Nàng cố gắng theo kịp dấu hắn xuyên qua đám đông. Chẳng dễ dàng gì. Nàng lạc mất dấu hắn một lúc nhưng rồi lại nhìn thấy. Hắn đang đứng ở đầu kia phòng triển lãm, gần cánh cửa hông.
Nàng thấy hắn lén lút liếc quanh hai ba lần rồi vội vã chuồn ra khỏi cửa.
Ồ không ngươi không làm thế được đâu, Venetia nhủ bụng. Lần này ngươi không thể thoát khỏi tay ta đâu, tên đê tiện đáng ghét kia.
Nàng túm gấu váy đen lên cố gắng hết mức kín đáo tiến đến cánh cửa mà Burton vừa mới khuất dạng.
Agatha Chilcott chắn ngang lối nàng. Bà ta quấn một màu hồng từ đầu tới chân. Những nếp gấp nặng nề trên chân váy màu hồng nhiều tầng thắt ngược ra sau co rũ xuống từ khung váy to đến mức có thể nhét vào đấy cả một bình hoa. Chuỗi hạt bằng đá màu hồng to sụ khỏa lấp phần ngực bao la được đường cổ áo phơi bày.
Cuộn tóc được thắt tết cầu kỳ chễm chệ trên đỉnh đầu bà Agatha lại mang sắc nâu đậm hơn hẳn phần tóc còn lại đang ngả bạc. Cuộn tóc giả kia được ghim cứng chặt xuống đầu bà bằng một mớ kim ghim tóc đính đá quý.
Agatha vừa giàu có vừa quan hệ rộng lại lầm thời gian rồi. Bà ta giết thời gian bằng việc thu thập rồi phát tán những mẩu tin ngồi lê đôi mách giật gân nhất đang trôi nổi quanh giới thượng lưu của Luân Đôn.
Venetia cảm thấy biết ơn bà ta lắm lắm. Agatha từng là một trong những khách hàng đầu tiên của nàng. Vị phu nhân này đã ấn tượng quá đỗi với bức chân dung Venetia chụp bà theo kiểu Cleopatra đến nỗi liền hồ hởi giới thiệu nàng cho bạn bè.
“Ồ phu nhân Jones yêu quý, tôi đã đọc thấy mẩu tin đáng kinh ngạc nói đến chuyến quay về của phu quân cô trên tờ tin tức sáng nay.” Bà Agatha đến dừng ngay trước mặt Venetia, chắn hết cả lối đi của nàng, “Hẳn cô phải choáng ngợp với bao nhiêu là cảm xúc khi biết được ngài Jones vẫn còn sống.”
“Một chuyện ngạc nhiên đến thảng thốt, đúng là thế ạ.” Venetia vừa đáp, vừa cố lịch sự len mình vòng qua bà Agatha.
“Tôi mới ngạc nhiên vui mừng làm sao khi thấy cô có thể dự buổi triển lãm tối nay,” Bà Agatha nói tiếp với vẻ quan tâm hết mực.
“Sao tôi có thể bỏ lỡ buổi triển lãm cơ chứ? Tôi đang rất khỏe mạnh mà.” Venetia kiễng chân, cố nhìn qua đầu thiên hạ để xem liệu Burton có quay trở vào phòng chăng. “Tôi chưa từng nghĩ rằng mình sẽ không thể đến dự.”
“Thật vậy sao? Bà Agatha hắng giọng đầy ngụ ý. “Người ta cứ tưởng sau khi kinh qua một cú sốc như hôm nay cô đã phải chịu thì phải nằm giường tịnh dưỡng một hai ngày mới hồi phục được ấy chứ.”
“Vô lý thật đấy phu nhân Chilcott.” Venetia phe phẩy chiếc quạt bằng lụa đen và cố theo dõi cánh cửa hông. “Dĩ nhiên là ta không thể cho phép một cú sốc khiến ta không thể hoàn thành tâm nguyện của mình được.”
Bà Agatha liếc qua bên kia phòng nơi Gabriel đang đứng trò chuyện cùng ngài Christopher Farley tóc bạc khả kính, người đã tài trợ cho buổi triển lãm này.
“Tôi ngưỡng mộ sự ngoan cường của cô đấy, cô gái ạ,” bà bảo.
“Cảm ơn bà. Người ta làm việc họ cần phải làm thôi. Tôi mong bà thứ lỗi cho nhé, phu nhân Chilcott.”
Hàng chân mày kẻ đậm sì của bà Agatha nhướng lên. “Nhưng cho dù cô vẫn thấy khỏe mạnh để làm việc của mình, thì người ta hẳn cho rằng ngài Jones biết đâu lại có ý muốn trải qua đêm nay theo cách khác.”
Venetia ngừng bước, hoang mang với lời nhận xét vừa rồi. Bà Agatha này không đời nào lại có thể biết được kế hoạch truy tìm tên trộm của Gabriel.
“Bà nói gì kia ạ?” nàng thận trọng dò hỏi. “Tại sao ngài Jones lại có ý khác cơ?”
“Hẳn ai cũng nghĩ rằng quý ông rành rành khỏe mạnh, đường đường sung mãn như thế kia, lại buộc phải thôi không được đón nhận những tình cảm tự nhiên từ người bạn đời yêu dấu suốt một quãng thời gian quá dài đến vậy, sẽ phải khao khát mãnh liệt được trải qua đêm đầu tiên tại Luân Đôn này trong tổ ấm của mình.”
“Trong tổ ấm ư?”
“Trong vòng tay[1] của gia đình ấy mà, nôm na là thế.” Bà Agatha chắp hai bàn tay mang găng vào trước bộ ngực ấn tượng của mình. “Để nối lại mối liên kết riêng tư gần gũi với vợ mình ấy.”
[1] Nguyên văn bosom, nghĩa đen là ngực. Bà Agatha nói bóng gió về chuyện vợ chồng.
Rốt cuộc thì Venetia cũng vỡ lẽ, như vừa bị điện giật. Nàng có thể cảm nhận được hơi nóng đột ngột trên hai má mình. Nỗi lo sợ xuyên qua tâm trí nàng. Có phải mọi người trong phòng này đều đang suy diễn về mối liên kết riêng tư gần gũi giữa nàng và Gabriel và thắc mắc vì sao họ không phải đang cùng nhau trải qua đêm nay trên giường không nhỉ?
Nàng đã quá tập trung chú ý vào hằng hà sa những khó khăn đang phải đối mặt mà thậm chí chưa hề nghĩ đến khả năng rằng mọi người sẽ rất hào hứng muốn biết đến sự lãng mạn liên quan đến tình huống của nàng.
“Không cần thiết phải lo đến khía cạnh ấy đâu, phu nhân Chilcott ạ.” Venetia lại phô diễn nụ cười trấn an rạng rỡ, cùng kiểu cười nàng ban cho bà Agatha khi nàng bảo đảm với phu nhân này rằng cái mụn ruồi to tướng trên cằm bà ta sẽ không xuất hiện trong bức chân dung Cleopatra thành phẩm. “Đức phu quân Jones cùng tôi đã có một cuộc trao đổi thân tình hồi sớm này. Chúng tôi đã kể cho nhau nghe mọi chuyện.”
“Một cuộc trao đổi ư? Nhưng này cô em, câu chuyện trên tờ Người đưa tin bay ngụ ý rằng ngài Jones đang mong được đoàn tụ cùng cô bằng thái độ hăm hở nhiệt thành nhất cơ mà.”
“Coi nào, phu nhân Chilcott. Bà là một phụ nữ từng trải. Tôi chắc là bà biết rõ rằng ngay cả những cuộc đoàn tự hăm hở nhiệt thành nhất cũng không cần phải hao tốn thời gian của người ta đến vậy.”
“Cho dù là thế, phu nhân Jones à, tôi không thể không để ý thấy rằng ngài Jones gần trọn buổi tối này chỉ đứng ở đầu kia sảnh mà thôi.”
“Thế thì đã sao?”
“Thế thì người ta chắc sẽ nghĩ ông ấy rất không thích phải xa cách cô tối nay đấy.”
“Tôi xin đảm bảo với bà rằng, ngài Jones có đủ khả năng làm cho mình bận rộn.”
Bà Agatha đưa mắt nhìn nàng sắc lạnh. “Thật vậy sao?” Rồi đột nhiên vẻ mặt bà ta dịu lại. “À, tôi nghĩ tôi biết vấn đề nằm ở đâu rồi.”
“Chẳng có vấn đề nào cả đâu, phu nhân Chilcott.”
“Tầm bậy nào, cô em. Không cần phải cả thẹn như thế. Một sự ngượng ngùng tự nhiên nào đó tồn tại giữa hai người mới kết hôn lại buộc phải xa nhau lâu đến thế là điều hoàn toàn hợp lý.”
“Vâng, dĩ nhiên rồi.” Venetia chộp ngay lời lý giải ấy. “Ngượng ngập lắm cơ.”
“Nhất là trong tình cảnh ấy,” bà Agatha nhẹ nhàng thêm vào.
“Tình cảnh ấy à?”
“Tôi nhớ hình như có nghe được rằng ngài Jones đã biến mất trong tuần trăng mật của hai người.”
“Chính xác là vậy.” Venetia đáp. “Còn nữa chứ thưa bà, biến mất mà không để lại lời nhắn nào. Bước hụt khỏi mỏm đá. Rơi xuống khe núi sâu. Dòng sông cuồn cuộn chảy. Xác không bao giờ được tìm thấy. Thế là được cho là đã chết. Chuyện thật bi thương nhưng cũng không hiếm mà, bà biết rồi đấy. Nhất là ở những nơi như vùng Viễn Tây ấy.”
“Như thế có nghĩa là cô đã có rất ít dịp được làm quen với các nghĩa vụ hôn nhân của mình rồi, cô em nhỉ.”
Miệng Venetia khô khốc. “Các nghĩa vụ hôn nhân của tôi ư?”
Bà Agatha vỗ về bàn tay mang găng của nàng. “Rõ ràng tối nay cô thật căng thẳng và lo lắng.”
“Bà không tưởng tượng được đâu, phu nhân Chilcott à.”
“Ấy nào, tôi sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi biết được cô đang trải qua cùng một nỗi bồn chồn bối rồi mà chắc hẳn cô từng cảm thấy trong tuần trăng mật của mình.”
“Vâng, phải đấy ạ.” Venetia lại phô ra nụ cười rạng rỡ nhất. “Thật may mắn làm sao, ngài Jones rất tôn trọng cảm xúc khó nói này của tôi.”
“Nghe thế tôi lấy làm mừng lắm đấy, phu nhân Jones. Dầu sao thì, tôi hy vọng cô sẽ lắng nghe vài lời khuyên từ một người phụ nữ lớn tuổi hơn và biết đâu lại thông thái hơn.”
“Tôi không nghĩ chuyện này lại cần đến lời khuyên đâu, xin cảm ơn bà.”
“Tôi bảo đảm đấy, cô em à, một người đàn ông khỏe mạnh, sung mãn được đoàn tụ lại với tân nương của mình sau một quãng thời gian cách xa đằng đẳng thì sẽ có đôi điều ham muốn sục sôi tự nhiên nào đấy.”
Venetia trân trối nhìn bà ta, ngớ cả người. “Ham muốn sục sôi ư?”
Bà Agatha ghé sát người lại và nhỏ giọng. “Tôi khuyên cô đừng trì hoãn gì nữa mà hãy đáp ứng mọi niềm ham muốn sục sôi ấy, cô em ạ. Cô sẽ không muốn ngài Jones tìm kiếm sự giải tỏa ở chỗ khác đâu.”
“Trời đất quỷ thần ôi.” Venetia cảm thấy đầu óc mình trống rỗng.
“Từ vẻ mặt cô thì tôi có thể thấy cô chưa có dịp được làm quen với những nghĩa vụ hôn nhân của mình thì ngài Jones đã gặp phải cú ngã thảm kia rồi.” Bà Agatha dùng quạt vỗ vỗ lên cổ tay Venetia. “Tôi bảo này, tin tôi đi, nghĩa vụ vợ chồng của người vợ không khó chịu chút nào đâu, nếu như cô có từng nghĩ thế.” Bà ta nháy mắt. “Không chút nào đâu khi mà người chồng lại khỏe mạnh và sung mãn như ngài Jones kia.”
Mỉm cười thật nhân hậu, bà Agatha quay người lướt vào trong đám đông.
Cuối cùng rồi Venetia cũng cố khép miệng lại được. Vận dụng hết ý chí, nàng trấn tĩnh lại và tiếp tục bước về phía mục tiêu của mình.
Nhưng giờ đây nàng ý thức rất rõ những ánh liếc len lén lẫn những cái nhìn hiếu kỳ hướng về phía nàng. Mọi người ở đây, đúng thật là, đang suy diễn về khía cạnh riêng tư gần gũi trong mối quan hệ giữa nàng với Gabriel đây, Venetia thầm nhủ. Mặt nàng nóng bừng.
Tình cảnh trớ trêu này đủ khiến nàng phải nghiến răng. Nàng không thể chịu được khi nghĩ lại bao đêm trắng lê thê cô độc mà mình đã trải qua, mong làm sống lại ký ức một đêm trong vòng tay người tình trong mộng rồi lại lặng lẽ khóc thương cho một điều dường như là mất mát.
Giờ thì nàng biết Gabriel Jones chỉ đơn thuần lo cho Hội Arcane của anh ta, chẳng hề có lấy một thoáng chốc nghĩ xem tin tức về cái chết của mình đã gây xáo trộn tâm trí nàng ra sao.
Thật tình, đàn ông lắm lúc có thể vô tâm đến vậy cơ chứ.
Khi đi đến cánh cửa hông nơi Burton đã biến mất, Venetia dừng lại ngoái nhìn về chỗ Gabriel mấy phút trước đứng tán gẫu cùng ông Christopher Farley. Nàng không nhìn thấy chàng đâu. Có lẽ chàng đã ra ngoài hít thở khí trời. Có lẽ chính nàng cũng cần chút khí trời như thế.
Rủi thay nàng lại có nhiệm vụ quan trọng hơn cần phải hoàn thành. Nàng chỉ có thể hy vọng Burton đã không rời hẳn khỏi sảnh triển lãm trong khi nàng bị bắt buộc phải đàm luận về nghĩa vụ hôn nhân của mình cùng phu nhân Chilcott.
Nàng mở cánh cửa dẫn vào khu hành lang tối tăm từ sảnh triển lãm sáng rực.
Nàng khép cửa lại và đứng lặng im một lúc, chờ cho ánh mắt quen dần với bóng tối đen đặc. Chút ánh trăng rọi xuống từ những cánh cửa sổ cao cao bên trên cầu thang phía cuối lối đi đủ làm lộ ra một dãy cánh cửa đóng kín.
Nàng cố lắng nghe tiếng bước chân của Burton nhưng chỉ nghe được tiếng ồn xa xa, nghèn nghẹt từ đám đông bên kia bức tường.
Nàng bắt đầu chầm chậm bước, lòng đầy nghi hoặc không hiểu vì sao Burton lại chọn lối này.
Đây không phải lần đầu tiên nàng đến phòng triển lãm của ông Farley. Nàng đã từng đến đây, bí mật thôi, rất nhiều lần trong những tuần gần đây để bàn thảo chuyện làm ăn. Ngài Christopher Farley ngay từ đầu đã rất hứng thú với những tác phẩm của nàng khi nàng đem vài bức đến cho ông ta kiểm nghiệm. Ông ta đã cho nàng lời khuyên về khía cạnh tài chính và giới thiệu cho nàng vài khách hàng quan trọng đầu tiên. Để đáp lại, nàng đã trao cho ông ta vài bức ảnh của mình để trưng bày và bán đi.
Nhờ vào những lần họp hành với Farley, Venetia đã biết đại khái cách bố trí phòng trên tầng này.
Khu hành lang mà nàng đang đứng bị một lối đi khác cắt ngang ngay giữa lối dọc theo sảnh. Văn phòng làm việc chính của Farley nằm ở khu hành lang khác ấy.
Nàng lặng lẽ đi đến góc hai hành lang giao nhau và nhìn dọc căn sảnh thứ hai, thậm chí còn tối hơn. Chẳng có ánh sáng đèn ga nào rọi qua được những tấm kính cửa chính vào văn phòng ông Farley cả. Ánh trăng tỏa từ những cửa sổ bên trong căn phòng làm cho khung kính mờ đục ấy lấp lánh một thứ ánh sáng xám nhờ trên nền bóng tối sẫm màu hơn. Căn phòng ngay sát bên văn phòng được hai nhân viên của ông Farley sử dụng. Căn phòng ấy cũng thế, cũng không được chiếu sáng.
Nàng quay lại lối hành lang chính. Nàng biết ở phía đấy có ba văn phòng, một phòng kho lớn và một phòng tối rửa ảnh.
Nhân viên của hãng sử dụng phòng tối ấy để rửa thêm ảnh của vài bức được bày bán trong phòng trưng bày. Farley cũng nổi tiếng là người nhiệt tình mời đón các nhiếp ảnh gia tài năng nhưng nghèo túng đến sử dụng phòng tối này. Nàng không thể tưởng tượng nổi vì sao Harold Burton lại đi vào phòng kho hay phòng tối làm gì. Hắn ta có một hiệu ảnh be bé với dụng cụ riêng cơ mà.
Dĩ nhiên, cũng có khả năng Burton đã chọn cách rời khỏi buổi triển lãm qua đường cầu thang phía cuối sảnh. Nhưng nếu hắn có muốn bỏ đi thì đi ra theo lối vào chính sẽ an toàn hơn rất nhiều, lối này dẫn xuống khu tiền sảnh tao nhã và đường phố đông đúc.
Cầu thang phía cuối hành lang nơi nàng đang đứng lại dẫn ra một con hẻm.
Nếu gã Burton đã rời khỏi tòa nhà này theo lối cầu thang ấy, Venetia tự nhủ, thì thôi nàng cũng nên từ bỏ ý định đối mặt hắn tối nay cho rồi.
Nhưng vẫn còn có một khả năng khác. Nhân phẩm của Burton cũng chẳng phải hạng cao cả gì, nàng tự nhắc nhở mình. Có lẽ hắn đã lẻn vào văn phòng ông Farley để nhòm ngó cũng nên. Chắc chắn là trong phòng ấy có cất giữ nhiều thông tin về khách hàng của hãng. Burton chẳng ngại ngần gì mà không thó đi thứ có thể mang lại lợi nhuận tiềm tàng.
Di chuyển khẽ khàng hết mức để không gây ra âm thanh báo động, nàng dợm bước dọc theo lối hành lang dẫn đến văn phòng Farley.
Mới dấn hai bước vào trong bóng tối nàng đã nghe thấy tiếng cánh cửa khe khẽ mở ra ở đầu kia hành lang.
Nàng quay phắt lại, định chạy bổ ngược lại phía lối đi kia để chặn ngang lối Burton. Nhưng một thoáng do dự cảm lạnh sống lưng lóa lên làm nàng ngần ngại.
Nếu đấy là Burton, thì hắn đang hành xử theo kiểu chỉ có thể được mô tả là lấm lét. Cũng đáng để xem thử liệu nàng có thể phát hiện ra hắn đang muốn gì. Có thể kiếm được chút ít lợi thế nào, nàng đều cần đến cả.
Venetia nhón chân bước trở lại phía có hai hành lang giao nhau và đứng sững lại ngay trước khi bước vào hành lang chính.
Những tiếng ồn nghèn nghẹt từ đám đông trong dãy phòng triển lãm đột nhiên dường như xa hẳn. Nàng cảm thấy lòng dạ nôn nao khi ở một mình trong bóng tối.
Có tiếng bước chân vọng lại từ phía hành lang kia. Không phải Burton đang đi về phía nàng. Hắn đang di chuyển về hướng cầu thang hậu. Chỉ vài giây nữa thôi hắn sẽ đi mất. Nếu nàng không ra tay ngay bây giờ, hắn sẽ trốn thoát.
Nhưng có điều gì đó ngăn nàng lại. Không phải là nàng ngán gì Burton, Venetia tự nhủ. Nàng chỉ đang tức giận vì những hành động nàng chắc mẩm là hắn đã làm, nhưng nàng không hãi sợ. Vậy tại sao nàng lại do dự cơ chứ?
Venetia tập trung tinh thần và tay túm lấy váy, tiến thêm một bước nữa về trước và rón rén nghiêng người ngó vào trong hành lang kia.
Ánh trăng mờ đục soi bóng một người đàn ông mặc áo choàng dài và đội mũ cao. Hắn ta đang di chuyển lanh lẹ ra xa khỏi nàng, sải từng bước dài quả quyết về phía cầu thang.
Không phải Burton rồi, nàng rút ra kết luận. Gã này cao ráo hơn. Hắn ta không xớn xác lủi đi như cái kiểu đặc trưng của Burton. Thay vào đó, gã di chuyển khoan thai, nhịp nhàng, uyển chuyển, duyên dáng đến lạ, theo cách gợi cho ta nghĩ về sức mạnh và quyền lực. Giống kiểu đi của Gabriel, nàng thầm nghĩ.
Nàng tập trung hết mực, nhìn vào dáng hình đang bước đi kia như thể hắn là người mẫu ảnh còn nàng thì đang sửa soạn chụp, cố gắng bắt lấy thần khí của hắn.
Ánh sáng và bóng tối đảo ngược. Hành lang biến thành phim âm bản. Một thần khí giần giật hiện quanh gã đàn ông ở cuối hành lang. Những bóng sắc năng lượng vừa lạnh vừa nóng tóe ra trong bóng tối.
Nỗi sợ hãi phóng qua người nàng. Bao nhiêu năm nay nàng đã trông thấy nhiều thần khí khác nhau, nhưng chẳng có cái nào lại khiến nàng cảnh giác bằng thần khí này.
Ngay lúc ấy nàng ngộ ra được rằng mình đang nhìn thấy một luồng năng lượng phẫn nộ, dị thường, tỏa ra từ một sự khát thèm lạ lùng, quái gở. Theo trực giác nàng cảm nhận được rằng sẽ không có người phụ nữ nào có thể thỏa mãn được niềm khát khao bệnh hoạn đó. Nàng khấn nguyện cho mình sẽ không bao giờ phải biết đến bản chất của bất cứ điều gì mà con quái vật kia cần để thỏa mãn cơn đói khát kinh khủng của hắn.
Thật nhẹ nhõm cả người khi dáng hình ấy chìm xuống cầu thang rồi biến mất.
Trong vài giây Venetia đứng im náu mình nơi hai sảnh giao nhau, run rẩy đến nỗi không thể cất bước.
Chợt nàng nhớ đến Harold Burton.
Một mối lo sợ đến buồn nôn dấy lên trong nàng.
Nàng ép mình bước ra khỏi sảnh đi xuống hành lang dẫn đến phòng tối.
“Ông Burton?” Nàng gõ một lần lên cánh cửa.
Chẳng có tiếng trả lời.
“Ông có trong đấy không?”
Sự im lặng làm tóc gáy nàng dựng hết cả lên.
Chẳng có lý do gì phải trì hoãn thêm nữa. Tận sâu trong tâm khảm nàng biết rằng đã có điều gì đấy khủng khiếp xảy ra trong căn phòng tối này. Nàng cũng cảm giác được rằng, dù mình có cố gõ cửa đến hụt hơi đi nữa. Harold Burton chắc chắn sẽ không trả lời.
Venetia vặn nắm đấm cửa và từ từ mở cửa ra.
Ai đó đã kéo tấm trướng nặng nề thường che khuất cánh cửa số nhỏ bé trong phòng tối. Ánh trăng hình tam giác xiên xiên soi sáng hình dáng Burton đang nằm sóng soài, bất động. Hắn nằm ngửa trên sàn, mắt trợn trừng vô hồn hướng lên trần nhà.
“Trời đất thánh thần ôi.”
Nàng quỳ thụp xuống cạnh hắn, váy dồn thành đống quanh nàng, đoạn nàng lần ngón tay dò tìm mạch của hắn. Động mạch ở yết hầu gã Burton không còn nhịp đập nào của sự sống. Làn da của hắn đã bắt đầu chuyển lạnh bất thường rồi.
Rồi nàng nhìn thấy chai rượu brandy và chiếc ly chổng chơ trên quầy rượu. Những giọt rượu nhỏ tong tỏng xuống mép quầy và đổ tung tóe lên sàn nhà. Nàng có thể ngửi thấy mùi brandy nồng sực lên.
“Trong này đang diễn ra chuyện quái gì thế?” tiếng của Gabriel nghe trầm thấp, đầy nguy hiểm.
Venetia nhảy dựng lên quay ngoắt người lại, sém chút không ngăn được khẽ thét lên.
“Ngài đang làm gì ở đây vậy?” nàng hào hển.
“Ta để ý thấy nàng đã rời khỏi sảnh triển lãm. Mãi không thấy nàng trở lại nên ta quyết định tìm hiểu xem chuyện gì đã giữ chân nàng.”
Venetia nhìn thấy một tay Gabriel đang siết chặt nắm đấm cửa. Có chuyện kỳ quái đang diễn ra ở đây. Nàng mau chóng tập trung và thoáng nhìn thấy một luồng năng lượng tăm tối trong bầu không khí đang bao quanh chàng.
“Nàng có sao không?” Gabriel hỏi.
Thấy nàng không trả lời ngay. Gabriel thả nắm đấm cửa ra mà nắm chặt cổ tay nàng.
“Trả lời ta nào,” chàng nhẹ nhàng bảo. “Nàng có sao không?”
“Không sao.” Venetia cố hết sức trấn tĩnh lại. Nhãn lực bình thường của nàng quay trở lại tấm chú mục. “Không, tôi ổn mà.”
Gabriel vặn cây đèn khí ga trên bàn gần đấy lên và nhìn xuống cái xác.
“Nói cho ta biết tên này là ai nào,” chàng bảo.
“Harold Burton. Hắn ta là nhiếp ảnh gia.”
“Nàng đến đây để gặp hắn ta à?”
Câu hỏi lạnh tanh.
“Không,” Venetia đáp, khẽ rùng mình. “À mà, phải. Không hẳn là thế. Không phải là như thế này.” Nàng bỏ qua không giải thích. “Tôi vừa bước vào trong phòng thì đã thấy ông ta như thế.”
“Có vết thương nào không?”
“Tôi không nghĩ thế. Không thấy máu.”
“Hắn ta không chết vì nguyên nhân tự nhiên đâu,” Gabriel bảo.
Venetia thắc mắc vì sao chàng lại đoán chắc đến vậy.
“Tôi cũng nghĩ thế,” nàng đồng tình.
Gabriel nhìn nàng, “Nàng có biết gì về chuyện này nào?”
“Có kẻ nào đó rời khỏi phòng này ngay trước khi tôi bước vào. Tôi nghĩ có lẽ hắn có liên quan đến chuyện này. Ít nhất thì hắn hẳn biết chuyện gì đã xảy ra trong đây.”
“Nàng đã nhìn thấy kẻ ấy ư?” Gabriel hỏi, giọng chàng đanh lại.
“Tôi chỉ nhìn thấy thoáng qua khi hắn đi xuống cầu thang.”
“Nàng có nhận ra hắn không?”
“Không.”
“Vậy hắn có nhìn thấy nàng không?” Câu hỏi này nghe gấp gáp hơn câu hỏi trước đến bội phần.
Nàng lắc đầu. “Tôi chắc chắn hắn không chú ý đến tôi. Như tôi đã nói, lúc ấy hắn đang di chuyển ra xa tôi. Tôi đang đứng trong lối sảnh khác, quan sát hắn quành qua góc quanh. Không, tôi chắn chắn hắn không nhìn thấy tôi. Hắn không hề dừng lại.”
Gabriel tiến một bước về phía quầy rượu, rượu brandy đổ ra đang nhỏ giọt.
“Đừng động vào rượu ấy,” nàng vội bảo. “Mà cũng đừng động vào cả cái ly kia nữa.”
Chàng dừng bước quay nhìn nàng.
“Tại sao lại không?” chàng hỏi.
Trong tình huống này thường các tay đàn ông hẳn sẽ thấy bực mình khi nghĩ rằng một phụ nữ đang ra lệnh cho mình. Phụ nữ đáng ra phải bị hoảng kinh lên hay ngất xỉu khi phải đối mặt với các tình huống dính dáng đến xác chết.
Nhưng không phải Gabriel đang chất vấn lý lẽ hay sự phán đoán của nàng. Venetia ngộ ra là thế. Chàng chỉ đơn giản muốn biết vì sao nàng lại cảnh báo chàng phải tránh xa chỗ brandy bị đổ kia.
Nàng hít vào một hơi sâu. “Ở đây chỉ có hai khả năng thôi.” Nàng nhìn vào chiếc cốc cạn rồi nhìn sang xác Burton sóng soài. “Tôi cho đây có thể là một vụ tự sát. Đây chắc hẳn là lời lý giải thường thấy trong những trường hợp như thế này. Nhưng từ những gì tôi biết về Harold Burton, tôi thấy khó mà tin được rằng hắn lại tự kết liễu đời mình.”
“Ý nàng là sao, lời lý giải thường thấy trong những vụ như thế này là thế nào?”
“Tôi đồ rằng giới chức trách sẽ tìm thấy ông Burton đã uống một cốc brandy pha xyanua.”
Gabriel siết chặt tay thành nắm đấm rồi lại nhanh chóng thả lỏng ra, như thể cố giải thoát mình khỏi điều gì đó thật khó chịu đang bám vào những ngón tay chàng. Nàng bỗng thấy đây là một cử chỉ bồn chồn đến lạ lùng đối với một người đàn ông bình thường tự chủ đến thế.
“Ta nghĩ là,” chàng lên tiếng, “nàng tốt hơn nên nói cho ta biết chính xác nàng đang làm gì trong căn phòng này.”
“Đây là một câu chuyện khá phức tạp.”
“Thế thì nàng nên nói cho nhanh vào, trước khi ta gọi cảnh sát đến đây.”
“Ôi trời ơi. Cảnh sát. Phải, dĩ nhiên rồi.” Để sau hẵng lo đến các tai tiếng có khả năng sẽ xảy ra, nàng thầm nghĩ.
Venetia giải thích, thật ngắn gọn, về hai bức ảnh nặc danh được gửi đến cho mình.
“Tôi không rõ Burton định làm gì nhưng tôi nhận ra hoặc là hắn đang cố dọa cho tôi sợ đến nỗi phải bỏ ngang sự nghiệp của mình hoặc là điều gì đó còn tệ hơn.”
“Tệ hơn à?”
“Tôi băn khoăn liệu có phải hắn định dùng những bức ảnh ấy như là khúc dạo đầu cho màn tống tiền chăng,” nàng thú nhận.
“Mấy bức ảnh đó sẽ hại đến nàng ư?”
“Không. Chúng chỉ là... làm người khác thấy rợn thôi. Ngài phải nhìn thấy chúng thì mới hiểu được.”
“Để sau rồi nàng hẵng cho ta xem. Còn bây giờ, chúng ta sẽ không đề cập đến những tấm ảnh này cho cảnh sát.”
“Nhưng chúng có thể là manh mối đấy.”
“Chúng cũng có thể là động cơ để giết người nữa đấy, Venetia.”
Ẩn ý trong những điều Gabriel vừa nói khiến Venetia sững sờ. Nàng đột nhiên thấy hơi xây xẩm.
“Ngài có nghĩ rằng cảnh sát có thể kết luận rằng tôi đã hạ sát Burton vì tôi tin rằng hắn là kẻ đã gửi cho tôi những tấm ảnh kinh khủng đó chăng?” nàng thều thào.
“Đừng bấn loạn lên như vậy chứ, phu nhân Jones. Chúng ta sẽ tiến hành từng bước để bảo đảm rằng nàng không trở thành nghi phạm trong chuyện này.”
Nỗi lo âu quặn thắt ruột gan nàng. “Nhưng ngay cả khi không nói cho cảnh sát biết về các bức ảnh, chúng ta cũng không thể chối bỏ sự thật rằng tôi đã đứng một mình trong sảnh được một lúc. Tôi là người đã phát hiện ra xác chết. Tôi không thể chứng minh được rằng còn có người khác hiện diện ở đây trước khi tôi đến. Điều gì sẽ ngăn quan chức chính quyền không nghi ngờ rằng tôi đã bỏ xyanua vào cốc của Burton chứ?”
“Cho dù cảnh sát có kết luận đây là một vụ sát nhân chứ không phải là tự sát đi nữa, ta nghĩ cũng sẽ chẳng ngoa nếu nói rằng bọn họ sẽ không nghi ngờ sự vô tội của nàng đâu.”
Venetia bắt đầu thấy bực với thái độ quyền uy bình tĩnh của chàng. “Vậy điều gì khiến ngài quả quyết đến vậy, thưa ngài?”
“Bởi vì có người có thể cung cấp cho nàng chứng cớ ngoại phạm tuyệt đỉnh,” Gabriel từ tốn đáp.
“Vậy à? Và người ấy là ai thế nhỉ?”
Gabriel dang rộng hai tay. “Sao chứ, là người chồng đáng yêu, vừa-đội-mồ-trở-lại này chứ còn ai nữa.”
“Nhưng tôi đâu có...” Nàng chợt ngừng bặt. “Ồ. Là ngài.”
“Phải rồi, phu nhân Jones à. Là ta. Chúng ta chợt tìm thấy nhau khi cả hai bước ra khỏi phòng triển lãm oi bức để tìm lấy chút riêng tư. Ta chắc là mọi người sẽ hiểu thôi.”
“Họ sẽ hiểu ư?”
“Đêm nay là đêm đầu tiên ta về tới nhà sau một tai nạn xui xẻo mà ta đã phải kinh qua trong kỳ trăng mật của chúng ta, nếu nàng còn nhớ. Ta biết rõ là một người đàn ông trong tình huống của ta sẽ làm mọi chuyện để có được dù chỉ là một phút ở riêng cùng tân nương mà anh ta đã bị chia cắt trong một quãng thời gian đằng đẵng đến vậy.”