nhận một lời khen, hơi ngượng ngùng, nhưng không thể kìm nổi tò mò.
"Đó là Giáo chủ thứ nhất, tên là Sa Mạn Hoa." Với ánh mắt sâu thẳm như vô tận, Vân Tức nhìn cô gái trước mặt như nhìn vào một khoảng không mênh mang rộng lớn, "Nhưng ta đã mất người con gái đó mãi mãi, từ rất lâu rồi."
Sau câu nói ấy, căn phòng tiếp tục chìm vào im lặng.
Trong không khí nặng nề ấy, Vân Tức cảm thấy thấp thỏm không yên, không biết phải làm sao trước thái độ bỗng mềm yếu của vị Tế Tư.
"Ngày trước sư phụ nói với ta, người trong lòng trống rỗng như ta, khó lòng mà kế tục được... cho đến sau khi sư phụ qua đời, ta mới nhận ra là sư phụ nói đúng." Trong căn mật thất u tối, tiếng nói của vị Tế Tư tỏa lan, mang theo chút gì đó hư vô, xa thẳm, "Sư phụ đã qua đời bởi sự hoang vắng trong cõi lòng. Ta rất sợ mình cũng sẽ biến thành như thế... Vì thế bao nhiêu năm qua, ta đã không ngừng tìm kiếm - tìm kiếm người con gái giống như Sa Mạn Hoa... hoặc là giống như Tiểu Diệp Tử."
Thần Triệt quả thực không hiểu hết những gì Tế Tư đang nói, chỉ biết lắng nghe và nhìn một cách mơ hồ, đôi mắt vẫn thật sáng trong.