- Từ huyện Vô Chung đi Liễu Thành về hướng đông bắc, ở giữa Yến Sơn và Đại Hải, là một thông đạo đến Liêu Tây dài hẹp ước chừng mấy trăm dặm, chỗ hẹp nhất chỉ có hai ba dặm, đây là con đường duy nhất có thể đi lên phía bắc, thậm chí không có đến một ngỏ rẽ.
Trong đại trướng, Điền Trù đứng ở trước một tấm bản đồ giải thích về con đường bắc thượng cho Tào Tháo và mấy vị mưu sỹ, dùng than vẽ tỉ mỉ một con đường quanh co khúc khuỷu, lại khoanh một vòng ở nơi hẹp nhất, con đường này chính là hành lang Liêu Tây ở hậu thế, mà chỗ hẹp nhất kia chính là Sơn Hải quan.
- Quan đạo này đã lâu chưa tu sửa, mỗi khi đến hai mùa hạ thu thì xuất hiện nhiều vũng nước đọng, xe ngựa khó có thể đi qua, mà mấy ngày nay mưa to, sự tình sẽ càng thêm nghiêm trọng, đoán chừng chỗ sâu nhất có thể chứa được một chiếc thuyền, quan trọng hơn là, kỵ binh Ô Hoàn biết đại quân của Thừa tướng đến, sớm đã đóng trọng binh tại nơi hiểm yếu, e rằng Thừa tướng đã không còn cách nào bắc thượng bằng con đường đó được rồi.
Trải qua một thời gian tiếp xúc ngắn ngủi, Tào Tháo biết Điền Trù là một người rất chân thật, rất ít nói lời khoa trương, y đã nói như vậy, tất nhiên là nghiêm trọng, điều này làm cho Tào Tháo nghĩ mãi không ra cách giải quyết.
Trình Dục đứng bên cạnh đã nhìn thấu Điền Trù, cười nói:
- Ta cảm thấy Điền Tư không đã tính trước kỹ càng, ắt là có con đường khác có thể đi.
Tào Tháo tinh thần phấn chấn lên, trong lời nói có chút oán giận:
- Điền công đã có diệu kế, vì sao không nói sớm, khiến ta lo lắng nửa ngày trời.
Điền Trù liền đỏ mặt, vội vàng thi lễ nhận lỗi, y dùng than củi vẽ một đường dài từ huyện Từ Vô lên phía bắc, nói với Tào Tào Tháo:
- Vốn dĩ phủ Hữu Bắc Bình được thiết lập tại Bình Cương, muốn liên hệ với Trung Nguyên phải đi xuyên qua Yến Sơn, thì chỉ cần ở huyện Từ Vô về xây một quan đạo về phía bắc, mượn đường Nhu Thủy hà cốc (1), nhưng bây giờ mực nước sông đang tăng vọt, hà cốc đã bị chìm ngập trong nước
(1) Hà cốc: là một thung lũng được tạo từ lòng sông, khác với sơn cốc được tạo từ núi.
Dù là Tào Tháo bình tĩnh, lúc này cũng không kìm nổi mà hỏi:
- Hà cốc bị ngập thì làm sao bây giờ?
- Thừa tướng chớ lo, hai ngày trước thuộc hạ chính là đi thăm dò hà cốc này, may thay phía bắc Yến Sơn không có mưa, chỉ có phía nam Yến Sơn mới có mưa, chúng ta có thể từ mặt nam leo lên Từ Vô sơn, đi theo đường đèo vượt qua khúc sông bị ngập nước.
Điền Trù lại dùng than củi vẽ ra một đường dài, nói với mọi người:
- Sau khi đi ra khỏi Từ Vô sơn là Lư Long Tắc, đi xuyên qua Nhu Thủy hà cốc trăm dặm, thì đã đến Yến Sơn rồi, sau đó lại tiếp tục đi theo hướng đông bắc, qua huyện Bình Cương và Vương đình của người Tiên Ti trước kia, đoạn đường này dài khoảng tám trăm dặm.
Nhưng sau đời Quang Vũ Đế, con đường này đã bị bỏ quên, đến nay cũng đã hai trăm năm, nhưng mơ hồ có thể phân biệt được dấu vết của con đường đó, từ đấy mà đi ra, chính là sau lưng của Liều Thành, có thể tấn công nhân lúc địch chưa chuẩn bị, một trận mà bắt được Đạp Đốn.
Tào Tháo chậm rãi gật đầu.
- Nếu không có Điền công, thì lần bắc chinh này ta đã không đánh mà lui!
Trình Dục lại nhíu mày, trèo đèo lội suối đi tám trăm, chí ít cũng phải nửa tháng, vấn đề lương thực kia giải quyết như thế nào đây, y nhịn không nổi mà nhắc nhở Tào Tháo:
- Chúng ta lương thảo không nhiều, cho dù là giết mã cũng chỉ có thể cầm cự được bảy tám ngày.
Điền Trù cười lên.
- Bảy tám ngày là đủ, đi qua khỏi Yến Sơn chính là thảo nguyên, bên đó là bãi chăn thả của người Tiên Ti, dê cừu rất nhiều, không cần lo lắng vấn đề lương thực nữa.
Tào Tháo nhẹ nhõm cả người, quả quyết nói:
- Đợi mưa tạnh liền lập tức xuất phát!
Khi trời tối, mưa đã bắt đầu nhỏ dần, đến lúc vừa sáng, cơn mưa tầm tã suốt gần mười ngày lại ngưng hẳn, Tào Tháo mừng rỡ, giả vờ rút quân, đi vòng tới Từ Vô sơn.
Lại lệnh cho Trương Liêu dẫn ba vạn quân làm tiên phong, dưới sự hướng dẫn của Điền Trù, dọc đường gặp núi phá núi mở đường, gặp sông thì bắt cầu, đại quân men theo một con đường đã bị hoang phế hai trăm năm trùng trùng điệp điệp đi về hướng bắc.
Hai ngày sau, một đội kỵ binh thám báo Ô Hoàn đến nhanh như chớp, bọn họ đã tìm thấy nơi đóng quân của quân Tào, đại quân đã bỏ chạy, trong soái trướng, bọn kỵ binh tìm được một tấm mộc bài, trên mộc bài có ghi một hàng chữ: "Mùa hạ nóng bức, đường sá không thông, chờ đến thu đông, tiến quân trở lại." Chữ ghi trên mộc bài chính là của Tào Tháo.
Nhất thời tên kỵ binh Ô Hoàn như nhặt được vật quý báo, đem tấm mộc bài trở về phục mệnh, người Ô Hoàn nghĩ rằng quân Tào đã rút lui, vui mừng khôn xiết, vừa múa vừa hát chúc mừng, phòng ngự cũng trở nên lơi lỏng.
...
Ô Hoàn là một dân tộc du mục cổ xưa trên thảo nguyên, vốn là một chi của người Đông Hồ, khi Đông Hồ tranh đoạt thảo nguyên Mạc Bắc với Hung Nô thất bại, chi Đông Hồ này bị buộc phải di chuyển đến vùng phụ cận Ô Hoàn sơn phía bắc Liêu Đông, nên đổi tên thành Ô Hoàn.
Trải qua hơn trăm năm phát triển, Ô Hoàn đã cắm rễ ở Liêu Đông, Ô Hoàn dưới sự lãnh đạo của Đạp Đốn đã dần dần trở nên cường đại.
Thời Hán mạt đại loạn, quân phiệt cát cứ, Trung Nguyên hỗn loạn, kỵ binh Ô Hoàn nhân cơ hội xâm nhập Trung Nguyên, trắng trợn cướp đoạt tài sản và nhân khẩu.
Cho dù Viên Thiệu chiếm cứ Hà Bắc, có giáp sỹ mấy mươi vạn, y cũng không dám trở mặt với Ô Hoàn, chỉ có thể dùng thủ đoạn hòa hoãn để lôi kéo Thiền Vu của các bộ lạc Ô Hoàn.
Sau trận chiến Quan Độ, Viên thị từng bước diệt vong, năm Kiến An thứ mười, Tào Tháo đánh cho tàn quân Viên thị đại bại, Viên Thượng và Viên Hi dẫn mấy ngàn tàn quân bỏ chạy về Liêu Đông, nương tựa người Ô Hoàn.
Thiền Vu Ô Hoàn như nhặt được của quý, y liền lấy cớ thay Viên thị khôi phục sự thống trị ở Hà Bắc, chuẩn bị ồ ạt xâm lược Hà Bắc.
Liễu Thành, đây là nơi đặt nha trướng của Đại Thiền Vu Ô Hoàn, cũng giống như các dân tộc du mục khác, Ô Hoàn cũng do mấy mươi bộ lạc lớn nhỏ tạo thành, tự xưng có mười vạn kỵ binh.
Mà ở phụ cận Liễu Thành, là nơi sinh sống của ba bộ lạc lớn nhất tộc Ô Hoàn, có ba mươi vạn nhân khẩu, trong đó còn có mười vạn Hán nô, bọn họ lấy nha trướng của Đại Thiền Vu làm trung tâm, xây dựng lều trướng mở rộng ra bốn phía, phạm vi mấy trăm dặm, có đến mấy vạn ngôi lều.
Lúc này trong trướng đang tổ chức một bữa yến tiệc, tiếng nhạc âm vang, một nhóm thiếu nữ Ô Hoàn quần áo diễm lệ nhảy múa, mấy chục tên Đại tướng Ô Hoàn đang há to miệng ăn thịt uống rượu, cười nham nhở, tiếng cười chói tai văng vẳng trong trướng, hầu như đã át cả tiếng nhạc.
Ở một góc trướng, hai huynh đệ Viên Hi và Viên Thượng mặt ủ mày chau, vốn dĩ người Ô Hoàn đã thề thốt phải trợ giúp bọn họ đoạt lại Hà Bắc, lại thổi phồng rằng quân Ô Hoàn cường đại như thế nào, nhưng nghe nói Tào Tháo thống lĩnh đại quân bắc phạt, lập tức trở nên hết sức căng thẳng.
Lúc Tào Tháo rút quân quay về Trung Nguyên, bọn họ lại vui vẻ vô cùng, ngày ngày uống rượu chúc mừng, đã ăn mừng được gần nửa tháng, điều này nói rõ trong xương cốt bọn họ đã sợ hãi Tào Tháo, năm Kiến An thứ mười, Ô Hoàn bị Tào Tháo đánh cho đại bại, bây giờ chỉ có thể hung hăng ngoài miệng mà thôi.
Càng làm cho hai huynh đệ buồn bực chính là, đã hai năm trôi qua, người Ô Hoàn trước giờ đều án binh bất động, lẽ nào bọn họ chỉ hứa suông thôi sao?
- Nhị ca!
Viên Thượng thấp giọng nói với Viên Hi:
- Đệ cảm thấy người Ô Hoàn không đáng tin cậy, bọn họ chỉ muốn cướp bóc nữ nhân và tài sản, căn bản không có thành ý giúp chúng ta khôi phục giang sơn, cứ ở đây mà chờ đợi giang sơn, chẳng bằng tìm cơ hội đi Tương Bình tìm đến Công Tôn Khang cho rồi.
Viên Hi bưng một bát đầy rượu sữa ngựa lên uống một ngụm, trầm tư chốc lát, nói:
- Đệ biết ta có ý tưởng gì không? Ta muốn mượn năm ngàn kỵ binh Ô Hoàn đi tấn công Cao Câu Ly (tức Cao Ly sau này), tiêu diệt Cao Câu Ly và Tân La, thì chúng ta đã có căn cơ rồi.
- Nhưng Đạp Đốn sẽ cho mượn binh sao?
- Cho hắn một chút lợi ích, chia sẻ phân nửa nhân khẩu và quốc khố của Cao Câu Ly, hắn liền đồng ý ngay, loại người chỉ nhận lợi ích thế này, kỳ thực cũng dễ xử lý.
Lúc này, bên cạnh truyền đến một tiếng cười chói tai.
- Hai huynh đệ các ngài rủ rỉ rù rì cái gì đấy? Nói ra cho mọi người nghe một chút đi.
Người đang nói chuyện chính là Đại Thiền Vu Đạp Đốn, y đã hơn bốn mươi tuổi, thân hình cao lớn vạm vỡ, có một chùm râu rậm rạm, hai mắt nhỏ tí, lộ ra vẻ xảo trá, bất kể xuân hạ thu đông, trên đầu đều đội một chiếc mũ bằng da gấu chó.
Lúc còn trẻ Đạp Đốn từng được vinh dự làm Ô Hoàn đệ nhất dũng sỹ, có thể vật hổ giết gấu, sức mạnh ghê gớm vô cùng, y dùng một cây Lang Nha Bổng nặng sáu mươi cân, lúc hai mươi đã kế nhiệm chức Đại Thiền Vu, đến nay đã hơn hai mươi năm.
Y lãnh đạo người Ô Hoàn không ngừng cướp đoạt người Hán, đem nhân khẩu và của cải chuyển đi, khiến người Ô Hoàn dần dần trở nên cường đại.
Y luôn chú ý huynh đệ Viên thị, thấy hai người xì xào bàn tán, vẻ mặt rất thận trọng, trong lòng liền có chút không vui.
- Nói ra đi, để cho ta nghe thử.
Viên Hi đứng dậy thi lễ cười nói:
- Chúng ta đang phân tích mưu kế của Tào Tháo, người này tâm kế thâm sâu, y bảo là rút quân, có thể là kế hoãn binh, mê hoặc chúng ta, nói không chừng y đã lén dụng binh rồi.
Đạp Đốn cười phá lên:
- Y làm cách nào mà lén dụng binh được? Dưới cơn mưa to mấy ngày liền, đường sá đều bị hư hỏng, trở thành cả một biển nước, kỵ binh của ta dốc hết sức mới qua được vùng nước như vậy, mấy mươi vạn đại quân bọn chúng làm thế nào mà đi, còn quân nhu lương thảo thì phải làm sao? Hi công tử, ngài lo lắng quá nhiều rồi.
- Nếu y đi theo con đường khác tới đây thì sao?
Viên Thượng nhịn không được nói ra.
- Y chắp cánh mà bay tới sao?
Đạp Đốn trêu đùa một câu, trong đại trướng lập tức cười ồ lên.
Đúng lúc này, một tên binh sỹ gấp rút chạy vào bẩm báo:
- Khởi bẩm Đại Thiền Vu, ở phía tây ngoài trăm dặm phát hiện mấy mươi vạn đại quân của Tào Tháo, đang ùn ùn đánh tới chỗ chúng ta!
Mọi người trong đại trướng chốc lát sợ run lên, quân Tào thật sự đã chắp cánh bay tới rồi, bỗng nhiên Đạp Đốn ném mạnh bát rượu, hét lớn:
- Sai đại quân của chúng ta giết sạch bọn chung đi! Truyền mệnh lệnh của ta, tất cả đàn ông đều mặc giáp lên ngựa, chuẩn bị nghênh chiến quân Tào!
Trải qua gần nửa tháng hành quân gian khổ, mười vạn quân Tào rốt cuộc đã tới gần nha trướng của Đại Thiền Vu trăm dặm, bọn họ đã không ngừng chạm trán với các bộ lạc nhỏ của Ô Hoàn, tiến hành giết chóc và cướp bóc, đoạt lấy dê cừu của người Ô Hoàn để làm quân lương.
Quân Tào từ huyện Vô Chung mang hai mươi vạn đại quân xuất phát, dọc đường gặp ba trận mưa to, vừa đói vừa rét, rất nhiều binh sỹ đều ngã bệnh, quân số bị giảm vô cùng nghiêm trọng, ngay cả Trình Dục cũng ngã bệnh, Tào Tháo bất đắc dĩ, đành phải chỉnh đốn quân đội một lần nữa ở Bình Cương, để binh sỹ bệnh yếu ở lại nghỉ ngơi, y đích thân dẫn mười vạn tinh binh tiếp tục đông chinh.
Buổi chiều hôm nay, Tào Tháo đã nhìn thấy Bạch Lang sơn ở phía xa, đây là một dãy núi kéo dài hơn trăm dặm, cao ở phía nam thấp dần về phía bắc, nơi mà Tào Tháo hiện tại đang thấy chính là một nhánh thuộc Bạch Lang sơn, có vẻ là một ngọn đồi thấp và tròn trĩnh, cao vài trăm thước, dốc khá bằng phẳng, kỵ binh có thể trực tiếp phóng ngựa lên đỉnh đồi.
Lúc này, một gã thám báo hối hả chạy đến chỗ Tào Tháo, cao giọng bẩm báo:
- Khởi bẩm Thừa tướng, thám báo ở phía trước phát hiện quân chủ lực của Ô Hoàn, ước chừng hơn năm vạn người, toàn bộ đều là kỵ binh, đang chạy về hướng bên này, cách chúng ta khoảng ba mươi dặm.
Đại tướng Từ Hoảng bên cạnh có chút kinh ngạc, nói:
- Ô Hoàn không phải tự xưng là có mười vạn giáp kỵ binh ư? Sao lại chỉ có hơn năm vạn quân?
Tào Tháo cười khẩy một tiếng.
- Các bộ tộc Ô Hoàn phân tán nhiều nơi, phần lớn đều ở cách xa nhau mấy trăm dặm, nếu muốn tập trung binh lực, chí ít phải mười bữa nửa tháng, làm sao đến ngay được, đây là bộ lạc kỵ binh của nha trướng, Đạp Đốn tất ở trong đó, truyền mệnh lệnh của ta, đại quân tăng tốc hành quân, đánh chiếm Bạch Lang sơn.
Mười vạn quân Tào đã gần đến Bạch Lang sơn, không lâu sau, quân Tào đã chiếm được Bạch Lang sơn, mười vạn đại quân tràn lên đỉnh núi như một bầy kiến, lúc này từ xa bọn họ đã thấy kỵ binh Ô Hoàn đánh tới như che trời phủ đất, cát bụi che lấp cả bầu trời, tiếng vó ngựa như sấm rền từ phía chân trời lướt qua, mặt đất rung động, dường như đến cả ngọn núi cũng bị lung lay.
Thanh thế này khiến quân Tào hoảng sợ, rất nhiều người trong mắt đã lộ vẻ sợ hãi, bọn họ phần lớn đều là bộ binh, chỉ có bốn ngàn kỵ binh, làm sao có thể địch nổi năm ngàn kỵ binh, đến cả tướng lĩnh cũng bắt đầu cảm thấy bất an.
Ánh mắt lạnh lùng của Tào Tháo chăm chú nhìn vào đoàn kỵ binh đã đến dưới chân núi, y thân kinh bách chiến, kinh nghiệm phong phú dị thường, y không khỏi cười khẩy một tiếng, hỏi Trương Liêu bên cạnh:
- Văn Viễn đã phát hiện ra nhược điểm của kỵ binh người Hồ rồi sao?
Trương Liêu gật gật đầu, trầm giọng nói:
- Đội ngũ bọn chúng hỗn loạn, căn bản không có kết cấu gì, giống như một đám ô hợp chắp vá lại mà thành, chỉ là do nhiều người mà thanh thế có vẻ lớn, đội quân kiểu này toàn là dựa vào nhất cổ tác khí (2), không đánh được lâu, gặp chút dao động sẽ đại bại.
(2) Nhất cổ tác khí: Trong "Tả truyện Trang Công thập niên" có viết: "Phu chiến, dũng khí dã. Nhất cổ tác khí, tái nhi suy, tam nhi kiệt". (Dịch nghĩa: Khi đánh trận, là so dũng khí. Một tiếng trống làm sỹ khí hăng hái, tiếng thứ hai sỹ khí sẽ giảm, tiếng thứ ba sẽ không còn sỹ khí). Ý câu này là khi còn hăng hái hãy làm một mạch cho xong.
- Ngươi nói không sai, bọn chúng chính là một đám ô hợp, buổi sáng vẫn là dân du mục, bây giờ lại tạm thời trở thành quân đội, không đủ gây uy hiếp!
Tào Tháo quay đầu lại ra lệnh:
- Trương Liêu, Từ Hoảng, Hứa Chử, Trương Cáp, Hạ Hầu Đôn đâu?
Năm vị Đại tướng đồng loạt tiến lên lĩnh mệnh, Tào Tháo cởi Hoàng Kim Khải Giáp của mình xuống, nói với chúng tướng:
- Các ngươi mỗi người dẫn hai vạn quân giết xuống dưới núi, ai giết được Đạp Đốn, bộ giáp này sẽ ban cho người đó, lại truyền lệnh xuống tam quân, giết địch một tên, thưởng mười mẫu ruộng, năm ngàn tiền, người nhà được miễn thuế một năm, không có giới hạn.
- Tuân lệnh!
Mọi người cao giọng lĩnh mệnh, xoa xoa hai tay, mỗi người tự đi thống lĩnh đội quân của mình, nửa canh giờ sau, Tào Tháo chia quân thành năm đường giết xuống Bạch Lang sơn, mười vạn quân Tào ai ai cũng anh dũng tranh lên trước, giống như năm thanh chiến đao sắc bén linh hoạt, bổ về phía đoàn kỵ binh Ô Hoàn.
Trong đại trướng, Điền Trù đứng ở trước một tấm bản đồ giải thích về con đường bắc thượng cho Tào Tháo và mấy vị mưu sỹ, dùng than vẽ tỉ mỉ một con đường quanh co khúc khuỷu, lại khoanh một vòng ở nơi hẹp nhất, con đường này chính là hành lang Liêu Tây ở hậu thế, mà chỗ hẹp nhất kia chính là Sơn Hải quan.
- Quan đạo này đã lâu chưa tu sửa, mỗi khi đến hai mùa hạ thu thì xuất hiện nhiều vũng nước đọng, xe ngựa khó có thể đi qua, mà mấy ngày nay mưa to, sự tình sẽ càng thêm nghiêm trọng, đoán chừng chỗ sâu nhất có thể chứa được một chiếc thuyền, quan trọng hơn là, kỵ binh Ô Hoàn biết đại quân của Thừa tướng đến, sớm đã đóng trọng binh tại nơi hiểm yếu, e rằng Thừa tướng đã không còn cách nào bắc thượng bằng con đường đó được rồi.
Trải qua một thời gian tiếp xúc ngắn ngủi, Tào Tháo biết Điền Trù là một người rất chân thật, rất ít nói lời khoa trương, y đã nói như vậy, tất nhiên là nghiêm trọng, điều này làm cho Tào Tháo nghĩ mãi không ra cách giải quyết.
Trình Dục đứng bên cạnh đã nhìn thấu Điền Trù, cười nói:
- Ta cảm thấy Điền Tư không đã tính trước kỹ càng, ắt là có con đường khác có thể đi.
Tào Tháo tinh thần phấn chấn lên, trong lời nói có chút oán giận:
- Điền công đã có diệu kế, vì sao không nói sớm, khiến ta lo lắng nửa ngày trời.
Điền Trù liền đỏ mặt, vội vàng thi lễ nhận lỗi, y dùng than củi vẽ một đường dài từ huyện Từ Vô lên phía bắc, nói với Tào Tào Tháo:
- Vốn dĩ phủ Hữu Bắc Bình được thiết lập tại Bình Cương, muốn liên hệ với Trung Nguyên phải đi xuyên qua Yến Sơn, thì chỉ cần ở huyện Từ Vô về xây một quan đạo về phía bắc, mượn đường Nhu Thủy hà cốc (1), nhưng bây giờ mực nước sông đang tăng vọt, hà cốc đã bị chìm ngập trong nước
(1) Hà cốc: là một thung lũng được tạo từ lòng sông, khác với sơn cốc được tạo từ núi.
Dù là Tào Tháo bình tĩnh, lúc này cũng không kìm nổi mà hỏi:
- Hà cốc bị ngập thì làm sao bây giờ?
- Thừa tướng chớ lo, hai ngày trước thuộc hạ chính là đi thăm dò hà cốc này, may thay phía bắc Yến Sơn không có mưa, chỉ có phía nam Yến Sơn mới có mưa, chúng ta có thể từ mặt nam leo lên Từ Vô sơn, đi theo đường đèo vượt qua khúc sông bị ngập nước.
Điền Trù lại dùng than củi vẽ ra một đường dài, nói với mọi người:
- Sau khi đi ra khỏi Từ Vô sơn là Lư Long Tắc, đi xuyên qua Nhu Thủy hà cốc trăm dặm, thì đã đến Yến Sơn rồi, sau đó lại tiếp tục đi theo hướng đông bắc, qua huyện Bình Cương và Vương đình của người Tiên Ti trước kia, đoạn đường này dài khoảng tám trăm dặm.
Nhưng sau đời Quang Vũ Đế, con đường này đã bị bỏ quên, đến nay cũng đã hai trăm năm, nhưng mơ hồ có thể phân biệt được dấu vết của con đường đó, từ đấy mà đi ra, chính là sau lưng của Liều Thành, có thể tấn công nhân lúc địch chưa chuẩn bị, một trận mà bắt được Đạp Đốn.
Tào Tháo chậm rãi gật đầu.
- Nếu không có Điền công, thì lần bắc chinh này ta đã không đánh mà lui!
Trình Dục lại nhíu mày, trèo đèo lội suối đi tám trăm, chí ít cũng phải nửa tháng, vấn đề lương thực kia giải quyết như thế nào đây, y nhịn không nổi mà nhắc nhở Tào Tháo:
- Chúng ta lương thảo không nhiều, cho dù là giết mã cũng chỉ có thể cầm cự được bảy tám ngày.
Điền Trù cười lên.
- Bảy tám ngày là đủ, đi qua khỏi Yến Sơn chính là thảo nguyên, bên đó là bãi chăn thả của người Tiên Ti, dê cừu rất nhiều, không cần lo lắng vấn đề lương thực nữa.
Tào Tháo nhẹ nhõm cả người, quả quyết nói:
- Đợi mưa tạnh liền lập tức xuất phát!
Khi trời tối, mưa đã bắt đầu nhỏ dần, đến lúc vừa sáng, cơn mưa tầm tã suốt gần mười ngày lại ngưng hẳn, Tào Tháo mừng rỡ, giả vờ rút quân, đi vòng tới Từ Vô sơn.
Lại lệnh cho Trương Liêu dẫn ba vạn quân làm tiên phong, dưới sự hướng dẫn của Điền Trù, dọc đường gặp núi phá núi mở đường, gặp sông thì bắt cầu, đại quân men theo một con đường đã bị hoang phế hai trăm năm trùng trùng điệp điệp đi về hướng bắc.
Hai ngày sau, một đội kỵ binh thám báo Ô Hoàn đến nhanh như chớp, bọn họ đã tìm thấy nơi đóng quân của quân Tào, đại quân đã bỏ chạy, trong soái trướng, bọn kỵ binh tìm được một tấm mộc bài, trên mộc bài có ghi một hàng chữ: "Mùa hạ nóng bức, đường sá không thông, chờ đến thu đông, tiến quân trở lại." Chữ ghi trên mộc bài chính là của Tào Tháo.
Nhất thời tên kỵ binh Ô Hoàn như nhặt được vật quý báo, đem tấm mộc bài trở về phục mệnh, người Ô Hoàn nghĩ rằng quân Tào đã rút lui, vui mừng khôn xiết, vừa múa vừa hát chúc mừng, phòng ngự cũng trở nên lơi lỏng.
...
Ô Hoàn là một dân tộc du mục cổ xưa trên thảo nguyên, vốn là một chi của người Đông Hồ, khi Đông Hồ tranh đoạt thảo nguyên Mạc Bắc với Hung Nô thất bại, chi Đông Hồ này bị buộc phải di chuyển đến vùng phụ cận Ô Hoàn sơn phía bắc Liêu Đông, nên đổi tên thành Ô Hoàn.
Trải qua hơn trăm năm phát triển, Ô Hoàn đã cắm rễ ở Liêu Đông, Ô Hoàn dưới sự lãnh đạo của Đạp Đốn đã dần dần trở nên cường đại.
Thời Hán mạt đại loạn, quân phiệt cát cứ, Trung Nguyên hỗn loạn, kỵ binh Ô Hoàn nhân cơ hội xâm nhập Trung Nguyên, trắng trợn cướp đoạt tài sản và nhân khẩu.
Cho dù Viên Thiệu chiếm cứ Hà Bắc, có giáp sỹ mấy mươi vạn, y cũng không dám trở mặt với Ô Hoàn, chỉ có thể dùng thủ đoạn hòa hoãn để lôi kéo Thiền Vu của các bộ lạc Ô Hoàn.
Sau trận chiến Quan Độ, Viên thị từng bước diệt vong, năm Kiến An thứ mười, Tào Tháo đánh cho tàn quân Viên thị đại bại, Viên Thượng và Viên Hi dẫn mấy ngàn tàn quân bỏ chạy về Liêu Đông, nương tựa người Ô Hoàn.
Thiền Vu Ô Hoàn như nhặt được của quý, y liền lấy cớ thay Viên thị khôi phục sự thống trị ở Hà Bắc, chuẩn bị ồ ạt xâm lược Hà Bắc.
Liễu Thành, đây là nơi đặt nha trướng của Đại Thiền Vu Ô Hoàn, cũng giống như các dân tộc du mục khác, Ô Hoàn cũng do mấy mươi bộ lạc lớn nhỏ tạo thành, tự xưng có mười vạn kỵ binh.
Mà ở phụ cận Liễu Thành, là nơi sinh sống của ba bộ lạc lớn nhất tộc Ô Hoàn, có ba mươi vạn nhân khẩu, trong đó còn có mười vạn Hán nô, bọn họ lấy nha trướng của Đại Thiền Vu làm trung tâm, xây dựng lều trướng mở rộng ra bốn phía, phạm vi mấy trăm dặm, có đến mấy vạn ngôi lều.
Lúc này trong trướng đang tổ chức một bữa yến tiệc, tiếng nhạc âm vang, một nhóm thiếu nữ Ô Hoàn quần áo diễm lệ nhảy múa, mấy chục tên Đại tướng Ô Hoàn đang há to miệng ăn thịt uống rượu, cười nham nhở, tiếng cười chói tai văng vẳng trong trướng, hầu như đã át cả tiếng nhạc.
Ở một góc trướng, hai huynh đệ Viên Hi và Viên Thượng mặt ủ mày chau, vốn dĩ người Ô Hoàn đã thề thốt phải trợ giúp bọn họ đoạt lại Hà Bắc, lại thổi phồng rằng quân Ô Hoàn cường đại như thế nào, nhưng nghe nói Tào Tháo thống lĩnh đại quân bắc phạt, lập tức trở nên hết sức căng thẳng.
Lúc Tào Tháo rút quân quay về Trung Nguyên, bọn họ lại vui vẻ vô cùng, ngày ngày uống rượu chúc mừng, đã ăn mừng được gần nửa tháng, điều này nói rõ trong xương cốt bọn họ đã sợ hãi Tào Tháo, năm Kiến An thứ mười, Ô Hoàn bị Tào Tháo đánh cho đại bại, bây giờ chỉ có thể hung hăng ngoài miệng mà thôi.
Càng làm cho hai huynh đệ buồn bực chính là, đã hai năm trôi qua, người Ô Hoàn trước giờ đều án binh bất động, lẽ nào bọn họ chỉ hứa suông thôi sao?
- Nhị ca!
Viên Thượng thấp giọng nói với Viên Hi:
- Đệ cảm thấy người Ô Hoàn không đáng tin cậy, bọn họ chỉ muốn cướp bóc nữ nhân và tài sản, căn bản không có thành ý giúp chúng ta khôi phục giang sơn, cứ ở đây mà chờ đợi giang sơn, chẳng bằng tìm cơ hội đi Tương Bình tìm đến Công Tôn Khang cho rồi.
Viên Hi bưng một bát đầy rượu sữa ngựa lên uống một ngụm, trầm tư chốc lát, nói:
- Đệ biết ta có ý tưởng gì không? Ta muốn mượn năm ngàn kỵ binh Ô Hoàn đi tấn công Cao Câu Ly (tức Cao Ly sau này), tiêu diệt Cao Câu Ly và Tân La, thì chúng ta đã có căn cơ rồi.
- Nhưng Đạp Đốn sẽ cho mượn binh sao?
- Cho hắn một chút lợi ích, chia sẻ phân nửa nhân khẩu và quốc khố của Cao Câu Ly, hắn liền đồng ý ngay, loại người chỉ nhận lợi ích thế này, kỳ thực cũng dễ xử lý.
Lúc này, bên cạnh truyền đến một tiếng cười chói tai.
- Hai huynh đệ các ngài rủ rỉ rù rì cái gì đấy? Nói ra cho mọi người nghe một chút đi.
Người đang nói chuyện chính là Đại Thiền Vu Đạp Đốn, y đã hơn bốn mươi tuổi, thân hình cao lớn vạm vỡ, có một chùm râu rậm rạm, hai mắt nhỏ tí, lộ ra vẻ xảo trá, bất kể xuân hạ thu đông, trên đầu đều đội một chiếc mũ bằng da gấu chó.
Lúc còn trẻ Đạp Đốn từng được vinh dự làm Ô Hoàn đệ nhất dũng sỹ, có thể vật hổ giết gấu, sức mạnh ghê gớm vô cùng, y dùng một cây Lang Nha Bổng nặng sáu mươi cân, lúc hai mươi đã kế nhiệm chức Đại Thiền Vu, đến nay đã hơn hai mươi năm.
Y lãnh đạo người Ô Hoàn không ngừng cướp đoạt người Hán, đem nhân khẩu và của cải chuyển đi, khiến người Ô Hoàn dần dần trở nên cường đại.
Y luôn chú ý huynh đệ Viên thị, thấy hai người xì xào bàn tán, vẻ mặt rất thận trọng, trong lòng liền có chút không vui.
- Nói ra đi, để cho ta nghe thử.
Viên Hi đứng dậy thi lễ cười nói:
- Chúng ta đang phân tích mưu kế của Tào Tháo, người này tâm kế thâm sâu, y bảo là rút quân, có thể là kế hoãn binh, mê hoặc chúng ta, nói không chừng y đã lén dụng binh rồi.
Đạp Đốn cười phá lên:
- Y làm cách nào mà lén dụng binh được? Dưới cơn mưa to mấy ngày liền, đường sá đều bị hư hỏng, trở thành cả một biển nước, kỵ binh của ta dốc hết sức mới qua được vùng nước như vậy, mấy mươi vạn đại quân bọn chúng làm thế nào mà đi, còn quân nhu lương thảo thì phải làm sao? Hi công tử, ngài lo lắng quá nhiều rồi.
- Nếu y đi theo con đường khác tới đây thì sao?
Viên Thượng nhịn không được nói ra.
- Y chắp cánh mà bay tới sao?
Đạp Đốn trêu đùa một câu, trong đại trướng lập tức cười ồ lên.
Đúng lúc này, một tên binh sỹ gấp rút chạy vào bẩm báo:
- Khởi bẩm Đại Thiền Vu, ở phía tây ngoài trăm dặm phát hiện mấy mươi vạn đại quân của Tào Tháo, đang ùn ùn đánh tới chỗ chúng ta!
Mọi người trong đại trướng chốc lát sợ run lên, quân Tào thật sự đã chắp cánh bay tới rồi, bỗng nhiên Đạp Đốn ném mạnh bát rượu, hét lớn:
- Sai đại quân của chúng ta giết sạch bọn chung đi! Truyền mệnh lệnh của ta, tất cả đàn ông đều mặc giáp lên ngựa, chuẩn bị nghênh chiến quân Tào!
Trải qua gần nửa tháng hành quân gian khổ, mười vạn quân Tào rốt cuộc đã tới gần nha trướng của Đại Thiền Vu trăm dặm, bọn họ đã không ngừng chạm trán với các bộ lạc nhỏ của Ô Hoàn, tiến hành giết chóc và cướp bóc, đoạt lấy dê cừu của người Ô Hoàn để làm quân lương.
Quân Tào từ huyện Vô Chung mang hai mươi vạn đại quân xuất phát, dọc đường gặp ba trận mưa to, vừa đói vừa rét, rất nhiều binh sỹ đều ngã bệnh, quân số bị giảm vô cùng nghiêm trọng, ngay cả Trình Dục cũng ngã bệnh, Tào Tháo bất đắc dĩ, đành phải chỉnh đốn quân đội một lần nữa ở Bình Cương, để binh sỹ bệnh yếu ở lại nghỉ ngơi, y đích thân dẫn mười vạn tinh binh tiếp tục đông chinh.
Buổi chiều hôm nay, Tào Tháo đã nhìn thấy Bạch Lang sơn ở phía xa, đây là một dãy núi kéo dài hơn trăm dặm, cao ở phía nam thấp dần về phía bắc, nơi mà Tào Tháo hiện tại đang thấy chính là một nhánh thuộc Bạch Lang sơn, có vẻ là một ngọn đồi thấp và tròn trĩnh, cao vài trăm thước, dốc khá bằng phẳng, kỵ binh có thể trực tiếp phóng ngựa lên đỉnh đồi.
Lúc này, một gã thám báo hối hả chạy đến chỗ Tào Tháo, cao giọng bẩm báo:
- Khởi bẩm Thừa tướng, thám báo ở phía trước phát hiện quân chủ lực của Ô Hoàn, ước chừng hơn năm vạn người, toàn bộ đều là kỵ binh, đang chạy về hướng bên này, cách chúng ta khoảng ba mươi dặm.
Đại tướng Từ Hoảng bên cạnh có chút kinh ngạc, nói:
- Ô Hoàn không phải tự xưng là có mười vạn giáp kỵ binh ư? Sao lại chỉ có hơn năm vạn quân?
Tào Tháo cười khẩy một tiếng.
- Các bộ tộc Ô Hoàn phân tán nhiều nơi, phần lớn đều ở cách xa nhau mấy trăm dặm, nếu muốn tập trung binh lực, chí ít phải mười bữa nửa tháng, làm sao đến ngay được, đây là bộ lạc kỵ binh của nha trướng, Đạp Đốn tất ở trong đó, truyền mệnh lệnh của ta, đại quân tăng tốc hành quân, đánh chiếm Bạch Lang sơn.
Mười vạn quân Tào đã gần đến Bạch Lang sơn, không lâu sau, quân Tào đã chiếm được Bạch Lang sơn, mười vạn đại quân tràn lên đỉnh núi như một bầy kiến, lúc này từ xa bọn họ đã thấy kỵ binh Ô Hoàn đánh tới như che trời phủ đất, cát bụi che lấp cả bầu trời, tiếng vó ngựa như sấm rền từ phía chân trời lướt qua, mặt đất rung động, dường như đến cả ngọn núi cũng bị lung lay.
Thanh thế này khiến quân Tào hoảng sợ, rất nhiều người trong mắt đã lộ vẻ sợ hãi, bọn họ phần lớn đều là bộ binh, chỉ có bốn ngàn kỵ binh, làm sao có thể địch nổi năm ngàn kỵ binh, đến cả tướng lĩnh cũng bắt đầu cảm thấy bất an.
Ánh mắt lạnh lùng của Tào Tháo chăm chú nhìn vào đoàn kỵ binh đã đến dưới chân núi, y thân kinh bách chiến, kinh nghiệm phong phú dị thường, y không khỏi cười khẩy một tiếng, hỏi Trương Liêu bên cạnh:
- Văn Viễn đã phát hiện ra nhược điểm của kỵ binh người Hồ rồi sao?
Trương Liêu gật gật đầu, trầm giọng nói:
- Đội ngũ bọn chúng hỗn loạn, căn bản không có kết cấu gì, giống như một đám ô hợp chắp vá lại mà thành, chỉ là do nhiều người mà thanh thế có vẻ lớn, đội quân kiểu này toàn là dựa vào nhất cổ tác khí (2), không đánh được lâu, gặp chút dao động sẽ đại bại.
(2) Nhất cổ tác khí: Trong "Tả truyện Trang Công thập niên" có viết: "Phu chiến, dũng khí dã. Nhất cổ tác khí, tái nhi suy, tam nhi kiệt". (Dịch nghĩa: Khi đánh trận, là so dũng khí. Một tiếng trống làm sỹ khí hăng hái, tiếng thứ hai sỹ khí sẽ giảm, tiếng thứ ba sẽ không còn sỹ khí). Ý câu này là khi còn hăng hái hãy làm một mạch cho xong.
- Ngươi nói không sai, bọn chúng chính là một đám ô hợp, buổi sáng vẫn là dân du mục, bây giờ lại tạm thời trở thành quân đội, không đủ gây uy hiếp!
Tào Tháo quay đầu lại ra lệnh:
- Trương Liêu, Từ Hoảng, Hứa Chử, Trương Cáp, Hạ Hầu Đôn đâu?
Năm vị Đại tướng đồng loạt tiến lên lĩnh mệnh, Tào Tháo cởi Hoàng Kim Khải Giáp của mình xuống, nói với chúng tướng:
- Các ngươi mỗi người dẫn hai vạn quân giết xuống dưới núi, ai giết được Đạp Đốn, bộ giáp này sẽ ban cho người đó, lại truyền lệnh xuống tam quân, giết địch một tên, thưởng mười mẫu ruộng, năm ngàn tiền, người nhà được miễn thuế một năm, không có giới hạn.
- Tuân lệnh!
Mọi người cao giọng lĩnh mệnh, xoa xoa hai tay, mỗi người tự đi thống lĩnh đội quân của mình, nửa canh giờ sau, Tào Tháo chia quân thành năm đường giết xuống Bạch Lang sơn, mười vạn quân Tào ai ai cũng anh dũng tranh lên trước, giống như năm thanh chiến đao sắc bén linh hoạt, bổ về phía đoàn kỵ binh Ô Hoàn.