CHUYỆN MỞ ĐẦU BẰNG...
Vua Đỏ cùng hoàng hậu đang cưỡi ngựa bên bờ biển. Ấy là thời điểm trong năm mà gió lại cuốn theo chút hơi sương. Những đám mây chiều bắt đầu hiện ra; và nơi nào mặt trời tìm được đường len qua màn sương dày, thì nơi ấy nó rắc xuống mặt biển những chùm tia sáng lấp lánh.
Vua và hoàng hậu thúc ngựa quay về, nhưng bất thình lình, hoàng hậu bỗng ghìm cương lại, ngồi bất động trên yên ngựa, nhìn trân trân qua khắp mặt nước. Nhà vua, dõi theo ánh mắt bà, liền chú ý thấy một hòn đảo đẹp mê hồn. Nằm gọn trong vầng sáng mặt trời, nó rực lên hàng ngàn mảng biếc xanh da trời.
“Ôi!” Hoàng hậu thở dài, với giọng sợ hãi.
“Chuyện gì vậy, ái khanh?” Nhà vua bèn hỏi.
Trong những vấn đề liên quan đến con cái, linh cảm của hoàng hậu thường sắc bén hơn trực cảm của nhà vua. Và khi trông thấy hòn đảo toả sáng hàng ngàn dải màu xanh da trời, bà cảm thấy như có một bàn tay băng giá bóp chặt lấy tim mình. “Các con,” giọng bà gần như một tiếng thì thầm.
Nhà vua hỏi vợ xem đứa nào trong chín đứa con của họ khiến bà lo lắng, nhưng hoàng hậu không trả lời được. Thế nhưng, khi họ trở về Lâu đài Đỏ và hoàng hậu trông thấy hai người con trai, Borlath và Amadis, bà liền cảm nhận ngay có điềm gở khủng khíêp. Bà nhìn thấy khói đen nổi lên từ hòn đảo xanh da trời kia, và lửa cháy biến đất đá thành tro bụi. Bà thấy một lâu đài thủy tinh sáng loá hiện ra giữa một cơn bão tuyết; và khi nội nhãn của bà đảo khắp các bức tường thủy tinh của toà lâu đài, bà trông thấy một thanh niên tóc trắng như tuyết đang leo lên khỏi một cái giếng. Anh ta nhắm chặt mắt cho khỏi thấy sự chết chóc đang vây bủa xung quanh mình.
“Chúng ta tuyệt đối không bao giờ được cho các con mình trông thấy hòn đảo ấy,” hoàng hậu nói với nhà vua, “Chúng ta tuyệt đối không được để cho chúng đặt chân lên mảnh đất xanh da trời bị ếm bùa ấy.”
Nhà vua hứa sẽ làm theo. Nhưng chưa đầy một năm sau, hoàng hậu qua đời, và nhà vua, chìm đắm trong đau thương, đã rời bỏ lâu đài và các con của mình. Hoàng hậu mất chín ngày sau khi hạ sinh người con thứ mười của bà, một bé gái tên là Amoret. Một bé gái mà không ai có thể bảo vệ được.
CÁI HẮT HƠI CHẾT NGƯỜI
Nằm ở ngoại vi thành phố, Học viện Bloor đứng sừng sững và im lìm dưới bầu trời đầy sao. Ngày mai, ba trăm đứa trẻ sẽ leo lên những bậc thang giữa hai toà tháp, băng qua mảnh sân gạch, và chen nhau đi qua cánh cửa đôi to lớn bằng gỗ sồi. Nhưng vào lúc này, toà nhà cổ ấy đang hoang vắng tựa như sa mạc.
Nhưng cũng không hẳn thế, nếu qúy vị đứng ở trong khu vườn, nơi đầu đằng kia của học viện, thì qúy vị sẽ không thể không nhận thấy những đốm sáng lạ lùng, thỉnh thoảng lập loè từ những cửa sổ nhỏ trên mái nhà. Và nếu qúy vị có thể nhìn qua được một trong những cửa sổ ấy, hẳn qúy vị sẽ trông thấy Ezekiel Bloor, một lão già khú khụ, đang thành thục đẩy chiếc xe lăn xửa xưa của lão vào một căn phàng quái dị.
Phòng thí nghiệm, như lão Ezekiel thích gọi như thế, là một căn phòng áp mái dài, với những miếng ván lót sàn rộng, bám đầy bụi, và một mái trần lòi hết cả rui nhà. Những chiếc bàn đủ kiểu - chất đầy chai lọ, sách vở, thảo mộc, xương và vũ khí - dựng tựa vào các bức tường; trong khi ở dưới những gầm bàn, một đống ngăn kéo bẩn thỉu thòi ra, xộc xệch, đe doạ sẽ ngáng ngã bất cứ ai đi ngang.
Những nhánh cây thân thảo khô và phai màu thòng xuống từ rui nhà, và những mảnh áo giáp, treo lơ lửng trên những thanh xà ngang to bự, khua xủng xoảng thật ghê rợn mỗi khi có một làn gió quét qua. Lúc này, chúng đang kêu xủng xoảng khi lão Ezekiel Bloor di chuyển qua sàn nhà.
Thằng chắt đích tôn của lão già, Manfred, đang đứng bên cạnh một chiếc bộ ngựa kê ở ngay chính giữa căn phòng. Qua một kì hè, Manfred đã lớn bộn, và lão Ezekiel cảm thấy tự hào rằng thằng chắt của lão đã chọn làm việc chung với lão, chứ không học lên tiếp đại học như những cựu học sinh năm thứ sáu khác. Nên nhớ là, tuy cao đấy, nhưng Manfred lại có một bộ vó gầy guộc, da vàng ệch, nổi đốm, và một gương mặt lồi hết cả xương và hóp tọp.
Vào khoảnh khắc này, mặt Manfred nhăn xoắn lại, tập trung cao độ khi hắn bày một đống xương ra bàn, ngay trước mặt. Phía trên đầu hắn, treo đung đưa bảy ngọn đèn khí được gá vô một vòng sắt, ánh sáng xanh lét của chúng phụt ra tiếng rù rù yếu ớt. Khi trông thấy ông cố, Manfred buông một tiếng thở dài tức tối và rồ lên, “Quá sức tôi rồi. Tôi ghét mấy trò đố mẹo.”
“Đó không phải là đố mẹo,” lão Ezekiel quặc lại. “Mà là xương của Hamaran, một con ngựa chiến có sức mạnh và lòng can đảm phi thường.
“Thế thì sao? Làm sao mà dăm ba cục xương vô tích sự này có thể làm sống lại tổ tiên của ông cố chớ?” Manfred phóng thẳng một tia nhìn khinh miệt vào lão Ezekiel, lão già vội cụp mắt xuống ngay lập tức. Lão không muốn bị chính thằng chắt của mình thôi miên.
Dán chặt mắt vô đống xương, lão già đẩy xe lăn đến gần bàn hơn. Lão Ezekiel Bloor đã một trăm lẻ một tuổi, nhưng những người khác ở vào độ tuổi ấy có lẽ trông vẫn còn da thịt hơn lão nhiều. Đằng này, mặt của lão Ezekiel chỉ khá hơn cái đầu lâu một chút. Mớ răng còn sót lại của lão đều mẻ sứt và đen xỉn cả, và một vài nhúm tóc trắng, thưa rỉnh ló ra dưới chiếc mũ trùm đầu bằng vải nhung đen. Tuy nhiên, đôi mắt lão vẫn phừng phực sức sống – đen và trợn quắc lên, phóng ra những tia dữ tợn cực độ.
“Chúng ta có đủ rồi,” lão già vừa nói vừa chỉ những món đồ khác trên bàn: bộ áo giáp có xích sắt, chiếc mũ giáp, cái áo chùng lông thú màu đen, và chiếc ghim kẹp áo thụng bằng vàng.”Chúng là của ngài Borlath đấy. Ông nội của ta đã tìm thấy chúng trong lâu đài này, tất cả được bọc bằng da, bên trong ngôi mộ. Khung xương không còn nữa, thật đáng tiếc. Chắc chắn là tại lũ chuột,” lão ta vuốt vuốt chiếc áo lông thú đen với vẻ gần như là âu yếm.
Borlath là thần tượng của lão Ezekiel ngay từ khi lão còn là một cậu bé. Những câu chuyện về bậc tổ tiên hiếu chiến ấy đã dần hun đúc trí tưởng tượng của lão, cho đến mức lão tin rằng ngài Borlath có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề cho mình.Dạo gần đây, lão hay mơ thấy ngài Borlath xốc lão ra khỏi xe lăn và cả hai cùng nhau khủng bố thành phố. Rồi đây Charlie Bone và Ông cậu đáng ghét của nó phải coi chừng.
“Thế còn nguồn điện, ông cố biết đấy, cho lúc sống lại thì tính sao đây? Ở đây chẳng có tí điện nào,” Manfred ngước nhìn lên mớ đèn khí.
“Ô, cái đó!” Ezekiel phẩy tay ra điều không có gì quan trọng. Lão tự xoay bánh xe tới một chiếc bàn khác và lấy một hộp thiếc nhỏ có hai cái ngạnh chĩa từ nắp chĩa ra. Lão vặn cái núm ở bên hông hộp và một tia lửa xanh da trời xẹt ra giữa hai cái ngạnh.
“Ối chà! Điện!” Lão sung sướng thông báo. “Nào, tiếp tục đi. Ngày mai tụi nhóc sẽ trở lại đây, và chúng ta không muốn bất kỳ đứa nào xộc vô cuộc thí nghiệm nho nhỏ này của chúng ta đâu.”
“Đặc biệt là thằng Charlie Bone,” Manfred gầm gừ.
“Hừ! Charlie Bone!” Lão Ezekiel thiếu điều là khạc ra cái tên đó. “Bà nội nó nói nó sẽ là đứa có ích, nhưng ngược lại thì có. Ta tưởng ta sắp dụ được nó về phe mình hồi học kỳ vừa qua rồi chứ, vậy mà rồi nó lại nhai nhải về thằng cha biệt dạng của nó và đổ lỗi cho ta.”
“Nó nói cũng đâu có sai,” Manfred nói, gần như chỉ với riêng mình.
“Nghĩ coi bọn ta có thể làm gì với tài phép của nó,” lão Ezekiel tiếp tục. “Nó ngó vô một bức tranh và đùng một cái, nó đã ở trong đó, nói chuyện với người chết từ tám hoánh. Đừng hòng mà tao cho phép...” Lão Ezekiel lắc lắc đầu. “Nó mang dòng máu của cái gã phù thủy xứ Gan cô hồn thất đảng đó. Và cây gậy phép nữa.”
“Tôi có kế hoạch cho vụ đó rồi,” Manfred nói khẽ.”Chẳng bao lâu nữa nó sẽ thuộc về tôi cho coi, ông cố cứ chờ xem.”
“Thật hả?” Lão Ezekiel cười khùng khục. Lão bắt đầu lăn xe đi trong khi thằng chắt tập trung vô công việc gắn xương tỉ mỉ.
Khi lão Ezekiel dịch tới mảng tối mù ở cuối căn phòng, ý nghĩ của lão bỗng chuyển sang Billy Raven, thằng bé mồ côi tóc trắng, bị lợi dụng làm gián điệp theo dõi Charlie Bone. Billy gần đây đã trở nên nổi loạn, bất trị. Nó không chịu hé cho lão Ezekiel biết Charlie và lũ bạn đang mưu tính gì. Hậu qủa, lão Ezekiel và gia đình Bloor có nguy cơ không kiểm soát được những đứa trẻ có phép thuật trong trường. Cần phải làm điều gì đó ngay.
“Ba mẹ,” lão Ezekiel bật nói một mình. “Cần phải làm sao cho Billy được nhận làm con nuôi. Ta đã hứa tìm ba mẹ cho thằng nhóc mồ côi đó mà chưa bao giờ thực hiện. Nó đã từ bỏ ta. Hừ, Billy sẽ có ba mẹ tử tế, tốt bụng.”
“Đừng quá tử tế,” Manfred nói, nãy giờ hắn đã nghe lỏm.
“Sợ gì. Ta biết một cặp rồi. Ta không hiểu tại sao trước đây lại không nghĩ đến chúng nhỉ,” lão Ezekiel quay đầu lại, ngóng đợi. “A, bọn này sắp có tiếp viện kìa.”
Có tiếng những bước chân lộp cộp từ xa; vài giây sau, cửa mở và ba phụ nữ ùa vô phòng. Người đầu tiên già nhất. Mái tóc xám xịt của bà ta được búi chót vót trên đỉnh đầu như một củ hành khổng lồ, quần áo của bà ta đen và mắt bà ta cũng đen như thế. Bà Lucretia Yewbeam là giám thị trong trường và là bà cô của Charlie Bone.”Tôi đem mấy bà em của tôi tới đây,” bà ta nói với lão Ezekiel. “Ngài nói là ngài cần sự trợ giúp.”
“Thế người thứ tư đâu?” Lão Ezekiel hỏi.”Bà Grizelda đâu?”
“Lúc này nên để bà ấy tránh xa mọi chuyện là tốt nhất,” bà Eustacia, người em thứ hai nói. “Nói cho cùng, bà ấy phải sống với thằng em thổ tả của chúng tôi... và thằng oắt đó. Bà ấy có thể vô tình... làm lộ bí mật, tất nhiên rồi.”
Bà Eustacia, một nhà tiên tri, bước lại gần cái bàn. Mái tóc xám của bà ta vẫn còn vài sợi đen, nhưng phần lớn các đặc điểm còn lại thì bà ta giống hệt bà chị kế của mình. Đôi mắt hí rị của bà ta lia khắp các đồ vật trên bàn và bà ta nhếch một nụ cười gian xảo.” Ra là lão đang mưu tính với đống đồ này, đồ quỷ già. Người ấy là ai vậy?”
“Tổ tiên của ta, ngài Borlath,” lão Ezekiel đáp. “Người vĩ đại nhất trong tất cả những người con của Vua Đỏ. Oai phong nhất, mạnh mẽ nhất và thông thái nhất.”
“Ghê tởm nhất và khát máu nhất thì chính xác hơn,” bà em thứ ba vừa nói vừa dộng một cái túi da to xụ lên bàn. Mái tóc bết bệt của bà ta xõa xuống vai thành từng dải màu nhọ nồi và những quầng thâm viền quanh đôi mắt đen như than. So với mấy bà chị thì bà ta trông thật luộm thuộm. Áo khoác to quá khổ, và áo cánh xam xám bên trong trông cấp thiết phải được giặt ngay. Chắc chắn không ai đoán được cái sinh vật ăn mặc lôi thôi lếch thếch này đã từng là một quý bà kiêu hãnh và chưng diện không chê vào đâu được.
“Venetia lâu nay vẫn mong chờ có cái gì đó như thế này,” bà Eustacia nói.” Từ khi thằng Charlie Bone chết tiệt đó thiêu trụi nhà cô ấy.”
“Tôi tưởng em trai của các bà làm điều đó chứ,” Manfred chen vô.
“Phải,” bà Venetia rít lên,” nhưng Charlie phải chịu trách nhiệm, đồ sâu bọ nhãi nhép. Ta muốn nó phải ú ớ vì sợ hãi, phải bị dằn vặt, khổ sở... và chết.”
“Bình tĩnh, Venetia,” lão Ezekiel lăn lẹ đến cạnh bà ta.” Bọn ta không muốn mất hẳn thằng bé mà.”
“Chi vậy? Nó thì được cái tích sự gì? Ông có tưởng tượng được việc mất tất cả là gì không? Có biết đứng ngó cơ nghiệp của ông – thành qủa của đời ông – tan thành mây khói thì thế nào không?”
Lão Ezekiel vụt mạnh cây ba toong của lão vô bàn.
“Đừng xúc động thế, bà kia. Thằng Charlie này có thể xài được. Tôi có thể ép nó phải đem tôi về lại quá khứ. Tôi có thể thay đổi lịch sử. Nghĩ coi!”
“Ông không thể thay đổi lịch sử, ông cố à,” Manfred nói huỵch toẹt.
“Sao mày biết?” Lão Ezekiel sủa. “Chưa ai thử cả.”
Kéo theo sau là một sự im lặng ngột ngạt. Không ai dám xa gần nói rằng việc đó đã có người thử biết bao lần rồi, mà không thành công. Bà cô Venetia cắn môi, vẫn nung nấu chuyệ trả thù. Bà ta có thể chờ, nhưng một ngày nào đó bà sẽ tìm ra cách trừ khử Charlie Bone - trừ khử vĩnh viễn.
Bà Lucretia phá tan sự im lặng bằng câu hỏi:
“Tại sao lại là ngựa?”
“Vì ta có xương,” lão Ezekiel dấm dẳn. “Con ngựa này, ngựa Hamaran,” lão hất đầu về phía đống xương,” theo sử sách truyền lại, là một sinh vật oai phong lẫm liệt. Và kỵ sĩ cưỡi trên mình nó cũng phải rất uy mãnh, mấy người không đồng ý sao?”
Những người kia lầm rầm một tiếng tán thành.
“Thằng nhóc đó sẽ sợ chết khiếp,” lão Ezekiel hớn hở tiếp. “Nó sẽ làm bất cứ điểu gì bọn ta yêu cầu.”
“Và lão định sẽ điều khiển sinh vật quái đản ấy như thế nào?” Bà Venetia nói.
Lão Ezekiel vốn hy vọng đừng ai hỏi lão điều ấy, bởi vì lão chưa có câu trả lời thoả đáng.
“Ngài là tổ tiên của ta,” lão nói với một nụ cười tự tin.”Hà cớ gì ngài lại không giúp ta? Nhưng trước hết, bọn ta hãy đánh thức nó dậy, và phi, như nó từng phi trước đây. Ha! Ha!”
Trong lúc đó bà Lucretia ngồi trên một chiếc ghế bành bị mối ăn, thì hai bà em dỡ đồ trong chiếc túi da ra. Những lọ chất lỏng bắt đầu xuất hiện trên bàn; rồi những muỗng bạc, vài túi thảo mộc, những mảnh thạch anh nhỏ xíu, óng ánh, một cái chày và một cái cối bằng đá đen và năm cây nến. Lão Ezekiel dòm quy trình diễn ra bằng đôi mắt hau háu.
Một tiếng đồng hồ sau, phần xương chân của một con ngựa đang phi nước đại đã được xếp trên bàn. Bộ áo giáp được chà bóng loáng bằng một thứ chất lỏng bốc mùi tanh hôi và chiếc áo choàng lông thú đã được kết đầy những hạt huyền nhỏ xíu.
Năm cây nến hắt những chiếc bóng nhảy múa lên tường. Một cây đặt phía trên chiếc mũ giáp, hai cây ở hai bên cổ tay cái áo giáp, hai cây cuối cùng đặt vô chỗ móng guốc hai chân trước bị khuyết của con ngựa.
Bà Venetia mê mẩn với công việc, quên cả bản thân. Thật là hay, bà ta một lần nữa lại được nhúng mũi vào một công việc có tính phá hoại. Lúc bà ta vuốt nhẹ cái áo lông đen, những tia lửa nhỏ xía kêu lép bép ở các đầu ngón tay bà.
“Sẵn sàng rồi chứ?” Bà ta hỏi.
“Chưa đâu,” nhá một nụ cười xảo quyệt, lão Ezekiel thò tay xuống dưới đống mền bùng nhùng trên đùi lão và rút ra một cái tráp nhỏ bằng vàng. Ở chính giữa cái nắp nạm đá qúy, một chùm đá hồng ngọc xếp thành hình trái tim, chiếu rực căn phòng tối lờ mờ bằng thứ ánh sáng loá mắt.
“Trái tim,” lão Ezekiel nói, giọng ùng ục sâu trong họng. “Asa, thằng quái thú, đã tìm thấy nó trong toà lâu đài đổ nát. Nó ra đó đào xới, theo thói quen xấu xa của nó, và tìm thấy một bia mộ có khắc chữ B. Nó đào thêm nữa và tìm thấy cái này,” lão ta vỗ nhẹ cái tráp, “bị chôn sâu dưới bia mộ.”
Từ cái ghế của mình trong bóng tối, bà Lucretia hỏi:
“Tại sao nó không nằm trong ngôi mộ?”
“Tại sao? Tại sao?” Lão Ezekiel buột ra một tràng ho vật vã nơi cuống phổi. “Để giữ bí mật, chắc vậy. Nhưng đó là tim của ngài. Ta biết chắc. Ngài Borlath là người con duy nhẩt của nhà vua có tên bắt đầu bằng chữ B.”
Lão mở cái tráp ra.
“Aaaah!” Bà cô Eustacia nhảy xa khỏi bàn, vì bên trong tráp là một túi da nhỏ hình mà, quả thật, hình như có đựng... một thứ gì đó.
“Thấy chưa? Một trái tim,” lão Ezekiel đắc thắng nói. “Giờ, bọn ta hãy tiếp tục nào!”
Xúc cái túi da ra khỏi tráp, lão đặt nó lên bộ áo giáp, chệch tâm trái một chút, nơi lão phán quyết là trái tim hẳn phải nằm ở đó. Rồi lão gỡ một sợi dây điện từ chiếc hộp điện của lão ra và quấn đầu dây một vòng, hai vòng, ba vòng quanh cái túi da.
Một bầu không khí thinh lặng, thấp thỏm chờ đợi đổ ụp xuống căn phòng khi lão già bắt đầu xoay cái núm của chiếc hộp bạc. Càng lúc càng nhanh dần. Bàn tay cong queo của lão biến thành một vật mờ mờ, bay bay, đôi mắt đen của lão rực cháy lên đầy kích động. Một tia lửa nhá lên giữa hai cái ngạnh thép và chuyền qua sợi dây tới trái tim của Borlath. Lão Ezekiel phát ra một tiếng gừ chiến thắng và bàn tay lão bất động.
Ba chị em chỉ chực biểu lộ ngay niềm hân hoan, nhưng họ biết im lặng là cần thiết trong khoảnh khắc như thế này. Những khúc xương của ngựa Hamaran bắt đầu chuyển động.
Lão Ezekiel và chị em nhà Yewbeam đang chăm chú nhìn vào bàn đến độ không để ý Manfred rút ra một chiếc khăn tay và ấn chặt vào mũi. Mặt nó chuyển thành đỏ rần khi nó đấu tranh để cố kìm một cái hắt hơi.
“HẮT XÌ!”
Lão Ezekiel bật nảy người như thể bị đấm một đấm. Lão bịt chặt hai tai và ré lên “Không,” khi Manfred cố kìm một cái hắt hơi khác. Mấy chị em nhà Yewbeam kinh hãi nhìn gã trai trẻ nhăn xoắn mặt lại, và...
“HẮT XÌ!”
Đống xương ngừng chuyển động. Hơi nước màu đen, gớm ghiếc bốc lên từ chiếc áo lông thú và bộ áo giáp oằn oại bên dưới cái túi da đang cháy âm ỉ.
“HẮT XÌ!”
Một tiếng nổ như sấm và một màn khói nồng nặc mùi toả khắp căn phòng. Trong lúc những kẻ chứng kiến nghẹt cả thở và líu cả lưỡi, thì một hình thù khổng lồ nâng lên khỏi bàn và biến mất vào đám khói đen cuồn cuộn. Trốn dưới gầm một chiếc bàn ở cuối phòng, một con chó mập thù lù, lùn tịt nhắm mắt lại và run lẩy bẩy.
Một tiếng nổ dữ dội thứ hai làm rung chuyển toàn bộ căn phòng, và bà cô Lucretia thét lên:
“Gì vậy?”
“Cái thằng ngu chết dẫm đó hắt xì,” lão Ezekiel rít chìn chịt.
“Xin lỗi, xin lỗi. Không thể nào nén được,” Manfred rên rỉ. “Bụi quá.”
“Bụi, bụi cái gì,” bà cô Venetia mắng nhiếc. “Đáng ra cậu phải vứt cái mũi đáng nguyền rủa của cậu ở ngoài chớ. Hư hết việc rồi. Thiệt uổng công.”
“Có lẽ không uổng đâu,” bà Eustacia cắt ngang. “Nhìn cái bàn kìa. Xương biến hết rồi.”
Đám khói đang tan đi nhanh chóng do một luồng khí lạnh thình lình thổi qua, và tất cả bọn họ đều thấy rằng xương của ngựa Hamaran, qủa thật, đã biến mất. Nhưng áo giáp, mũ sắt, áo chùng và chiếc kim kẹp bằng vàng của Borlath vẫn nằm nguyên chỗ cũ, trông thảm hại hơn vì thứ bùa mà chúng vừa phải chịu.
“Khốn kiếp!” Lão Ezekiel gầm gào. Lão dộng nắm đấm xuống bàn và đống trang phục bị cháy xém kia rung lên.”Không được gì rồi.”
“Nhưng tôi lại được việc đấy,” Manfred nói. ”Con ngựa ra ngoài rồi kìa.”
Hắn chỉ vào một cái lỗ toang hoác ở trên tường.
“Chó thật!” Lão Ezekiel rít lên. “Phòng thí nghiệm của tao bị lủng, còn con ngựa chiến thì sổng ra ngoài.”
“Con ngựa chiến với trái tim của bạo chúa,” bà Venetia nói.”Coi, nó biến rồi!”
Chỗ trái tim nằm hồi nãy, giờ chỉ còn lại một cái lỗ cháy đen trong bộ áo giáp đang âm ỉ.
“Vậy nghĩa là sao?” Manfred hỏi, giọng nghẹn lại.
Lão Ezekiel xoa cái mũi dài của lão.
“Nghĩa là không phải tất cả đã mất. Nhưng ta sẽ cần sự giúp đỡ. Ta nghĩ ta sẽ phải cần đến một người bạn của ta, một người có món nợ cần giải quyết.”
Tất cả mọi người nhìn lão, chờ nghe một cái tên, nhưng lão già chưa sẵn sàng làm thoả lòng cả đám.
“Ngựa chiến có thể rất có ích, “ Bà Venetia nói, đầy ưu tư,”miễn là có người cưỡi được nó.”
Tất cả đều nhìn chằm chặp vào khoảng không do đống xương để lại, như thể bắt nó phải lên tiếng, và rồi Manfred nói:
“Billy Raven giỏi nói chuyện với thú vật.”
Trong phòng ngủ chung dài hút, bên dưới gác mái của lão Ezekiel ba tầng, Billy Raven choàng tỉnh giấc, đột nhiên thấy sợ hãi. Nó quay mặt ra cửa sổ, định tìm mặt trăng hầu tự trấn an mình, thì thấy một con ngựa trắng bay lướt qua những đám mây rách nát – và biến mất.