áng sớm hôm sau, Reuben báo cáo cho Stone nghe rằng không có động tĩnh gì từ nhà của DeHaven cả cũng giống như đêm hôm trước.
“Không có gì à?”, giọng Stone nghi ngờ.
“Không có động tĩnh gì trong phòng ngủ nếu đó là những gì anh muốn biết. Tôi có thấy Behan và vợ hắn về nhà lúc nửa đêm nhưng mà rõ ràng đèn phòng không sáng, và họ cũng không dùng phòng đó, chắc nó chỉ dành cho mấy cô em xinh đẹp mà thôi”.
“Anh có nhìn thấy gì khác không? Xe tải màu trắng chẳng hạn”.
“Không, tôi ra vào căn nhà này mà có ai biết gì đâu. Có một hàng rào cao cả mười feet1 che phủ cả sân sau, chuông báo động ngay phía cửa hông sau, thế là cũng nhiều thứ lắm rồi”.
“Anh có chắc là anh không quan sát ra thứ gì có thể giúp chúng ta sao?”
Reuben nhìn có vẻ không chắc lắm, “có vẻ như là thế, nhưng vào khoảng 1 giờ sáng sớm tôi thấy ánh sáng nhá lên từ cửa sổ căn nhà đối diện”.
“Có khi là chủ nhà đang ở trong ấy”.
“Vấn đề là ở chỗ đó, nhìn chẳng giống như nhà có chủ. Chẳng thấy xe hơi lẫn thùng rác trước cửa nhà, và hôm nay cũng là ngày đổ rác vì những nhà khác đã để sẵn rác ra ngoài từ tối hôm qua”.
Stone nhìn Reuben chăm chú, “Điều này hay nhỉ. Có khi nào ánh sáng ấy xuất phát từ cái gì đó có dính dáng đến kính”.
“Chắc không phải liên quan đến súng đâu, nhưng có thể là một cặp ống nhòm”.
“Vậy thì cứ để ý chỗ đó kỹ vào. Vậy còn việc gọi cảnh sát thì sao?”
“Tôi gọi điện thoại thẻ giống như anh nói, nhưng chuyện không vui vẻ gì mấy khi có một người phụ nữ bảo tôi ngừng ngay việc quay số đến cảnh sát liên tục như vậy”.
“Thôi được rồi, gọi và báo cho tôi biết công việc của anh vào sáng mai”.
“Tốt, nhưng thế thì khi nào tôi mới được ngủ đây, Oliver? Tôi phải chuẩn bị đến khu bốc dỡ hàng, và chắc là bận cả tối”.
“Khi nào anh hết ca?”
“Hai giờ sáng”. “Vậy thì đi ngủ đi. Phải tới 10 giờ hơn tôi mới cần anh có mặt tại nhà của Jonathan”.
“Cám ơn nhiều. Ít ra tôi cũng có thể dùng tạm thức ăn của ông ta nhé?”
“Cũng được, miễn anh thêm thức ăn mới vào chỗ cũ là được”.
Reuben bực bội, “Này anh bạn, đừng tưởng cứ sống trong lâu đài là sung sướng nhé”.
“Nhưng mà, anh đâu có thiếu thứ gì đâu”.
“Vậy trong lúc tôi cực khổ ngoài này, Bệ hạ sẽ làm gì ạ?”
“Bệ hạ sẽ suy nghĩ”.
“Thế anh có tin gì của Susan không?”, Reuben háo hức.
“Chẳng có một tí gì cả”.
Nửa giờ sau trong lúc Stone đang làm việc ngoài khuôn viên nghĩa trang thì một chiếc tắc-xi dừng phía cổng, Milton bước xuống. Stone đứng lên, phủi tay và cả hai cùng vào nhà. Trong lúc Stone lấy nước chanh uống thì Milton tranh thủ mở máy tính xách tay và lấy ra một xấp tài liệu ông ta mang theo.
“Tôi tìm ra được nhiều điều hay về hai gã Cornelius Behan và Robert Bradley”, Milton giải thích, “Chỉ có điều không biết liệu có hữu ích hay không”.
Stone ngồi xuống bàn và kéo xấp tài liệu về phía mình, hai mươi phút sau ông ngẩng lên và nói, “Có vẻ như hai gã này chẳng phải bạn bè gì nhỉ”.
“Chính xác hơn phải gọi là kẻ thù mới đúng. Mặc dù công ty của Behan đã chiếm được hai hợp đồng của chính phủ, nhưng Bradley lại là kẻ phá bĩnh cản trở ba hợp đồng khác, bằng cách phao tin rằng Behan đã mua chuộc chính quyền. Tôi có được thông tin này từ một số tay nhân viên của điện Capitol đấy. Họ cũng chẳng nói thẳng ra điều đó, chỉ là họ tiết lộ rằng lúc sau này chính Bradley đã thẳng thừng công kích Behan, nói gã là một tay tham ô xấu xa. Mà sự việc xảy ra cũng không cho chúng ta thấy liệu họ có nằm trong một tổ chức gián điệp nào không”.
“Dĩ nhiên là thế, trừ phi chỉ là màn đánh lừa. Nhưng tôi đồng ý với tay Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng quá cố rằng tên Behan đó đã tham ô. Nhưng liệu gã có phải là tên xấu xa đã ra tay giết người? Chuyện của Jonathan là một bằng chứng rõ ràng nhất”.
“Vậy cũng có thể suy đoán rằng Behan cũng đã sai người giết Bradley bởi vì hắn có động lực mạnh mẽ nếu như gã kia đang cố phá chuyện làm ăn của hắn”.
Stone nói tiếp, “Chúng ta đặt giả thuyết rằng Jonathan bị đầu độc bằng khí cacbonnic, và cái thứ khí gây chết người kia thuộc về một trong số công ty của Behan. Hôm qua Caleb vừa gọi cho tôi, báo cáo tình hình điều tra của anh ta, về việc anh ta vào phòng sách và kiểm tra phía sau lỗ thông gió bị bẻ cong. Có một lỗ đinh ốc ở phía vách ống dẫn, nơi bị nghi ngờ là từng gắn máy quay phim. Anh ta còn cho biết những con ốc phía tấm lưới sắt bên ngoài cũng dễ tháo ra cứ như đã từng có người làm điều đó trước đấy. Nhưng vẫn chưa đủ bằng chứng xác thực rằng máy quay phim thật sự đã được gắn ở đấy”.
“Vậy nếu như chúng không là đồng bọn với nhau, Jonathan cũng chẳng thể gặp chúng ở nhà gã Behan. Vậy sao vẫn giết hại ông ta nhỉ?”
Stone lắc đầu, “Tôi cũng chẳng biết, Milton ạ”.
Sau khi Milton đi rồi, Stone trở lại với công việc tại nghĩa trang. Ông kéo chiếc máy cắt cỏ ra khỏi kho, nổ máy và làm việc trên khoảnh sân phía bên trái căn nhà. Khi xong việc, ông tạm ngưng máy, quay lưng lại và thấy Annabelle đã ở đó, quan sát ông. Cô ta đội một chiếc mũ rộng vành, đeo kính râm và khoác áo khoác bằng da dài màu nâu phủ kín váy ngắn bên trong, phía sau cô ta là một chiếc xe hơi thuê chờ sẵn ngoài cổng.
Ông dùng khăn lau mặt, đẩy máy cắt cỏ vào khoảnh sân phía trước nhà nơi Annabelle đang đứng. Cô ta đẩy cặp kính râm lên và hỏi.
“Mọi việc thế nào rồi anh Oliver?”
Ông im lặng trong một lúc rồi mới cất lời, “Nhìn cô có vẻ giống như chuẩn bị đi đâu à?”.
“Vâng, đó là lý do tôi đến đây để báo cho anh về sự thay đổi trong kế hoạch. Vài giờ nữa tôi cất cánh rồi, và sẽ không quay lại”.
“Thật vậy ư?”
“Đúng vậy”, giọng cô ta cương quyết.
“Vâng, tôi chẳng trách cô đâu, chuyện đang dần nguy hiểm hơn”.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt ông, “Nếu anh nghĩ điều đó là nguyên nhân khiến tôi bỏ đi, thì anh không phải là người thông minh như tôi tưởng”.
Ông nhìn cô ta một lát rồi chống chế, “Vậy thì kẻ nào đang tìm cô chắc cũng phải nguy hiểm không kém”.
“Anh cứ xem tôi là một người cũng phải có kẻ thù đi”.
“Tôi không đi tìm kẻ thù, chỉ là họ quyết tâm tìm ra tôi mà thôi”.
“Ước gì tôi có thể kể ra, tôi lại có xu hướng tạo kẻ thù đấy”.
“Vậy cô có tính nói cho những người kia biết không?”
Cô lắc đầu, “Tôi hy vọng anh sẽ giúp tôi làm điều đó”.
“Chắc bọn họ sẽ buồn lắm đấy, nhất là Reuben, còn về phần Milton thì tôi chưa bao giờ thấy anh ta vui vẻ như vậy trong thời gian cô đến đây. Anh bạn Caleb tuy bề ngoài có hơi lạnh lùng chút, nhưng anh ta sẽ cũng chẳng vui gì hơn”.
“Thế còn anh thì sao?”, cô ta hỏi, mặt cúi gằm.
Ông dùng mũi giày bốt gạt đám cỏ khỏi bánh xe máy cắt cỏ, “Cô cũng có vài tài lẻ đáng ngạc nhiên đấy”.
“Ý anh đang nhắc đến chuyện tôi móc túi anh à. Mà chuyện đó cũng chỉ xảy ra từ hồi nảo hồi nao rồi, từ lúc tôi lên tám đấy”, cô ta nhìn ông với ánh mắt dò xét.
“Tôi chắc cô lúc đó là một bé gái khôn lanh lắm nhỉ”.
Cô ta nở một nụ cười mỉm, “Dù sao thì lúc đó cũng là thời gian vui vẻ. Các anh bảo trọng nhé, giống như anh từng nói, kẻ thù luôn tìm các anh mà”.
Cô ta quay lưng, rảo bước.
“Susan, nếu chúng tôi tìm ra được lời giải đáp, liệu cô có muốn chúng tôi liên lạc với cô, cho cô biết về vụ của Jonathan không?”
Cô ta quay lại và nhìn ông, “Tôi nghĩ tôi nên để quá khứ ngủ yên”.
“Còn tôi lại nghĩ cô muốn biết, vì mất đi vị hôn phu theo cách như vậy không dễ quên đâu”.
“Anh có vẻ từng trải quá nhỉ?”
“Tôi cũng từng có vợ mà. Nhưng cũng lâu lắm rồi”.
“Anh chị ly dị à?”
“Không phải”.
“Nhưng chuyện của tôi và Jonathan lại khác. Chính ông ấy đã quyết định chấm dứt cuộc hôn nhân, còn tôi cũng chẳng biết sao mình đang ở đây”.
“Tôi hiểu. Vậy thì liệu tôi có thể nhận lại tấm hình không?”
“Sao cơ?”, cô ta giật mình.
“Hình Jonathan. Tôi muốn trả hình về nhà ông ta”.
“À... tôi không có mang theo đây”.
“Vậy thì khi cô đến nơi đâu, nếu tiện, cô gửi trả lại cũng được”.
“Anh có vẻ tin người quá đáng đấy, Oliver. Chẳng có gì có thể khiến tôi trả tấm hình lại cả”.
“Vâng, đúng thế. Không có gì”.
Cô ta tò mò nhìn ông, “Anh là một trong số những người kỳ lạ mà tôi từng gặp, và điều đó cũng nói lên chút gì đó”.
“Cô phải lên đường thôi, chắc cô không muốn lỡ chuyến bay đâu nhỉ”.
Cô ta liếc nhìn những ngôi mộ xung quanh, “Anh không thấy mình đang bị vây quanh bởi sự chết chóc ư. Cảm giác thật u ám. Đã đến lúc anh cần tìm một công việc khác rồi đấy”.
“Cô cảm nhận được cái chết và nỗi buồn dưới lớp đất lạnh kia, còn tôi, tôi lại thấy cuộc đời đã toàn vẹn, và những gì thế hệ đi trước đã làm có ảnh hưởng sâu sắc đến lớp trẻ tương lai”.
“Triết lý vị tha quá, tôi không thấu hiểu nổi đâu”.
“Tôi cũng từng nghĩ vậy”.
“Chúc may mắn”, cô ta bắt đầu quay đi.
“Nếu cô cần một người bạn, cô biết tìm tôi ở đâu rồi đấy”.
Bờ vai cô ta hơi sững lại trong chốc lát khi nghe ông nói lời này. Rồi cô ta đi mất. Về phần mình, Stone cất máy cắt cỏ vào kho, sau đó ra ngồi phía ngoài hè, lặng ngắm những nấm mồ xung quanh ông trong cái lành lạnh của cơn gió ngang qua.
Chú thích
1. Đơn vị đo độ dài (1feet = 0,3048 m)
áng sớm hôm sau, Reuben báo cáo cho Stone nghe rằng không có động tĩnh gì từ nhà của DeHaven cả cũng giống như đêm hôm trước.
“Không có gì à?”, giọng Stone nghi ngờ.
“Không có động tĩnh gì trong phòng ngủ nếu đó là những gì anh muốn biết. Tôi có thấy Behan và vợ hắn về nhà lúc nửa đêm nhưng mà rõ ràng đèn phòng không sáng, và họ cũng không dùng phòng đó, chắc nó chỉ dành cho mấy cô em xinh đẹp mà thôi”.
“Anh có nhìn thấy gì khác không? Xe tải màu trắng chẳng hạn”.
“Không, tôi ra vào căn nhà này mà có ai biết gì đâu. Có một hàng rào cao cả mười feet che phủ cả sân sau, chuông báo động ngay phía cửa hông sau, thế là cũng nhiều thứ lắm rồi”.
“Anh có chắc là anh không quan sát ra thứ gì có thể giúp chúng ta sao?”
Reuben nhìn có vẻ không chắc lắm, “có vẻ như là thế, nhưng vào khoảng giờ sáng sớm tôi thấy ánh sáng nhá lên từ cửa sổ căn nhà đối diện”.
“Có khi là chủ nhà đang ở trong ấy”.
“Vấn đề là ở chỗ đó, nhìn chẳng giống như nhà có chủ. Chẳng thấy xe hơi lẫn thùng rác trước cửa nhà, và hôm nay cũng là ngày đổ rác vì những nhà khác đã để sẵn rác ra ngoài từ tối hôm qua”.
Stone nhìn Reuben chăm chú, “Điều này hay nhỉ. Có khi nào ánh sáng ấy xuất phát từ cái gì đó có dính dáng đến kính”.
“Chắc không phải liên quan đến súng đâu, nhưng có thể là một cặp ống nhòm”.
“Vậy thì cứ để ý chỗ đó kỹ vào. Vậy còn việc gọi cảnh sát thì sao?”
“Tôi gọi điện thoại thẻ giống như anh nói, nhưng chuyện không vui vẻ gì mấy khi có một người phụ nữ bảo tôi ngừng ngay việc quay số đến cảnh sát liên tục như vậy”.
“Thôi được rồi, gọi và báo cho tôi biết công việc của anh vào sáng mai”.
“Tốt, nhưng thế thì khi nào tôi mới được ngủ đây, Oliver? Tôi phải chuẩn bị đến khu bốc dỡ hàng, và chắc là bận cả tối”.
“Khi nào anh hết ca?”
“Hai giờ sáng”. “Vậy thì đi ngủ đi. Phải tới giờ hơn tôi mới cần anh có mặt tại nhà của Jonathan”.
“Cám ơn nhiều. Ít ra tôi cũng có thể dùng tạm thức ăn của ông ta nhé?”
“Cũng được, miễn anh thêm thức ăn mới vào chỗ cũ là được”.
Reuben bực bội, “Này anh bạn, đừng tưởng cứ sống trong lâu đài là sung sướng nhé”.
“Nhưng mà, anh đâu có thiếu thứ gì đâu”.
“Vậy trong lúc tôi cực khổ ngoài này, Bệ hạ sẽ làm gì ạ?”
“Bệ hạ sẽ suy nghĩ”.
“Thế anh có tin gì của Susan không?”, Reuben háo hức.
“Chẳng có một tí gì cả”.
Nửa giờ sau trong lúc Stone đang làm việc ngoài khuôn viên nghĩa trang thì một chiếc tắc-xi dừng phía cổng, Milton bước xuống. Stone đứng lên, phủi tay và cả hai cùng vào nhà. Trong lúc Stone lấy nước chanh uống thì Milton tranh thủ mở máy tính xách tay và lấy ra một xấp tài liệu ông ta mang theo.
“Tôi tìm ra được nhiều điều hay về hai gã Cornelius Behan và Robert Bradley”, Milton giải thích, “Chỉ có điều không biết liệu có hữu ích hay không”.
Stone ngồi xuống bàn và kéo xấp tài liệu về phía mình, hai mươi phút sau ông ngẩng lên và nói, “Có vẻ như hai gã này chẳng phải bạn bè gì nhỉ”.
“Chính xác hơn phải gọi là kẻ thù mới đúng. Mặc dù công ty của Behan đã chiếm được hai hợp đồng của chính phủ, nhưng Bradley lại là kẻ phá bĩnh cản trở ba hợp đồng khác, bằng cách phao tin rằng Behan đã mua chuộc chính quyền. Tôi có được thông tin này từ một số tay nhân viên của điện Capitol đấy. Họ cũng chẳng nói thẳng ra điều đó, chỉ là họ tiết lộ rằng lúc sau này chính Bradley đã thẳng thừng công kích Behan, nói gã là một tay tham ô xấu xa. Mà sự việc xảy ra cũng không cho chúng ta thấy liệu họ có nằm trong một tổ chức gián điệp nào không”.
“Dĩ nhiên là thế, trừ phi chỉ là màn đánh lừa. Nhưng tôi đồng ý với tay Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng quá cố rằng tên Behan đó đã tham ô. Nhưng liệu gã có phải là tên xấu xa đã ra tay giết người? Chuyện của Jonathan là một bằng chứng rõ ràng nhất”.
“Vậy cũng có thể suy đoán rằng Behan cũng đã sai người giết Bradley bởi vì hắn có động lực mạnh mẽ nếu như gã kia đang cố phá chuyện làm ăn của hắn”.
Stone nói tiếp, “Chúng ta đặt giả thuyết rằng Jonathan bị đầu độc bằng khí cacbonnic, và cái thứ khí gây chết người kia thuộc về một trong số công ty của Behan. Hôm qua Caleb vừa gọi cho tôi, báo cáo tình hình điều tra của anh ta, về việc anh ta vào phòng sách và kiểm tra phía sau lỗ thông gió bị bẻ cong. Có một lỗ đinh ốc ở phía vách ống dẫn, nơi bị nghi ngờ là từng gắn máy quay phim. Anh ta còn cho biết những con ốc phía tấm lưới sắt bên ngoài cũng dễ tháo ra cứ như đã từng có người làm điều đó trước đấy. Nhưng vẫn chưa đủ bằng chứng xác thực rằng máy quay phim thật sự đã được gắn ở đấy”.
“Vậy nếu như chúng không là đồng bọn với nhau, Jonathan cũng chẳng thể gặp chúng ở nhà gã Behan. Vậy sao vẫn giết hại ông ta nhỉ?”
Stone lắc đầu, “Tôi cũng chẳng biết, Milton ạ”.
Sau khi Milton đi rồi, Stone trở lại với công việc tại nghĩa trang. Ông kéo chiếc máy cắt cỏ ra khỏi kho, nổ máy và làm việc trên khoảnh sân phía bên trái căn nhà. Khi xong việc, ông tạm ngưng máy, quay lưng lại và thấy Annabelle đã ở đó, quan sát ông. Cô ta đội một chiếc mũ rộng vành, đeo kính râm và khoác áo khoác bằng da dài màu nâu phủ kín váy ngắn bên trong, phía sau cô ta là một chiếc xe hơi thuê chờ sẵn ngoài cổng.
Ông dùng khăn lau mặt, đẩy máy cắt cỏ vào khoảnh sân phía trước nhà nơi Annabelle đang đứng. Cô ta đẩy cặp kính râm lên và hỏi.
“Mọi việc thế nào rồi anh Oliver?”
Ông im lặng trong một lúc rồi mới cất lời, “Nhìn cô có vẻ giống như chuẩn bị đi đâu à?”.
“Vâng, đó là lý do tôi đến đây để báo cho anh về sự thay đổi trong kế hoạch. Vài giờ nữa tôi cất cánh rồi, và sẽ không quay lại”.
“Thật vậy ư?”
“Đúng vậy”, giọng cô ta cương quyết.
“Vâng, tôi chẳng trách cô đâu, chuyện đang dần nguy hiểm hơn”.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt ông, “Nếu anh nghĩ điều đó là nguyên nhân khiến tôi bỏ đi, thì anh không phải là người thông minh như tôi tưởng”.
Ông nhìn cô ta một lát rồi chống chế, “Vậy thì kẻ nào đang tìm cô chắc cũng phải nguy hiểm không kém”.
“Anh cứ xem tôi là một người cũng phải có kẻ thù đi”.
“Tôi không đi tìm kẻ thù, chỉ là họ quyết tâm tìm ra tôi mà thôi”.
“Ước gì tôi có thể kể ra, tôi lại có xu hướng tạo kẻ thù đấy”.
“Vậy cô có tính nói cho những người kia biết không?”
Cô lắc đầu, “Tôi hy vọng anh sẽ giúp tôi làm điều đó”.
“Chắc bọn họ sẽ buồn lắm đấy, nhất là Reuben, còn về phần Milton thì tôi chưa bao giờ thấy anh ta vui vẻ như vậy trong thời gian cô đến đây. Anh bạn Caleb tuy bề ngoài có hơi lạnh lùng chút, nhưng anh ta sẽ cũng chẳng vui gì hơn”.
“Thế còn anh thì sao?”, cô ta hỏi, mặt cúi gằm.
Ông dùng mũi giày bốt gạt đám cỏ khỏi bánh xe máy cắt cỏ, “Cô cũng có vài tài lẻ đáng ngạc nhiên đấy”.
“Ý anh đang nhắc đến chuyện tôi móc túi anh à. Mà chuyện đó cũng chỉ xảy ra từ hồi nảo hồi nao rồi, từ lúc tôi lên tám đấy”, cô ta nhìn ông với ánh mắt dò xét.
“Tôi chắc cô lúc đó là một bé gái khôn lanh lắm nhỉ”.
Cô ta nở một nụ cười mỉm, “Dù sao thì lúc đó cũng là thời gian vui vẻ. Các anh bảo trọng nhé, giống như anh từng nói, kẻ thù luôn tìm các anh mà”.
Cô ta quay lưng, rảo bước.
“Susan, nếu chúng tôi tìm ra được lời giải đáp, liệu cô có muốn chúng tôi liên lạc với cô, cho cô biết về vụ của Jonathan không?”
Cô ta quay lại và nhìn ông, “Tôi nghĩ tôi nên để quá khứ ngủ yên”.
“Còn tôi lại nghĩ cô muốn biết, vì mất đi vị hôn phu theo cách như vậy không dễ quên đâu”.
“Anh có vẻ từng trải quá nhỉ?”
“Tôi cũng từng có vợ mà. Nhưng cũng lâu lắm rồi”.
“Anh chị ly dị à?”
“Không phải”.
“Nhưng chuyện của tôi và Jonathan lại khác. Chính ông ấy đã quyết định chấm dứt cuộc hôn nhân, còn tôi cũng chẳng biết sao mình đang ở đây”.
“Tôi hiểu. Vậy thì liệu tôi có thể nhận lại tấm hình không?”
“Sao cơ?”, cô ta giật mình.
“Hình Jonathan. Tôi muốn trả hình về nhà ông ta”.
“À... tôi không có mang theo đây”.
“Vậy thì khi cô đến nơi đâu, nếu tiện, cô gửi trả lại cũng được”.
“Anh có vẻ tin người quá đáng đấy, Oliver. Chẳng có gì có thể khiến tôi trả tấm hình lại cả”.
“Vâng, đúng thế. Không có gì”.
Cô ta tò mò nhìn ông, “Anh là một trong số những người kỳ lạ mà tôi từng gặp, và điều đó cũng nói lên chút gì đó”.
“Cô phải lên đường thôi, chắc cô không muốn lỡ chuyến bay đâu nhỉ”.
Cô ta liếc nhìn những ngôi mộ xung quanh, “Anh không thấy mình đang bị vây quanh bởi sự chết chóc ư. Cảm giác thật u ám. Đã đến lúc anh cần tìm một công việc khác rồi đấy”.
“Cô cảm nhận được cái chết và nỗi buồn dưới lớp đất lạnh kia, còn tôi, tôi lại thấy cuộc đời đã toàn vẹn, và những gì thế hệ đi trước đã làm có ảnh hưởng sâu sắc đến lớp trẻ tương lai”.
“Triết lý vị tha quá, tôi không thấu hiểu nổi đâu”.
“Tôi cũng từng nghĩ vậy”.
“Chúc may mắn”, cô ta bắt đầu quay đi.
“Nếu cô cần một người bạn, cô biết tìm tôi ở đâu rồi đấy”.
Bờ vai cô ta hơi sững lại trong chốc lát khi nghe ông nói lời này. Rồi cô ta đi mất. Về phần mình, Stone cất máy cắt cỏ vào kho, sau đó ra ngồi phía ngoài hè, lặng ngắm những nấm mồ xung quanh ông trong cái lành lạnh của cơn gió ngang qua.
Chú thích
. Đơn vị đo độ dài (feet = , m)