Đêm rằm tháng bảy, trắng sáng vằng vặc, tỏa ánh sáng bàng bạc bao trùm lấy không gian.
Phù Nam nắm chặt lấy thanh kiếm trong tay, cảm thấy nó đang rung lên khe khẽ, phát ra những âm thanh nho nhỏ - thanh Khước Tà kiếm của chàng vốn dĩ rất bình tĩnh, vậy mà đêm nay lại không chịu ở yên như thế, có phải là ngầm báo rằng trước mặt là một thế lực tà đạo vô cùng lợi hại?
Đứa trẻ ngồi trên lưng Thần Triệt, bàn tay nhỏ nắm chặt lấy sau gáy nàng. Nó chỉ có một tay, và một nửa mặt. Trong bóng đêm, mắt nó sáng quắc, chốc chốc lại nhìn Phù Nam.
Phù Nam thở nhẹ không ra tiếng - bên má trái của nó có một vầng trăng khuyết màu vàng, là dấu hiệu của Bái Nguyệt Giáo chủ!
"Ngươi là ai?" Phù Nam không giấu nổi vẻ xúc động, "Ngươi là người trong giáo?"
"Ha ha... thân thể tàn phế trên lưng Thần Triệt ngẩng đầu lên cười, ngón tay bám càng chặt hơn.
Dưới bàn tay ấy, dường như có một sợi dây vô hình nào đó điều khiển, Thần Triệt đột nhiên giơ tay lên, thanh Bạch Cốt chĩa thẳng về phía Phù Nam.
"Không làm Tế Tư, để ngươi sống cũng vô ích!" Thần Triệt mở miệng nói câu nói ấy mà ánh mắt vẫn thản nhiên. Thân thủ của nàng nhanh nhẹn như ma quỷ, thảo nào ban nãy chẳng cần thủ thế, trong chớp mắt đã có thể nhảy từ hiên nhà lên cành cây dẻ ngựa một cách nhẹ nhàng.
"Keeng", Phù Nam giơ thanh kiếm lên đỡ lấy mũi Bạch Cốt, điểm chân trên cành cây dẻ ngựa và nhanh chóng lùi một bước.
Trong chốc lát, Phù Nam cảm thấy tà khí tỏa ra mạnh mẽ khiến chàng như muốn nghẹt thở. Phù Nam nhanh chóng cố gắng lấy lại tinh thần, không nhìn vào mắt của đứa trẻ đó nữa, mà tập trung vào đối phó với mỗu nhát kiếm trên tay của Thần Triệt. Dù có di chuyển thế nào thì bước chân của Phù Nam vẫn không rời khỏi phạm vi của hai cây dẻ ngựa, đầu ngón chân điểm lên cành và lá cây trong từng bước nhảy.
Theo truyền thuyết của Bái Nguyệt giáo, dẻ ngựa là loài cây thần thánh, có thể ngăn được âm tà độc khí.
Vì thế, Phù Nam đã trồng trước cửa nhà hai cây ddẻ ngựa, và cũng vì thế, loài Mạn Châu Sa từ khu mộ cũng không thể mọc sát đến đây.
Xem ra đêm nay Phù Nam không thể không xuất kiếm!
Phù Nam điểm chân trên những cành cây dẻ ngựa, tránh từng nhát kiếm, từ chỗ chỉ cố đỡ gạt đã dần phản công, và rồi khi thanh Bạch Cốt đâm thẳng tới, một luồng sáng chợt lóe lên - Khước Tà kiếm của chàng vung lên đầy sức mạnh.
Bị bất ngờ đánh lại không kịp đề phòng, hổ khẩu Thần Triệt rách toạc, từng giọt máu của ròng ròng chảy ra.
Những tưởng rằng Thần Triệt sẽ buộc phải buông kiếm xuống, nhưng thật không ngờ, nàng dười như không hề cảm thấy đau đớn.
Trong thoáng chốc Phù Nam hiểu rằng, quan trọng là phải đối phó đứa trẻ trên lưng Thần Triệt. Và nếu để cho nó rơi xuống mặt đất, nó sẽ nhanh chóng hút âm khí trong đất và trở nên đáng sợ đến khôn lường.
Do đó, Phù Nam cố hết sức khống chế cuộc chiến trên hai cây dẻ ngựa.
Thế nhưng, dù Phù Nam có nhanh nhẹn đến đâu thì phạm vi hai cây dẻ ngựa cũng có hạn. Cùng với những sát chiêu của thanh Bạch Cốt, hai cay dẻ ngựa ban đầu rậm rạp là thế, chẳng mấy chốc đã rơi rụng, điêu tàn. Hầu hết các cành cây đều bị chặt gẫy, chỉ còn trơ lại chiếc thân khô.
"Xoạt" một tiếng, chiếc tổ chim được làm rất cẩn thận từ trên cao rớt xuống.
"Quạ..." Nhìn thấy tổ của mình bị rơi xuống mặt đất tan tành, chú quạ Nha Nha kêu lên giận dữ, bất chấp nguy hiểm xông lên chĩa thẳng mỏ vào con mắt đen nhánh của đứa trẻ, và lấy hết sức mổ mạnh.
Đương nhiên không thể ngờ đến sự tấn công này, đứa trẻ lộ vẻ sợ hãi, vội vàng dùng kiếm ngăn lại. Thế nhưng do mới ở trên thân của Thần Triệt chưa được một ngày, nên động tác chưa được thuần thục, thế công trong thoáng chốc đã lộ sơ hở.
"Đi!" Phù Nam bất chợt vung tay, thanh kiếm bay lên như một chiếc cầu vồng không trung, lao vòng ra sau lưng và đâm vào phía sau đầu đứa trẻ.
"Cộp" một tiếng, ánh sáng trắng đó lại bay trở lại và nằm gọn trong tay Phù Nam.
Phù Nam điểm chân lên cành dẻ ngựa cuối cùng. Khi thu kiếm, chàng cũng thấy người mình chấn động, chao đảo một lúc mới đứng yên được, có thể là do phải chịu lực phản chấn. Thế nhưng, lúc này toàn thân Thần Triệt đã bất động, thanh Bạch Cột buông xuống, trên mũi kiếm xuất hiện một vết khuyết.
"Ngự kiếm thuật?" Đứa trẻ thoáng giật mình, thốt lên, "Ngươi... môn hạ của Trầm Sa cốc bạch đế?"
Dù đã ngăn cản được đòn tấn công của đối phương, nhưng gương mặt Phù Nam cũng đã trở nên trắng bệch, hồi lâu sau mới thở một hơi dài, khẽ gật đầu và lẩm nhẩm: "Hải thiên long chiến huyết huyền hoàng..."
Câu nói chưa dứt thì sắc mặt đứa trẻ đã có sự biến đổi rõ rệt, không dám quấy rầy Phù Nam nữa, trong thoáng chốc nhảy xuống đất và bỏ đi.
May nhờ có nhát kiếm cùng nửa bài vè đó, Phù Nam đã đánh đuổi được tà mà. Thực ra, nếu nhờ vào thuật Ngự kiếm học được dở dang đó, chàng không phải là đối thủ của đứa trẻ ma quái kia - đây chẳng qua chỉ là chiêu kiếm mà có lần vô tình di qua Trầm Sa cốc chàng đã phần nào lĩnh hội. Nếu cứ tiếp tục chiến đấu thì chắc chàng khó còn sống sau hai mươi chiêu nữa.
Nhớ lại thân thủ như ma quỷ của đứa trẻ, cùng với thanh Bạch Cốt, Phù Nam khẽ rùng mình: "Là Trầm Anh Giáo chủ!"
Một trăm năm qua, thanh Bạch Cốt đã bị thất tung. Nhưng Phù Nam còn nhớ rõ, trong ghi chép của giáo, vị Giáo chủ cuối cùng sử dụng nó là Trầm Anh Giáo chủ!
Ba trăm năm trước, vị Tế Tư lúc đó là Già Nhược đã liều mình nhốt quỷ bên trong người, sẵn sàng chấp nhận trả giá đắt là vĩnh viễn ở dưới đáy sâu, tháo hết nước Thánh hồ để đưa tất cả hồn ma ác quỷ vượt sang bờ bên kia - thuật pháp chống lại ma quỷ cũng từ đó mà biến mất trong toàn giáo.
Một trăm năm sau, trong giáo nổi lên một thiên tài về thuật pháp tên là Trầm Anh. Khi đã nắm được tất cả các thuật pháp lưu truyền lại trong dân gian, Trầm Anh tiếp tục vào "Tri Kiến chướng" - giới hạn tối cao của người tu tập. Sự truy cầu pháp thuật của Trầm Anh Giáo chủ không bao giờ cạn, nhưng trên thực tế, sức mạnh con người là có hạn, thường khó lòng có thể đắc khuy thiên đạo.
Sau mười năm đóng cửa tu luyện mà vẫn chưa thể vượt qua được "chướng". Trầm Anh quyết định làm theo phương pháp "Huyết tế" thần bí lưu truyền thượng cổ, đó là dùng chính thân thể của mình để đổi lấy sức mạnh.
Một đêm nguyệt thực, sau khi tắm rửa, thay y phục trước sự chứng kiến của Nguyệt thần, Trầm Anh Giáo chủ đối lửa tự thiêu mặt mình, rồi rút dao chém đứt một tay, một chân. Giáo chủ đã hiến mắt, tai, mũi, tay, chân, dung mạo tuyệt đẹp và cả thân thể đang độ thanh xuân của mình. Với cái giá quá đắt đỏ, cuối cùng giáo chủ cũng vượt qua được chướng của bản thân.
Sau khi đã đạt được sức mạnh siêu phàm, tính cách của Trầm Anh Giáo chủ bỗng nhiên đổi khác.
Trầm Anh trở nên tàn ác và độc đoán, bất chấp sự phản đối của Tế Tư Thương Minh và các trưởng lão, đã dùng Thánh hồ làm nơi nuôi dưỡng các linh hồn ma quỷ, với mục đích dựa vào âm khí trời đất nơi đây khống chế được nhiều sức mạnh hơn.
Rồi đến một ngày, như một điều khó tránh khỏi, giữa Giáo chủ Trầm Anh và Tế Tư Thương minh đã xảy ra một cuộc quyết chiến. Kết quả là, vị Tế Tư đã phải chết dưới mũi kiếm Bạch Cốt của chính người mà ông đã dạy dỗ pháp thuật suốt bao năm qua, và rồi bị ném xuống đáy Thánh hồ.
Khi đã ở đỉnh cao của quyền lực, tâm hồn của Trầm Anh Giáo chủ càng ngày càng trở nên khô cằn và độc ác, đến mức không thể không lấy việc tàn sát để đổi lấy sự bình yên trong lòng.
Dù thế lực đen tối đã ăn sâu vào tim, nhưng Trầm Anh vẫn còn đủ tỉnh táo để nhận ra những gì đang xảy ra với mình: "Bên trong cơ thể ta có ma quỷ!"
Một ngày kia, Trầm Anh đã ra tay giết hại người tì nữ thân cận nhất đã theo mình suốt hơn mười năm. Khi tỉnh lại, nhìn thấy đôi bàn tay đẫm máu, Giáo chủ như đã hiểu ra những việc mình làm, mặt biến sắc trắng bệch, "Bên trong ta có ma quỷ! Yểm quỷ đang lớn dần... nó sắp thoát ra... phải làm sao đây?"
Những người xung quanh nghe thấy thế, không ai không hoảng sợ.
Trong Bái Nguyệt giáo, "Yểm quỷ" là thế lực ma quái đối lập với Nguyệt thần, có pháp lực cao cường.
Truyền thuyết kể rằng,Yểm quỷ đẻ trứng trong không gian, ban đầu trứng chỉ nhỏ hơn lỗ chân lông, theo gió phiêu bạt khắp mọi nơi, hễ gặp người có tư chất phù hợp và có âm ảnh ẩn chứa trong lòng, lập tức sẽ nhập vào - và rồi ra đời ngay chính trong trái tim của người đó. Nó sống ký sinh trong cơ thể người, lấy nội tạng làm thức ăn, cho đến khi ăn hết cơ thể đó thì sẽ bay ra và tìm mục tiêu tiếp theo.
Yểm quỷ có thể tìm thấy rất nhiều đối tượng để nhập vào, bởi sức mạnh của nó là phần đen tối trong tâm hồn mỗi con người, vì thế sẽ không bao giờ bị hủy diệt. Theo truyền thuyết, cứ sau một trăm năm, sức mạnh của nó lại đạt đến mức tuyệt đỉnh, trở nên điên cuồng hơn bao giờ hết, thậm chí có thể nuốt chửng cả mặt trăng, để trời đất hoàn toàn chìm trong bóng đêm.
Ngày hôm đó bị gọi là "Diệt thiên chi khước" của Bái Nguyệt giáo.
Đã một trăm năm nữa qua đi... Bởi lòng khao khát sức mạnh đến cực độ, Trầm Anh đã khiến thế lực đen tối trong lòng mình lớn lên, nước Thánh hồ đã cạm khô giờ lại được đổ đầy, còn ma quỷ, cũng đang dần dần phục sinh trong tâm hồn con người!
Thế nhưng, trong khi càng ngày càng không thể khống chế nổi bản thân, Trầm Anh vẫn còn giữ được một chút tỉnh táo cuối cùng.
Một đêm trước khi ngày đại kiếp như lời dự báo xảy ra, vị Giáo chủ mạnh nhất trong lịch sử Bái Nguyệt giáo đã tự mình đốt hương, khoác lên bộ y phục trắng, rồi gieo mình xuống Thánh hồ - Trầm Anh đã làm theo cách mà vị Tế Tư Già Nhược đã làm trước kia - lấy thân mình để dẫn độ tất cả những hồn ma quỷ ác.
Trước khi nhảy xuống hồ, Trầm Anh Giáo chủ đã cắt máu thề, chừng nào linh hồn ma quỷ vẫn còn, thì sẽ không bao giờ quay trở lại.
Trầm Anh đã nhốt ma quỷ trong tim, để rồi gieo mình xuống dưới đáy hồ mãi mãi.
Suốt một trăm năm qua, hầu hết mọi người đều đã lãng quên, thậm chí còn hoài nghi tính chân thực của câu chuyện này.
Thế nhưng, giờ đây, Giáo chủ Trầm Anh của một trăm năm về trứơc đã nương vào thân thể người khác để bất ngờ xuất hiện trên trần gian!
Quay trở vào căn nhà, Phù Nam ngồi xuống băng bó vết thương, rồi lấy cái tráp để trên ô cửa sổ xuống và mở ra. Bên trên lớp vài nhung đỏ là ba cành cỏ Linh chi bảy lá tỏa ánh sáng lung ling và mùi hương thơm ngát.
Ling chi bảy lá là loài cỏ chỉ sống ở những nơi có nhiều âm khí, lớn lên nhờ hấp thu nước ở chốn hoàng tuyền, không cần ánh sáng mặt trời, và làm bạn với những linh hồn cõi âm.
Núi Linh Tựu mặc dù được coi là nơi tích tụ nhiều âm khí của trời đất, nhưng cũng chỉ ở dưới Thánh hồ mới có thể trồng được loài cỏ Linh chi này. Dưới Thánh hồ đầy những hồn ma kêu gào, vì thế việc xuống hồ hái Linh chi quả là vô cùng khó khăn và nguy hiểm, dường như mỗi cành Linh chi đó được đổi bằng sinh mạng của bao nhiêu người.
Vậy mà năm nào cũng vậy, cứ đến rằm tháng bảy là Nguyệt cung lại sai người xuống núi gửi thứ cỏ quý này cho Phù Nam, nói rằng đó là quà của Lưu Quang - thực ra Phù Nam nghĩ đây chính là lời cảnh cáo của Thiên Trúc Giáo chủ, rằng Lưu Quang đang ở trong tay ả, tốt nhất là đừng có ngông cuồng manh động.
Phù Nam vẫn không khỏi thẫn thờ khi nghĩ lại những chuyện đã qua. Chàng gõ gõ ngón tay lên thanh Khước Tà, lắng nghe những tiếng gõ đó, sắc mặt mỗi lúc một nặng trĩu. Chàng đứng một mình bên cửa sổ, trầm mặc nhìn về phía ngọn núi Linh Tựu dưới ánh trăng đêm, ánh mắt lóe lên những tia sáng.
Đằng xa kia, Mạn Châu Sa mọc tràn lan vây quanh chân núi, đó rực cả một vùng, tựa hồ một ngọn núi lửa đang bốc lên mạnh mẽ.
Trăng đêm rằm tròn vành vạnh, núi Linh Tựu cao vút tận chân mây. Trên đỉnh núi, Nguyệt cung như đang đắm mình dưới ánh trăng, tỏa ra thứ ánh sáng như không thuộc trần thế.
Lưu Quang, Lưu Quang đang ở trên đó... Đã ba năm kể từ ngày xảy ra đoạt cung chi biến, Phù Nam không được gặp lại sư huynh của mình, mặc dù rằm tháng bảy hằng năm đều đặn nhận được quà và thư của Lưu Quang. Thiên Trúc Giáo chủ, kẻ mãi mãi trong dáng vẻ nữ đồng ấy, là kẻ lòng lang dạ sói, Lưu Quang ngay từ đầu đã không chịu khuất phục, nay ở trong tay ả, không biết phải chịu những cực hình dã man đến thế nào...
Bây giờ, Trầm Anh Giáo chủ lại thao túng Thần Triệt và đang xông vào Nguyệt cung, không biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Đôi mắt to tròn, trong sáng ngày nào lại hiện ra rõ nét trong ký ức Phù Nam... thật ngây thơ và thánh thiện! Tám năm... tám năm trước đây, chàng đã giương mắt nhìn cánh cửa Hồng Liên U Ngục đóng lại mà không dám ra tay cứu giúp.
Suốt bao năm qua, chàng đã sống trong sự nhẫn nhịn, cô đơn và tẻ nhạt. Cuộc sống như thế, có khác là mấy so với cái chết?
Ba năm trước chàng đã thề sẽ không đặt chân vào Nguyệt cung, dù chỉ là nửa bước. Thế nhưng hôm nay, chàng quyết định sẽ mang kiếm lên núi.
Lưu Quang ở trên núi, A Triệt cũng vậy... Những người mà chàng quan tâm đều đang ở trên đó! Dẫu biết rằng, Nguyệt cung vốn là nơi đã cả gan mạo phạm thì tất phải trả bằng tính mạng, thế nhưng, có điều gì là đáng sợ cơ chứ?
Bên ngoài, trăng đêm lạnh lẽo và u tịch. Mạn Châu Sa nở rộ dưới ánh trăng, như thắp lên những ngọn lửa.
Đêm rằm tháng bảy, trắng sáng vằng vặc, tỏa ánh sáng bàng bạc bao trùm lấy không gian.
Phù Nam nắm chặt lấy thanh kiếm trong tay, cảm thấy nó đang rung lên khe khẽ, phát ra những âm thanh nho nhỏ - thanh Khước Tà kiếm của chàng vốn dĩ rất bình tĩnh, vậy mà đêm nay lại không chịu ở yên như thế, có phải là ngầm báo rằng trước mặt là một thế lực tà đạo vô cùng lợi hại?
Đứa trẻ ngồi trên lưng Thần Triệt, bàn tay nhỏ nắm chặt lấy sau gáy nàng. Nó chỉ có một tay, và một nửa mặt. Trong bóng đêm, mắt nó sáng quắc, chốc chốc lại nhìn Phù Nam.
Phù Nam thở nhẹ không ra tiếng - bên má trái của nó có một vầng trăng khuyết màu vàng, là dấu hiệu của Bái Nguyệt Giáo chủ!
"Ngươi là ai?" Phù Nam không giấu nổi vẻ xúc động, "Ngươi là người trong giáo?"
"Ha ha... thân thể tàn phế trên lưng Thần Triệt ngẩng đầu lên cười, ngón tay bám càng chặt hơn.
Dưới bàn tay ấy, dường như có một sợi dây vô hình nào đó điều khiển, Thần Triệt đột nhiên giơ tay lên, thanh Bạch Cốt chĩa thẳng về phía Phù Nam.
"Không làm Tế Tư, để ngươi sống cũng vô ích!" Thần Triệt mở miệng nói câu nói ấy mà ánh mắt vẫn thản nhiên. Thân thủ của nàng nhanh nhẹn như ma quỷ, thảo nào ban nãy chẳng cần thủ thế, trong chớp mắt đã có thể nhảy từ hiên nhà lên cành cây dẻ ngựa một cách nhẹ nhàng.
"Keeng", Phù Nam giơ thanh kiếm lên đỡ lấy mũi Bạch Cốt, điểm chân trên cành cây dẻ ngựa và nhanh chóng lùi một bước.
Trong chốc lát, Phù Nam cảm thấy tà khí tỏa ra mạnh mẽ khiến chàng như muốn nghẹt thở. Phù Nam nhanh chóng cố gắng lấy lại tinh thần, không nhìn vào mắt của đứa trẻ đó nữa, mà tập trung vào đối phó với mỗu nhát kiếm trên tay của Thần Triệt. Dù có di chuyển thế nào thì bước chân của Phù Nam vẫn không rời khỏi phạm vi của hai cây dẻ ngựa, đầu ngón chân điểm lên cành và lá cây trong từng bước nhảy.
Theo truyền thuyết của Bái Nguyệt giáo, dẻ ngựa là loài cây thần thánh, có thể ngăn được âm tà độc khí.
Vì thế, Phù Nam đã trồng trước cửa nhà hai cây ddẻ ngựa, và cũng vì thế, loài Mạn Châu Sa từ khu mộ cũng không thể mọc sát đến đây.
Xem ra đêm nay Phù Nam không thể không xuất kiếm!
Phù Nam điểm chân trên những cành cây dẻ ngựa, tránh từng nhát kiếm, từ chỗ chỉ cố đỡ gạt đã dần phản công, và rồi khi thanh Bạch Cốt đâm thẳng tới, một luồng sáng chợt lóe lên - Khước Tà kiếm của chàng vung lên đầy sức mạnh.
Bị bất ngờ đánh lại không kịp đề phòng, hổ khẩu Thần Triệt rách toạc, từng giọt máu của ròng ròng chảy ra.
Những tưởng rằng Thần Triệt sẽ buộc phải buông kiếm xuống, nhưng thật không ngờ, nàng dười như không hề cảm thấy đau đớn.
Trong thoáng chốc Phù Nam hiểu rằng, quan trọng là phải đối phó đứa trẻ trên lưng Thần Triệt. Và nếu để cho nó rơi xuống mặt đất, nó sẽ nhanh chóng hút âm khí trong đất và trở nên đáng sợ đến khôn lường.
Do đó, Phù Nam cố hết sức khống chế cuộc chiến trên hai cây dẻ ngựa.
Thế nhưng, dù Phù Nam có nhanh nhẹn đến đâu thì phạm vi hai cây dẻ ngựa cũng có hạn. Cùng với những sát chiêu của thanh Bạch Cốt, hai cay dẻ ngựa ban đầu rậm rạp là thế, chẳng mấy chốc đã rơi rụng, điêu tàn. Hầu hết các cành cây đều bị chặt gẫy, chỉ còn trơ lại chiếc thân khô.
"Xoạt" một tiếng, chiếc tổ chim được làm rất cẩn thận từ trên cao rớt xuống.
"Quạ..." Nhìn thấy tổ của mình bị rơi xuống mặt đất tan tành, chú quạ Nha Nha kêu lên giận dữ, bất chấp nguy hiểm xông lên chĩa thẳng mỏ vào con mắt đen nhánh của đứa trẻ, và lấy hết sức mổ mạnh.
Đương nhiên không thể ngờ đến sự tấn công này, đứa trẻ lộ vẻ sợ hãi, vội vàng dùng kiếm ngăn lại. Thế nhưng do mới ở trên thân của Thần Triệt chưa được một ngày, nên động tác chưa được thuần thục, thế công trong thoáng chốc đã lộ sơ hở.
"Đi!" Phù Nam bất chợt vung tay, thanh kiếm bay lên như một chiếc cầu vồng không trung, lao vòng ra sau lưng và đâm vào phía sau đầu đứa trẻ.
"Cộp" một tiếng, ánh sáng trắng đó lại bay trở lại và nằm gọn trong tay Phù Nam.
Phù Nam điểm chân lên cành dẻ ngựa cuối cùng. Khi thu kiếm, chàng cũng thấy người mình chấn động, chao đảo một lúc mới đứng yên được, có thể là do phải chịu lực phản chấn. Thế nhưng, lúc này toàn thân Thần Triệt đã bất động, thanh Bạch Cột buông xuống, trên mũi kiếm xuất hiện một vết khuyết.
"Ngự kiếm thuật?" Đứa trẻ thoáng giật mình, thốt lên, "Ngươi... môn hạ của Trầm Sa cốc bạch đế?"
Dù đã ngăn cản được đòn tấn công của đối phương, nhưng gương mặt Phù Nam cũng đã trở nên trắng bệch, hồi lâu sau mới thở một hơi dài, khẽ gật đầu và lẩm nhẩm: "Hải thiên long chiến huyết huyền hoàng..."
Câu nói chưa dứt thì sắc mặt đứa trẻ đã có sự biến đổi rõ rệt, không dám quấy rầy Phù Nam nữa, trong thoáng chốc nhảy xuống đất và bỏ đi.
May nhờ có nhát kiếm cùng nửa bài vè đó, Phù Nam đã đánh đuổi được tà mà. Thực ra, nếu nhờ vào thuật Ngự kiếm học được dở dang đó, chàng không phải là đối thủ của đứa trẻ ma quái kia - đây chẳng qua chỉ là chiêu kiếm mà có lần vô tình di qua Trầm Sa cốc chàng đã phần nào lĩnh hội. Nếu cứ tiếp tục chiến đấu thì chắc chàng khó còn sống sau hai mươi chiêu nữa.
Nhớ lại thân thủ như ma quỷ của đứa trẻ, cùng với thanh Bạch Cốt, Phù Nam khẽ rùng mình: "Là Trầm Anh Giáo chủ!"
Một trăm năm qua, thanh Bạch Cốt đã bị thất tung. Nhưng Phù Nam còn nhớ rõ, trong ghi chép của giáo, vị Giáo chủ cuối cùng sử dụng nó là Trầm Anh Giáo chủ!
Ba trăm năm trước, vị Tế Tư lúc đó là Già Nhược đã liều mình nhốt quỷ bên trong người, sẵn sàng chấp nhận trả giá đắt là vĩnh viễn ở dưới đáy sâu, tháo hết nước Thánh hồ để đưa tất cả hồn ma ác quỷ vượt sang bờ bên kia - thuật pháp chống lại ma quỷ cũng từ đó mà biến mất trong toàn giáo.
Một trăm năm sau, trong giáo nổi lên một thiên tài về thuật pháp tên là Trầm Anh. Khi đã nắm được tất cả các thuật pháp lưu truyền lại trong dân gian, Trầm Anh tiếp tục vào "Tri Kiến chướng" - giới hạn tối cao của người tu tập. Sự truy cầu pháp thuật của Trầm Anh Giáo chủ không bao giờ cạn, nhưng trên thực tế, sức mạnh con người là có hạn, thường khó lòng có thể đắc khuy thiên đạo.
Sau mười năm đóng cửa tu luyện mà vẫn chưa thể vượt qua được "chướng". Trầm Anh quyết định làm theo phương pháp "Huyết tế" thần bí lưu truyền thượng cổ, đó là dùng chính thân thể của mình để đổi lấy sức mạnh.
Một đêm nguyệt thực, sau khi tắm rửa, thay y phục trước sự chứng kiến của Nguyệt thần, Trầm Anh Giáo chủ đối lửa tự thiêu mặt mình, rồi rút dao chém đứt một tay, một chân. Giáo chủ đã hiến mắt, tai, mũi, tay, chân, dung mạo tuyệt đẹp và cả thân thể đang độ thanh xuân của mình. Với cái giá quá đắt đỏ, cuối cùng giáo chủ cũng vượt qua được chướng của bản thân.
Sau khi đã đạt được sức mạnh siêu phàm, tính cách của Trầm Anh Giáo chủ bỗng nhiên đổi khác.
Trầm Anh trở nên tàn ác và độc đoán, bất chấp sự phản đối của Tế Tư Thương Minh và các trưởng lão, đã dùng Thánh hồ làm nơi nuôi dưỡng các linh hồn ma quỷ, với mục đích dựa vào âm khí trời đất nơi đây khống chế được nhiều sức mạnh hơn.
Rồi đến một ngày, như một điều khó tránh khỏi, giữa Giáo chủ Trầm Anh và Tế Tư Thương minh đã xảy ra một cuộc quyết chiến. Kết quả là, vị Tế Tư đã phải chết dưới mũi kiếm Bạch Cốt của chính người mà ông đã dạy dỗ pháp thuật suốt bao năm qua, và rồi bị ném xuống đáy Thánh hồ.
Khi đã ở đỉnh cao của quyền lực, tâm hồn của Trầm Anh Giáo chủ càng ngày càng trở nên khô cằn và độc ác, đến mức không thể không lấy việc tàn sát để đổi lấy sự bình yên trong lòng.
Dù thế lực đen tối đã ăn sâu vào tim, nhưng Trầm Anh vẫn còn đủ tỉnh táo để nhận ra những gì đang xảy ra với mình: "Bên trong cơ thể ta có ma quỷ!"
Một ngày kia, Trầm Anh đã ra tay giết hại người tì nữ thân cận nhất đã theo mình suốt hơn mười năm. Khi tỉnh lại, nhìn thấy đôi bàn tay đẫm máu, Giáo chủ như đã hiểu ra những việc mình làm, mặt biến sắc trắng bệch, "Bên trong ta có ma quỷ! Yểm quỷ đang lớn dần... nó sắp thoát ra... phải làm sao đây?"
Những người xung quanh nghe thấy thế, không ai không hoảng sợ.
Trong Bái Nguyệt giáo, "Yểm quỷ" là thế lực ma quái đối lập với Nguyệt thần, có pháp lực cao cường.
Truyền thuyết kể rằng,Yểm quỷ đẻ trứng trong không gian, ban đầu trứng chỉ nhỏ hơn lỗ chân lông, theo gió phiêu bạt khắp mọi nơi, hễ gặp người có tư chất phù hợp và có âm ảnh ẩn chứa trong lòng, lập tức sẽ nhập vào - và rồi ra đời ngay chính trong trái tim của người đó. Nó sống ký sinh trong cơ thể người, lấy nội tạng làm thức ăn, cho đến khi ăn hết cơ thể đó thì sẽ bay ra và tìm mục tiêu tiếp theo.
Yểm quỷ có thể tìm thấy rất nhiều đối tượng để nhập vào, bởi sức mạnh của nó là phần đen tối trong tâm hồn mỗi con người, vì thế sẽ không bao giờ bị hủy diệt. Theo truyền thuyết, cứ sau một trăm năm, sức mạnh của nó lại đạt đến mức tuyệt đỉnh, trở nên điên cuồng hơn bao giờ hết, thậm chí có thể nuốt chửng cả mặt trăng, để trời đất hoàn toàn chìm trong bóng đêm.
Ngày hôm đó bị gọi là "Diệt thiên chi khước" của Bái Nguyệt giáo.
Đã một trăm năm nữa qua đi... Bởi lòng khao khát sức mạnh đến cực độ, Trầm Anh đã khiến thế lực đen tối trong lòng mình lớn lên, nước Thánh hồ đã cạm khô giờ lại được đổ đầy, còn ma quỷ, cũng đang dần dần phục sinh trong tâm hồn con người!
Thế nhưng, trong khi càng ngày càng không thể khống chế nổi bản thân, Trầm Anh vẫn còn giữ được một chút tỉnh táo cuối cùng.
Một đêm trước khi ngày đại kiếp như lời dự báo xảy ra, vị Giáo chủ mạnh nhất trong lịch sử Bái Nguyệt giáo đã tự mình đốt hương, khoác lên bộ y phục trắng, rồi gieo mình xuống Thánh hồ - Trầm Anh đã làm theo cách mà vị Tế Tư Già Nhược đã làm trước kia - lấy thân mình để dẫn độ tất cả những hồn ma quỷ ác.
Trước khi nhảy xuống hồ, Trầm Anh Giáo chủ đã cắt máu thề, chừng nào linh hồn ma quỷ vẫn còn, thì sẽ không bao giờ quay trở lại.
Trầm Anh đã nhốt ma quỷ trong tim, để rồi gieo mình xuống dưới đáy hồ mãi mãi.
Suốt một trăm năm qua, hầu hết mọi người đều đã lãng quên, thậm chí còn hoài nghi tính chân thực của câu chuyện này.
Thế nhưng, giờ đây, Giáo chủ Trầm Anh của một trăm năm về trứơc đã nương vào thân thể người khác để bất ngờ xuất hiện trên trần gian!
Quay trở vào căn nhà, Phù Nam ngồi xuống băng bó vết thương, rồi lấy cái tráp để trên ô cửa sổ xuống và mở ra. Bên trên lớp vài nhung đỏ là ba cành cỏ Linh chi bảy lá tỏa ánh sáng lung ling và mùi hương thơm ngát.
Ling chi bảy lá là loài cỏ chỉ sống ở những nơi có nhiều âm khí, lớn lên nhờ hấp thu nước ở chốn hoàng tuyền, không cần ánh sáng mặt trời, và làm bạn với những linh hồn cõi âm.
Núi Linh Tựu mặc dù được coi là nơi tích tụ nhiều âm khí của trời đất, nhưng cũng chỉ ở dưới Thánh hồ mới có thể trồng được loài cỏ Linh chi này. Dưới Thánh hồ đầy những hồn ma kêu gào, vì thế việc xuống hồ hái Linh chi quả là vô cùng khó khăn và nguy hiểm, dường như mỗi cành Linh chi đó được đổi bằng sinh mạng của bao nhiêu người.
Vậy mà năm nào cũng vậy, cứ đến rằm tháng bảy là Nguyệt cung lại sai người xuống núi gửi thứ cỏ quý này cho Phù Nam, nói rằng đó là quà của Lưu Quang - thực ra Phù Nam nghĩ đây chính là lời cảnh cáo của Thiên Trúc Giáo chủ, rằng Lưu Quang đang ở trong tay ả, tốt nhất là đừng có ngông cuồng manh động.
Phù Nam vẫn không khỏi thẫn thờ khi nghĩ lại những chuyện đã qua. Chàng gõ gõ ngón tay lên thanh Khước Tà, lắng nghe những tiếng gõ đó, sắc mặt mỗi lúc một nặng trĩu. Chàng đứng một mình bên cửa sổ, trầm mặc nhìn về phía ngọn núi Linh Tựu dưới ánh trăng đêm, ánh mắt lóe lên những tia sáng.
Đằng xa kia, Mạn Châu Sa mọc tràn lan vây quanh chân núi, đó rực cả một vùng, tựa hồ một ngọn núi lửa đang bốc lên mạnh mẽ.
Trăng đêm rằm tròn vành vạnh, núi Linh Tựu cao vút tận chân mây. Trên đỉnh núi, Nguyệt cung như đang đắm mình dưới ánh trăng, tỏa ra thứ ánh sáng như không thuộc trần thế.
Lưu Quang, Lưu Quang đang ở trên đó... Đã ba năm kể từ ngày xảy ra đoạt cung chi biến, Phù Nam không được gặp lại sư huynh của mình, mặc dù rằm tháng bảy hằng năm đều đặn nhận được quà và thư của Lưu Quang. Thiên Trúc Giáo chủ, kẻ mãi mãi trong dáng vẻ nữ đồng ấy, là kẻ lòng lang dạ sói, Lưu Quang ngay từ đầu đã không chịu khuất phục, nay ở trong tay ả, không biết phải chịu những cực hình dã man đến thế nào...
Bây giờ, Trầm Anh Giáo chủ lại thao túng Thần Triệt và đang xông vào Nguyệt cung, không biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Đôi mắt to tròn, trong sáng ngày nào lại hiện ra rõ nét trong ký ức Phù Nam... thật ngây thơ và thánh thiện! Tám năm... tám năm trước đây, chàng đã giương mắt nhìn cánh cửa Hồng Liên U Ngục đóng lại mà không dám ra tay cứu giúp.
Suốt bao năm qua, chàng đã sống trong sự nhẫn nhịn, cô đơn và tẻ nhạt. Cuộc sống như thế, có khác là mấy so với cái chết?
Ba năm trước chàng đã thề sẽ không đặt chân vào Nguyệt cung, dù chỉ là nửa bước. Thế nhưng hôm nay, chàng quyết định sẽ mang kiếm lên núi.
Lưu Quang ở trên núi, A Triệt cũng vậy... Những người mà chàng quan tâm đều đang ở trên đó! Dẫu biết rằng, Nguyệt cung vốn là nơi đã cả gan mạo phạm thì tất phải trả bằng tính mạng, thế nhưng, có điều gì là đáng sợ cơ chứ?
Bên ngoài, trăng đêm lạnh lẽo và u tịch. Mạn Châu Sa nở rộ dưới ánh trăng, như thắp lên những ngọn lửa.