Stone và những người bạn đi theo thang cuốn ra khỏi ga tàu điện ngầm cùng với hàng trăm người trong tình trạng lo sợ. Tiếng còi hụ vang khắp nơi, và cảnh sát thì phong tỏa khu vực xảy ra sự việc, trong lúc đó họ bước ra tới đường mà không rõ bước kế tiếp sẽ làm gì.
“Cám ơn trời anh Caleb của chúng ta vẫn bình yên vô sự”, Milton nói.
“Hiển nhiên rồi”, Reuben vui vẻ choàng vai Caleb, “Chúng tôi biết làm gì nếu không có anh để chọc ghẹo đây?”
“Sao anh bị bắt cóc vậy?”, Stone tò mò.
Caleb nhanh chóng giải thích về người tự nhận là William Foxworth, “Hắn bảo hắn có sách cho tôi xem qua, rồi sau đó tôi không biết gì nữa”.
Stone tiếp tục, “Vậy là hắn dùng tên Foxworth à?”
“Vâng, tôi thấy ghi như thế trên thẻ thư viện, chắc chắn hắn phải trình thẻ căn cước để làm thẻ mà”.
“Rõ ràng đó không phải tên thật của hắn. Nhưng cũng may chúng ta đã thấy khuôn mặt của hắn”.
“Giờ chúng ta làm gì đây?”, Annabelle hỏi.
“Tôi vẫn không hiểu về cái loại hóa chất được dùng trong quyển sách”, Milton lên tiếng, “Albert Trent làm nhân viên của tổ chức tình báo, hắn có thông tin mật, chuyển cho kẻ nào đó, nhưng là ai mới được. Sao bọn chúng lại dùng sách trong phòng đọc nơi bà lão English Jewell và cả Norman Janklow có thể tìm ra, sử dụng loại kính đặc biệt để viết chúng lại?”
Trong lúc mọi người vẫn thắc mắc, Stone gọi điện thoại cho Alex Ford, họ vẫn đang tìm Trent nhưng Ford khuyên Stone và những người khác nên ngừng cuộc truy đuổi. “Chẳng có nghĩa lý gì để dấn thân thêm vào nguy hiểm cả, anh làm đủ rồi”.
Sau đó Stone kể lại cho mọi người, Caleb lên tiếng, “Vậy chúng ta đi đâu đây? Về nhà à?”
Stone lắc đầu, “Thư viện Quốc hội cũng gần đây, tôi muốn đến đó”.
Caleb thắc mắc tại sao. “Bởi vì đó là nơi mọi thứ bắt đầu, vả lại muốn tìm câu trả lời thì thư viện là nơi tốt nhất còn gì?”
Caleb giúp các bạn của mình vào thư viện nhưng không ai vào phòng đọc được do chủ nhật thư viện không làm việc. Trong lúc đi dọc theo sảnh, Stone nói với các bạn của mình, “Tôi vẫn không hiểu rõ về khoảng thời gian của các sự kiện”. Ông ngừng lại một chút, tổng hợp suy nghĩ, “Cách đây hai ngày bà Jewell English đến thư viện, chữ được đánh dấu nằm trong quyển sách Beadle đó. Vào buổi tối cùng ngày, khi chúng ta cầm quyển sách trong tay nó lại biến mất. Thời gian rất chặt chẽ đấy chứ”.
Caleb đồng tình, “Chuyện đó thật đáng kinh ngạc bởi vì hầu hết sách trong khu đó đều hiếm có người mượn đọc trong vài năm, thậm chí vài thập niên. Việc đánh dấu phải được thể hiện lên từng chữ, rồi Jewell sẽ được báo phải mượn quyển sách nào, rồi như anh nhận xét, trong cùng ngày dòng chữ đánh dấu lại biến mất”.
Stone ngừng đi qua đi lại, ông dựa người vào một trụ cẩm thạch, “Vả lại sao họ biết cái mốc thời gian như vậy sẽ có tác dụng? Không ai muốn những chữ được đánh dấu như vậy tồn tại quá lâu trên giấy phòng trường hợp cảnh sát mó tay vào. Thật vậy, nếu chúng ta hành động nhanh hơn, có thể chúng ta đã giao cho FBI quyển sách trước khi hóa chất bốc hơi, như vậy rõ ràng là hóa chất phải có tác dụng gần với thời gian bà English bước vào”.
Caleb nhận xét, “Tôi ra vào phòng sách liên tục trước khi Jewell bước vào mà tôi đâu có thấy ai ngoại trừ vài nhân viên, mà cũng chẳng ai ở lâu hơn mười hay mười lăm phút, rõ ràng thời gian đó không đủ để đánh dấu mấy chữ cái đó. Mà họ cũng chẳng thể làm chỗ nào khác vì họ phải mang sách về nhà”. Ông thình lình la to, “Đợi đã, nếu có nhân viên nào mang sách về nhà thì tôi có thể kiểm tra, họ phải điền vào mẫu thông tin gồm bốn phần. Đi nào! Phòng đọc đóng cửa rồi, nhưng tôi có thể kiểm tra từ phòng khác”.
Ông dẫn họ đến phòng hướng dẫn chính của thư viện, ông nói chuyện với người nữ nhân viên làm việc ở đó một lúc, rồi ngồi vào bàn máy tính, truy cập vào hệ thống và bắt đầu gõ lách cách. Một phút sau đó, khuôn mặt của ông có vẻ thất vọng, “Chẳng có quyển Beadles nào được mượn cả, mà cả bốn tháng rồi, chẳng có nhân viên mượn quyển sách nào của thư viện cả”.
Trong lúc họ đang đứng đó thì Rachel Jeffries đi ngang qua, bà ta là thợ bảo quản sách mà lần trước Caleb đã nhờ hỗ trợ quyển tiểu thuyết Beadle với những chữ được đánh dấu trước đó.
Bà ta chào Caleb, “Chào anh Caleb, tôi không nghĩ anh lại đến thư viện vào cuối tuần như vậy cả”.
“Chào bà Rachel, tôi chỉ đến tham khảo thôi”.
“Tôi đang cố gắng thực hiện vài lời yêu cầu về bảo quản sách đây. Tôi đi ngang qua để gặp đồng nghiệp cùng làm chung phần này với tôi. À, quyển sách Beadle anh nhờ tôi bảo quản thật ra vừa được bảo quản trước đó rồi mới để vào phòng sách đấy”.
“Sao cơ?”, giọng Caleb kinh ngạc.
“Nó bị hỏng phần bìa phía sau, và có vài trang bị rời ra. Khi tôi nhìn vào thông tin của nó, tôi hơi ngạc nhiên vì nó vừa mới được đưa trở lại phòng sách thôi mà. Anh có biết tại sao lại bị hỏng nữa không?”
“Thế chính xác nó đã được mang lại phòng sách khi nào?”, Caleb hỏi dò, giả bộ không nghe câu hỏi trước.
“Sao vậy, chỉ trước khi anh đưa lại cho tôi một ngày”.
“Rachel, đợi một chút”, Caleb lại lạch cạch gõ máy tính và lần này ông tìm xem bao nhiêu quyển Beadles đã được gửi đi bảo quản trong thời gian qua. Câu trả lời của ông được in ra.
“Ba mươi sáu quyển Beadle được bảo quản trong vòng hai năm”, ông nói cho các bạn mình biết. Sau đó ông kiểm tra thông tin về những quyển sách mà Jewell English và Norman Janklow yêu cầu, cùng với tất cả những quyển sách đã đến phòng bảo quản trong sáu tháng qua. Ông tìm được kết quả rằng Jewell English đã yêu cầu hơn bảy mươi phần trăm số sách được bảo quản trong sáu tháng qua, và bà ta yêu cầu sử dụng ngay đúng ngày chúng vừa được bảo quản xong. Ông lão Norman Janklow cũng có yêu cầu tương tự.
Ông lập tức kể cho những người bạn nghe về kết quả tìm kiếm của mình, “Mấy quyển Beadle này tốn thời gian bảo quản nhiều lắm vì chúng được xuất bản theo kiểu rẻ tiền mà”.
Stone, với trí óc nhanh nhạy, nhìn Rachel Jeffries và hỏi, “Bà có thể cho tôi biết thường ai là người chăm sóc mấy quyển của Beadle nhỉ?”
“Đó là Monty Chambers đấy”.
Stone và mọi người lập tức chạy nhanh dọc hành lang. Caleb còn quay với lại đằng sau, hét lớn, “Rachel, tôi yêu bà”.
Bà ta lập tức đỏ mặt nhưng vẫn vớt vát, “Caleb, anh biết rồi đấy, tôi đã kết hôn, nhưng chúng ta có thể gặp nhau lúc nào đó”.
“Anh biết Chambers sống ở đâu không?”, Stone hỏi Caleb khi mọi người chạy ra đường.
Caleb gật đầu, “Cũng không xa chỗ này mấy”. Họ gọi hai chiếc tắc-xi và phóng đi. Mười lăm phút sau, xe chạy chậm lại đưa họ đến một vùng dân cư yên tĩnh với những dãy nhà được sửa chữa khá tốt. Phía trước mỗi căn nhà là một khoảnh sân nhỏ và bờ tường rào bằng sắt rèn cao hai thước Anh.
“Tôi thấy khu này có vẻ quen quen đấy”, Stone lên tiếng.
“Khu này xung quanh nhà nào cũng vậy hết”, Caleb giải thích.
Họ ra khỏi xe, và Caleb dẫn họ đến một căn nhà với tường gạch được sơn màu xanh dương, còn cửa chớp lại có màu than. Trên ngưỡng cửa sổ là vài chậu hoa.
“Anh đã đến đây rồi chứ?”, Stone hỏi và Caleb gật đầu đồng tình.
“Monty có một xưởng ở nhà và làm việc tự do. Tôi cũng có giới thiệu vài người cho ông ta, ông ta còn giúp tôi bảo quản vài quyển, không thể tin được ông ta lại dính líu đến chuyện này. Ông ta là tay bảo quản sách tốt nhất mà thư viện có được, trong vài thập niên gần đây”.
“Mỗi người có giá của nó, và chỉ có người bảo quản mới có cơ hội chăm sóc sách tốt được”, Stone nhận xét, cẩn thận nhìn về phía trước căn nhà. “Tôi tự nhủ liệu ông ta có lòng vòng đâu đó, tôi và Reuben sẽ gõ cửa còn mọi người lui hết ra sau nhé”.
Tiếng gõ cửa vang lên nhưng không ai trả lời. Stone nhìn xung quanh, không có ai ngoài đường chính cả, “Che cho tôi nhé, Reuben”.
Reuben quay lại, dùng tấm lưng to bè che khuất Stone. Một phút sau, ổ khóa bật mở. Stone bước vào trong, tầng chính chẳng có gì đáng nói cả, đồ đạc cũ kỹ, nhưng không lỗi thời, hình treo trên tường toàn là hình được in lại, tủ lạnh chứa vài món thức ăn nhanh, máy rửa bát đĩa trống rỗng. Hai phòng ngủ phía trên tầng cũng không đáng để chú ý, có vài quần tây, áo sơ mi, áo khoác treo trong tủ, phía ngăn bên dưới để bít tất và quần đùi. Phòng tắm chỉ toàn những thứ thường nhật, Stone nhặt nhạnh vài thứ và xem xét với vẻ tò mò. Tủ thuốc chứa một số thuốc thường dùng, và đồ dùng trong nhà tắm. Họ không tìm ra thứ gì có thể nói ra Chambers đã đi đâu.
Khi họ xuống nhà dưới, mọi người đang đợi ở sảnh.
Caleb hăm hở, “Có gì không?”
Stone trả lời, “Anh nói có xưởng ở đâu đó à?”
“Tầng dưới”.
Họ lại kéo xuống và lục soát không gian làm việc của Chambers, nó chứa tất cả mọi thứ có liên quan đến nghề đặc trưng này và không còn thứ gì khác.
“Thế là hết”, Reuben thốt lên.
Tầng dưới là một dạng cửa đi ra ngoài được, Stone liếc nhìn ra cửa sổ, “Nhìn ra hẻm ngang hông nhà và hàng loạt tòa nhà phía đối diện”.
“Vậy thì sao?”. Reuben bực bội, “chẳng lẽ có kẻ phản bội đang trốn chạy núp đâu đó ở ngõ hẻm này và đợi vài tay FBI xuất hiện sao”.
Stone mở cửa bước ra ngoài, nhìn lên nhìn xuống con hẻm. Đoạn ông chạy xuống cuối hẻm, rẽ vào góc và biến mất. Khi ông quay lại, ánh mắt ông sáng rực.
Reuben nhận xét, “Anh nhớ tại sao khung cảnh ở đây quen thuộc rồi à. Anh đến đây rồi chứ?”
“Tất cả chúng ta đều từng đến đây, Reuben ạ”.
Chú thích
1.Tác giả chơi chữ “Evilbay’(evil: tội ác) với chữ Ebay, trang web mua bán trực tuyến lớn nhất trên mạng Internet nơi bạn có thể tìm thấy và mua những thứ mình cần.
2. Kỹ thuật đổi màu để phù hợp với phần nền.
Stone và những người bạn đi theo thang cuốn ra khỏi ga tàu điện ngầm cùng với hàng trăm người trong tình trạng lo sợ. Tiếng còi hụ vang khắp nơi, và cảnh sát thì phong tỏa khu vực xảy ra sự việc, trong lúc đó họ bước ra tới đường mà không rõ bước kế tiếp sẽ làm gì.
“Cám ơn trời anh Caleb của chúng ta vẫn bình yên vô sự”, Milton nói.
“Hiển nhiên rồi”, Reuben vui vẻ choàng vai Caleb, “Chúng tôi biết làm gì nếu không có anh để chọc ghẹo đây?”
“Sao anh bị bắt cóc vậy?”, Stone tò mò.
Caleb nhanh chóng giải thích về người tự nhận là William Foxworth, “Hắn bảo hắn có sách cho tôi xem qua, rồi sau đó tôi không biết gì nữa”.
Stone tiếp tục, “Vậy là hắn dùng tên Foxworth à?”
“Vâng, tôi thấy ghi như thế trên thẻ thư viện, chắc chắn hắn phải trình thẻ căn cước để làm thẻ mà”.
“Rõ ràng đó không phải tên thật của hắn. Nhưng cũng may chúng ta đã thấy khuôn mặt của hắn”.
“Giờ chúng ta làm gì đây?”, Annabelle hỏi.
“Tôi vẫn không hiểu về cái loại hóa chất được dùng trong quyển sách”, Milton lên tiếng, “Albert Trent làm nhân viên của tổ chức tình báo, hắn có thông tin mật, chuyển cho kẻ nào đó, nhưng là ai mới được. Sao bọn chúng lại dùng sách trong phòng đọc nơi bà lão English Jewell và cả Norman Janklow có thể tìm ra, sử dụng loại kính đặc biệt để viết chúng lại?”
Trong lúc mọi người vẫn thắc mắc, Stone gọi điện thoại cho Alex Ford, họ vẫn đang tìm Trent nhưng Ford khuyên Stone và những người khác nên ngừng cuộc truy đuổi. “Chẳng có nghĩa lý gì để dấn thân thêm vào nguy hiểm cả, anh làm đủ rồi”.
Sau đó Stone kể lại cho mọi người, Caleb lên tiếng, “Vậy chúng ta đi đâu đây? Về nhà à?”
Stone lắc đầu, “Thư viện Quốc hội cũng gần đây, tôi muốn đến đó”.
Caleb thắc mắc tại sao. “Bởi vì đó là nơi mọi thứ bắt đầu, vả lại muốn tìm câu trả lời thì thư viện là nơi tốt nhất còn gì?”
Caleb giúp các bạn của mình vào thư viện nhưng không ai vào phòng đọc được do chủ nhật thư viện không làm việc. Trong lúc đi dọc theo sảnh, Stone nói với các bạn của mình, “Tôi vẫn không hiểu rõ về khoảng thời gian của các sự kiện”. Ông ngừng lại một chút, tổng hợp suy nghĩ, “Cách đây hai ngày bà Jewell English đến thư viện, chữ được đánh dấu nằm trong quyển sách Beadle đó. Vào buổi tối cùng ngày, khi chúng ta cầm quyển sách trong tay nó lại biến mất. Thời gian rất chặt chẽ đấy chứ”.
Caleb đồng tình, “Chuyện đó thật đáng kinh ngạc bởi vì hầu hết sách trong khu đó đều hiếm có người mượn đọc trong vài năm, thậm chí vài thập niên. Việc đánh dấu phải được thể hiện lên từng chữ, rồi Jewell sẽ được báo phải mượn quyển sách nào, rồi như anh nhận xét, trong cùng ngày dòng chữ đánh dấu lại biến mất”.
Stone ngừng đi qua đi lại, ông dựa người vào một trụ cẩm thạch, “Vả lại sao họ biết cái mốc thời gian như vậy sẽ có tác dụng? Không ai muốn những chữ được đánh dấu như vậy tồn tại quá lâu trên giấy phòng trường hợp cảnh sát mó tay vào. Thật vậy, nếu chúng ta hành động nhanh hơn, có thể chúng ta đã giao cho FBI quyển sách trước khi hóa chất bốc hơi, như vậy rõ ràng là hóa chất phải có tác dụng gần với thời gian bà English bước vào”.
Caleb nhận xét, “Tôi ra vào phòng sách liên tục trước khi Jewell bước vào mà tôi đâu có thấy ai ngoại trừ vài nhân viên, mà cũng chẳng ai ở lâu hơn mười hay mười lăm phút, rõ ràng thời gian đó không đủ để đánh dấu mấy chữ cái đó. Mà họ cũng chẳng thể làm chỗ nào khác vì họ phải mang sách về nhà”. Ông thình lình la to, “Đợi đã, nếu có nhân viên nào mang sách về nhà thì tôi có thể kiểm tra, họ phải điền vào mẫu thông tin gồm bốn phần. Đi nào! Phòng đọc đóng cửa rồi, nhưng tôi có thể kiểm tra từ phòng khác”.
Ông dẫn họ đến phòng hướng dẫn chính của thư viện, ông nói chuyện với người nữ nhân viên làm việc ở đó một lúc, rồi ngồi vào bàn máy tính, truy cập vào hệ thống và bắt đầu gõ lách cách. Một phút sau đó, khuôn mặt của ông có vẻ thất vọng, “Chẳng có quyển Beadles nào được mượn cả, mà cả bốn tháng rồi, chẳng có nhân viên mượn quyển sách nào của thư viện cả”.
Trong lúc họ đang đứng đó thì Rachel Jeffries đi ngang qua, bà ta là thợ bảo quản sách mà lần trước Caleb đã nhờ hỗ trợ quyển tiểu thuyết Beadle với những chữ được đánh dấu trước đó.
Bà ta chào Caleb, “Chào anh Caleb, tôi không nghĩ anh lại đến thư viện vào cuối tuần như vậy cả”.
“Chào bà Rachel, tôi chỉ đến tham khảo thôi”.
“Tôi đang cố gắng thực hiện vài lời yêu cầu về bảo quản sách đây. Tôi đi ngang qua để gặp đồng nghiệp cùng làm chung phần này với tôi. À, quyển sách Beadle anh nhờ tôi bảo quản thật ra vừa được bảo quản trước đó rồi mới để vào phòng sách đấy”.
“Sao cơ?”, giọng Caleb kinh ngạc.
“Nó bị hỏng phần bìa phía sau, và có vài trang bị rời ra. Khi tôi nhìn vào thông tin của nó, tôi hơi ngạc nhiên vì nó vừa mới được đưa trở lại phòng sách thôi mà. Anh có biết tại sao lại bị hỏng nữa không?”
“Thế chính xác nó đã được mang lại phòng sách khi nào?”, Caleb hỏi dò, giả bộ không nghe câu hỏi trước.
“Sao vậy, chỉ trước khi anh đưa lại cho tôi một ngày”.
“Rachel, đợi một chút”, Caleb lại lạch cạch gõ máy tính và lần này ông tìm xem bao nhiêu quyển Beadles đã được gửi đi bảo quản trong thời gian qua. Câu trả lời của ông được in ra.
“Ba mươi sáu quyển Beadle được bảo quản trong vòng hai năm”, ông nói cho các bạn mình biết. Sau đó ông kiểm tra thông tin về những quyển sách mà Jewell English và Norman Janklow yêu cầu, cùng với tất cả những quyển sách đã đến phòng bảo quản trong sáu tháng qua. Ông tìm được kết quả rằng Jewell English đã yêu cầu hơn bảy mươi phần trăm số sách được bảo quản trong sáu tháng qua, và bà ta yêu cầu sử dụng ngay đúng ngày chúng vừa được bảo quản xong. Ông lão Norman Janklow cũng có yêu cầu tương tự.
Ông lập tức kể cho những người bạn nghe về kết quả tìm kiếm của mình, “Mấy quyển Beadle này tốn thời gian bảo quản nhiều lắm vì chúng được xuất bản theo kiểu rẻ tiền mà”.
Stone, với trí óc nhanh nhạy, nhìn Rachel Jeffries và hỏi, “Bà có thể cho tôi biết thường ai là người chăm sóc mấy quyển của Beadle nhỉ?”
“Đó là Monty Chambers đấy”.
Stone và mọi người lập tức chạy nhanh dọc hành lang. Caleb còn quay với lại đằng sau, hét lớn, “Rachel, tôi yêu bà”.
Bà ta lập tức đỏ mặt nhưng vẫn vớt vát, “Caleb, anh biết rồi đấy, tôi đã kết hôn, nhưng chúng ta có thể gặp nhau lúc nào đó”.
“Anh biết Chambers sống ở đâu không?”, Stone hỏi Caleb khi mọi người chạy ra đường.
Caleb gật đầu, “Cũng không xa chỗ này mấy”. Họ gọi hai chiếc tắc-xi và phóng đi. Mười lăm phút sau, xe chạy chậm lại đưa họ đến một vùng dân cư yên tĩnh với những dãy nhà được sửa chữa khá tốt. Phía trước mỗi căn nhà là một khoảnh sân nhỏ và bờ tường rào bằng sắt rèn cao hai thước Anh.
“Tôi thấy khu này có vẻ quen quen đấy”, Stone lên tiếng.
“Khu này xung quanh nhà nào cũng vậy hết”, Caleb giải thích.
Họ ra khỏi xe, và Caleb dẫn họ đến một căn nhà với tường gạch được sơn màu xanh dương, còn cửa chớp lại có màu than. Trên ngưỡng cửa sổ là vài chậu hoa.
“Anh đã đến đây rồi chứ?”, Stone hỏi và Caleb gật đầu đồng tình.
“Monty có một xưởng ở nhà và làm việc tự do. Tôi cũng có giới thiệu vài người cho ông ta, ông ta còn giúp tôi bảo quản vài quyển, không thể tin được ông ta lại dính líu đến chuyện này. Ông ta là tay bảo quản sách tốt nhất mà thư viện có được, trong vài thập niên gần đây”.
“Mỗi người có giá của nó, và chỉ có người bảo quản mới có cơ hội chăm sóc sách tốt được”, Stone nhận xét, cẩn thận nhìn về phía trước căn nhà. “Tôi tự nhủ liệu ông ta có lòng vòng đâu đó, tôi và Reuben sẽ gõ cửa còn mọi người lui hết ra sau nhé”.
Tiếng gõ cửa vang lên nhưng không ai trả lời. Stone nhìn xung quanh, không có ai ngoài đường chính cả, “Che cho tôi nhé, Reuben”.
Reuben quay lại, dùng tấm lưng to bè che khuất Stone. Một phút sau, ổ khóa bật mở. Stone bước vào trong, tầng chính chẳng có gì đáng nói cả, đồ đạc cũ kỹ, nhưng không lỗi thời, hình treo trên tường toàn là hình được in lại, tủ lạnh chứa vài món thức ăn nhanh, máy rửa bát đĩa trống rỗng. Hai phòng ngủ phía trên tầng cũng không đáng để chú ý, có vài quần tây, áo sơ mi, áo khoác treo trong tủ, phía ngăn bên dưới để bít tất và quần đùi. Phòng tắm chỉ toàn những thứ thường nhật, Stone nhặt nhạnh vài thứ và xem xét với vẻ tò mò. Tủ thuốc chứa một số thuốc thường dùng, và đồ dùng trong nhà tắm. Họ không tìm ra thứ gì có thể nói ra Chambers đã đi đâu.
Khi họ xuống nhà dưới, mọi người đang đợi ở sảnh.
Caleb hăm hở, “Có gì không?”
Stone trả lời, “Anh nói có xưởng ở đâu đó à?”
“Tầng dưới”.
Họ lại kéo xuống và lục soát không gian làm việc của Chambers, nó chứa tất cả mọi thứ có liên quan đến nghề đặc trưng này và không còn thứ gì khác.
“Thế là hết”, Reuben thốt lên.
Tầng dưới là một dạng cửa đi ra ngoài được, Stone liếc nhìn ra cửa sổ, “Nhìn ra hẻm ngang hông nhà và hàng loạt tòa nhà phía đối diện”.
“Vậy thì sao?”. Reuben bực bội, “chẳng lẽ có kẻ phản bội đang trốn chạy núp đâu đó ở ngõ hẻm này và đợi vài tay FBI xuất hiện sao”.
Stone mở cửa bước ra ngoài, nhìn lên nhìn xuống con hẻm. Đoạn ông chạy xuống cuối hẻm, rẽ vào góc và biến mất. Khi ông quay lại, ánh mắt ông sáng rực.
Reuben nhận xét, “Anh nhớ tại sao khung cảnh ở đây quen thuộc rồi à. Anh đến đây rồi chứ?”
“Tất cả chúng ta đều từng đến đây, Reuben ạ”.
Chú thích
.Tác giả chơi chữ “Evilbay’(evil: tội ác) với chữ Ebay, trang web mua bán trực tuyến lớn nhất trên mạng Internet nơi bạn có thể tìm thấy và mua những thứ mình cần.
. Kỹ thuật đổi màu để phù hợp với phần nền.