Linnette McAfee đã ở thung lũng Buffalo được gần hai tuần. Số tiền tiết kiệm ít ỏi của cô hết nhanh hơn cô tưởng nhiều; tiền ga, tiền thức ăn và nơi ở khá tốn kém, nhưng cô không muốn dùng thẻ tín dụng cho đến khi có tiền để đổ vào đó.
Cô ở trên phố lớn và tình cờ đến thị trấn này. Vì đến giờ ăn trưa nên cô vào nhà hàng duy nhất ở đây mang tên “Ba Trong Một”. Bên ngoài, trên của sổ cô thấy ghi cần tuyển nữ phục vụ và vì chỉ còn vài trăm đô la tiền mặt nên cô quyết định xin làm việc này.
“Cô đã bao giờ làm nhân viên phục vụ chưa?”. Người đàn ông lực lưỡng mặc chiếc áo vest da có mái tóc buộc túm đằng sau hỏi cô. Trên hai cánh tay anh ta đều có hình xăm. Bình thường cô sẽ sợ phát khiếp, nhưng bây giờ thì cô lại không có cảm giác ấy. Anh ta giới thiệu tên anh ta là Buffalo Bob, và mặc dù trông hung dữ như thành viên của một băng đảng nào đó, nhưng ánh mắt anh ta lại rất hiền từ. Cô chưa kịp trả lời thì hai đứa trẻ ùa vào gọi bố- chính là Buffalo Bob. Anh ta bế bổng chúng lên đầy âu yếm. Hành động đó khiến Linnette nghĩ rằng mình không có gì phải sợ anh nữa. Sau đó, cô gặp vợ anh ta, Merily, và phát hiện ra rằng họ còn đứa con nhỏ thứ ba, đứa bé khiến Merily quá bận nên không thể quán xuyên công việc trong nhà hàng.
Linnette cũng đã có một chút kinh nghiệm phục vụ bàn. Trước đây, khi còn đi học, cô từng làm việc trong một nhà hàng bán đồ ăn tối.
“Cô có người giới thiệu không?”. Buffalo Bob hỏi lúc bọn trẻ đi lên gác và họ tiếp tục cuộc phỏng vấn.
“Không, và tôi còn không có cả chỗ ở nữa”. Có lẽ nếu cô để danh thiếp của mình lên bàn, trong đó có tên cơ quan nơi cô làm việc thì sẽ có lợi hơn chăng?
Cô vừa nghĩ vừa mỉm cười.
Anh ta cũng cười lại với cô, nhưng rồi lại cố ra vẻ lạnh lùng. “Công việc kèm theo một phòng nghỉ. Không phải là khách sạn Ritz đâu nên cô đừng quá hy vọng, nhưng cũng sạch sẽ, và còn có một chiếc tivi. Chúng tôi cũng sống ở đây”. Anh ta nhìn cô rất kỳ cục. “Cô chạy trốn luật pháp đấy à?”.
“Không hề”. Cô thấy choáng khi anh ta có thể hỏi một câu như vậy.
“Chúng tôi không muốn có rắc rối ở đây”, anh ta cảnh báo cô.
“Tôi sẽ không gây rắc rối gì đâu”. Cô khẳng định.
Dù nghi ngờ nhưng cuối cùng Buffalo Bob đã cho cô một công việc khá ổn định. Thị trấn này có nhiều đặc điểm giống nơi cô đã rời đi. Tuy nhiên, nó nhỏ hơn và ở đây không có Cal Washburn.
Đây là ngày nghỉ đầu tiên của Linnette sau mười ngày làm việc liên tục và cô dự định sẽ khám phá khu vực này. Cô đã gặp được vài người. Hassie Knight, chủ một hiệu thuốc - người có lẽ phải đến tám mươi tuổi. Bà luôn biết cách hướng dẫn và đưa ra những lời khuyên tốt nhất cho mọi người. Điều này khiến cô nhớ tới Charlotte Rhodes ở vịnh Cedar. Maddy McKenna, chủ một quầy tạp hóa, cô ấy sống ngoài thị trấn với chồng và hai con: một trai, một gái. Linnette đã làm quen với cả bốn người. Chủ nhật tuần trước và ngay lập tức thấy thích Maddy. Khi người bạn mới mời cô tới thăm nông trại của họ, hai đứa trẻ rất háo hức muốn được dẫn cô đi thăm thú xung quanh, nhất là khi chúng biết rằng cô chưa bao giờ được nhìn thấy một con trâu thục sự. “Trâu, chứ không phải bò”, chúng đồng thanh sửa lại cho cô.
Jeb, chồng của Maddy lại khá kín tiếng. Anh thường im lặng mỉm cười nhìn vợ con, chỉ có Maddy nói chuyện là chính. Linnette thấy anh đi khập khiễng nhưng không hề tự ti. Chính anh đã bảo Maddy mời cô tới nông trại.
Lúc Linnette ngồi vào xe, bầu trời u ám như sắp sửa mưa to. Vài ngày trước cô và Maddy đã ngồi uống cà phê với nhau. Maddy đã vẽ đường cho cô tới nông trại. Linnette chỉ muốn kể với Gloria ngay về những nét vẽ dẫn đường này và biết chắc chị mình sẽ thấy thích thú. Là một cảnh sát, Gloria đã nghe rất nhiều những chỉ dẫn dài dòng, khó hiểu từ những người trong cộng đồng.
Theo lời Maddy, Linnette lái xe khoảng hơn hai dặm về phía nam, rẽ trái ở chỗ cây sồi chết khô, tiếp tục đi theo con đường đó cho tới khi gặp đoạn trũng và chiếc hộp phát thư có viết chữ màu đen. Từ đó, cô sẽ phải... Linnette giở tiếp sang tờ hướng dẫn kế tiếp.
Bầu trời khiến cô nhớ tới màu xám của những chiếc tàu hải quân đậu ở vịnh.
Còn ở bang Wasington, bầu trời thế này thường báo hiệu một cơn mưa lớn. Cô biết chắc chắn ở đây cũng sẽ như vậy.
Càng ngày trời càng u ám, và nóng nực. Cái nóng khủng khiếp của tháng Chín không hề giống cái nóng ở vịnh Cedar nhưng điều khiến Linnette ngạc nhiên nhất là mọi vật quá yên lặng. Mặc dù đã hạ hết cửa sổ xuống, cô vẫn không hề nghe thấy tiếng hót của bất cứ một con chim nào. Đường phố hoàn toàn vắng lặng.
Và rồi cô nhìn thấy nó.
Một cột mây đen khổng lồ xoắn ốc ở phía xa. Cô nhận ra hình phễu đặc trưng của một cơn lốc xoáy. Lốc xoáy ư? Ở đây ? Bây giờ? Không, sao có thể như thế được?
Suy nghĩ tiếp theo lóe lên trong đầu cô là: Mình phải làm gì? Thời gian học y tá đã giúp cô bình tĩnh để phân tích mối nguy hiểm. Mặc dù đang vô cùng lo sợ nhưng cô vẫn không để mình bị hoảng loạn. Bình tĩnh nào, cô tự nhủ. Hãy bình tĩnh.
Bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi, cô phanh xe và dừng lại bên đường. Có lẽ ở bên trong xe là an toàn nhất. Nhìn qua kính chắn gió, cô thấy cơn lốc đang tiến thẳng về phía mình. Nếu cô không chạy nhanh để thoát khỏi nó, chắc chắn cô sẽ bị giết chết. Hình ảnh Cảnh sát trưởng Davis đến trước cửa nhà bố mẹ cô để thông báo về cái chết của cô khiến cô không thể nào chịu nổi. Mẹ cô vẫn khăng khăng rằng Linnette đã có quyết định sai lầm. Việc này là khẳng định cho điều ấy chăng?
Không ý thức được mình đang làm gì, Linnette bò ra khỏi xe. Cô sẽ chết sao? Có thể lắm, cô nghĩ. Cô sẽ không thể sống sót được. Gió có thể mạnh tới mức cuốn cô đi sang cánh đồng khác - hoặc sang hạt khác. Lý do duy nhất để cô vẫn đứng được ở đây là vì cô đang nắm chặt cửa xe. Gió quật tóc vào mặt cô bỏng rát.
Và rồi, chẳng biết từ đâu, một chiếc xe khác xuất hiện và hướng về phía cô.
Rõ ràng là nó cũng đang chạy trốn cơn lốc xoáy. Nó đỗ xịch lại bên cạnh cô.
“Vào đi!”. Người đàn ông hét lên và mở cửa.
Linnette nhảy vào trong xe. Lơ lửng một nửa ở trong và một nửa ở ngoài, cô bám chặt lấy thành ghế, và trong lúc anh ta tiếp tục lái xe đi, cô cố hết sức để trườn nốt người vào trong xe. Chợt xe phanh kít lại và cánh cửa kêu đánh rầm.
“Ra mau!” anh ta gào lên.
Không thể nào mở nổi cửa xe vì gió quá mạnh Linnette dùng sức nặng của cả cơ thể để đẩy cho tới khi mở được ra. Người đàn ông đã ra khỏi xe, anh tóm lấy eo cô và kéo cô vào một cái cống ngầm ở ven đường.
“Chúng ta chết mất”, Linnette bảo anh ta, tự thấy ngạc nhiên vì giọng mình bình tĩnh đến vậy. Rồi gió ầm ầm thổi tới. Họ cúi rạp xuống và gió hất cả hai ngã xuống đất. Tiếng gió gầm rú như tiếng động cơ phản lực gào thét trong đường hầm. Linnette kêu thét lên vì sợ hãi. Người đàn ông lạ mặt siết chặt eo cô, kéo cô sát vào người, vòng tay ôm trọn bờ vai cô để bảo vệ. Tiếng gió vẫn gào rú từng hồi, nghe thật khủng khiếp. Cô thấy đầu óc nhức buốt.
Rồi, cũng như lúc đến, cơn lốc qua đi.
Tai Linnette bị đau. Cô không biết là tại âm thanh khủng khiếp của gió hay tại sự thay đổi khí áp.
“Vậy là chúng ta không chết”, người đàn ông bảo cô.
“Vâng”. Cô nhìn lên và chìm đắm vào đôi mắt còn xanh hơn cả màu mắt xanh thẳm của Cal. Ký ức hiện vẽ khiến cô bật khóc.
“Này, mọi việc đều ổn cả mà”.
“Tôi biết”. Nhưng cô vẫn không ngừng khóc.
Anh buông cô ra và với trong chiếc ba lô đeo trên lưng một chiếc khăn tay sạch màu trắng. Trước đó cô chưa từng gặp người đàn ông nào mang theo khăn tay bên người.
Sự quan tâm của anh càng khiến cô khóc nức nở hơn, không phải là những tiếng sụt sịt, mà là những tiếng nấc nghẹn ngào khiến vai cô rung lên dữ dội. Cô và người đàn ông lạ mặt vẫn quỳ trong cống cạnh nhau.
“Tôi là Pete Mason”, anh bảo cô. “Anh tôi và tôi có một trại lúa mì cách đây khoảng mười dặm ở cuối đường này, tôi vào thị trấn để mua đồ”.
“Linnette McAfee”, cô nói trong tiếng nấc.
“Cô có bị đau không?”.
“Không”, cô nghẹn ngào. “Anh biết không, tôi yêu, tôi đã yêu thực sự và rồi Cal bỏ tôi. Anh ấy ra đi... để cứu những con ngựa và rồi anh ấy đem lòng yêu cô bác sỹ thú y. Sự thực là họ rất hợp nhau”.
“Tôi biết”.
Rõ ràng là anh ta chẳng biết chuyện gì hết. “Và... và em trai tôi có khoản tiền mà nó chưa từng kể với ai”.
Pete nhìn cô chăm chú. Linnette không hiểu tại sao cô lại không thể ngừng lại nổi mặc dù đã cố, lời nói cứ như thể bay ra khỏi miệng cô một cách không thể kiểm soát. “Tôi đi khỏi vịnh Cedar thị trấn quê hương tôi. Tôi chỉ mang theo một ít đồ và cứ thế lái xe đi. Mọi người cho rằng tôi ngốc và và có thể tôi ngốc thật. Ngay cả mẹ tôi, chính mẹ tôi cũng bảo rằng tôi đang phạm một sai lầm khủng khiếp”.
“Linnette...”.
“Tôi tưởng tôi biết rõ về tình yêu, nhưng thực ra tôi tôi chẳng biết gì hết”.
Pete vòng tay qua vai cô để an ủi.
Cô dùng chiếc khăn của anh lau sạch mũi rồi nói giọng run rẩy. “Tôi không biết tại sao tôi lại nói với anh chi tiết về cuộc đời mình. Tôi đã làm việc cho Buffalo Bob và Merily được gần hai tuần. Thế nhưng tôi có kể gì với họ đâu?”.
Có thế là do cô đang bị suy sụp tinh thần. Cũng có thể cơn lốc xoáy và nỗi sợ hãi đến cùng cực đã đẩy cô đến tình trạng đó. Cô còn biết phải giải thích ra sao về những gì vừa xảy ra với cô. Trước đây, cô chưa bao giờ xử sự thế này với bất kỳ ai. Vậy mà cô lại đi phơi bày hết đời tư của mình trước một người hoàn toàn lạ mặt.
“Cô sẽ ổn chứ nếu tôi để cô ở đây một phút?”. Pete hỏi Linnette.
Cô gật đầu. “Vâng, tôi sẽ không sao đâu”. Nhưng khi anh vừa định đứng lên và bắt đầu rời khỏi cống thì cô cũng đứng dậy và bước theo anh. Họ mò mẫm ra khỏi cống.
Vừa ra đến đường, Linnette há hốc miệng vì kinh hãi. Trông như thể có ai đó đã thiêu trụi một vệt dài trên mặt đất, quét sạch mọi thứ. Rồi cô chợt nhận ra chiếc xe của mình đã biến mất.
“Xe của tôi!”. Cô choáng váng bật khóc. Nếu như cô cứ ngồi nguyên trong xe, chắc cô cũng đã bị cuốn mất hút vào không trung... “Anh đã cứu tôi”, cô bảo anh. “Anh đã cứu tôi! Nếu anh không tới thì có khi bây giờ tôi đã chết rồi”.
“Chỉ chậm hai phút nữa thôi là cả hai chúng ta cùng đi đời”.
Chiếc xe tải của Pete bị lật nhào cách đó khoảng gần hai trăm mét.
“Chúng ta làm gì bây giờ đây?”, cô hỏi một cách vô vọng.
“Hoặc là chúng ta đi bộ về thị trấn, hoặc là chờ xem có ai lái xe qua không”, Pete bảo cô. “Theo tôi thì nên chờ”.
“Được rồi”. Thực ra cô cũng chẳng biết mình có thể làm gì khác. Và anh là người duy nhất quen thuộc khu vực này.
Họ ngồi xuống trên một vuông cỏ bằng phẳng. Giờ đây, khi căng thẳng đã qua đi, cô cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức. Cô bắt đầu để ý người đàn ông đã cứu mình, anh cao trên một mét tám, cao đến mức cô phải nghiêng cả đầu để nhìn.
Anh cũng gầy nữa. Lúc cô mới trông thấy anh, anh đội một chiếc mũ cao bồi, nhưng giờ thì nó đã bị gió thổi bay. Anh không thật sự đẹp trai, nhưng ở anh có cái gì đó rất cuốn hút, đặc biệt là đôi mắt xanh ngời sáng. Gò má anh nhô cao và mũi trông như đã từng bị gãy. Cô cũng để ý thấy cằm anh có một cái lúm. Dù sao, cô cũng phải công nhận rằng anh thật hấp dẫn.
Ít nhất phải một tiếng đồng hồ trôi qua mới có người lái xe qua.
Họ ngồi đó tán gẫu linh tinh với nhau và cô bắt đầu cảm thấy không thoải mái khi có Pete ở bên. May mà anh không nhắc tới việc cô đã kể hết cả những chuyện rắc rối của đời mình cho anh nghe - chẳng hạn việc Cal bỏ cô để yêu Vicki. Câu chuyện đó cứ lơ lửng giữa hai người.
Người cho đi nhờ xe vào thị trấn thả Linnette xuống nhà hàng Ba Trong Một. Lúc đó, cô bối rối đến mức thậm chí chẳng dám nhìn vào mắt Pete. Xấu hổ nhất là vì cô nhận ra trong khi cô không thể ngừng kể về bản thân mình thì Pete chẳng hề chia sẻ gì với cô về cuộc đời anh. Cô chỉ biết rằng anh sống trong nông trại của gia đình. Có thể anh đã lấy vợ và có một căn nhà với những đứa con xinh xắn. Tất nhiên, cô không trông đợi một chuyện tình lãng mạn. Cô đang chạy trốn khỏi một tình yêu, và cô cũng không có ý định để mình rơi vào một tình yêu khác quá nhanh chóng như vậy.
“Một lần nữa cảm ơn anh”. Cô vẫy tay chào người lái xe và Pete, lúc này anh đang hạ thấp cửa sổ xuống.
“Như tôi đã nói với cô, Dennis Urlacher có thể đưa xe của cô vào thị trấn”.
Anh gọi với theo cô. “Anh ta sẽ lấy cô tiền sửa rẻ thôi”.
“Vâng, cảm ơn, cảm ơn anh nhiều”. Cô đỏ mặt chạy vội vào nhà hàng. Lúc này, cô đâu quan tâm gì tới chiếc xe. Có thể họ sẽ chẳng bao giờ tìm ra nó. Có thể nó đang ở hạt bên cạnh hoặc cũng có thể ở dưới đáy một cái hố nào đó.
Liunette thấy thật may mắn vì mình đã không ngồi trong xe.
“Cô có ổn không?”, Buffalo Bob hỏi cô. “Merlly lo quá vì cô ấy nhớ ra là hôm nay cô đến chỗ McKenna. Chúng tôi nghe nói ở đó có lốc xoáy. Cô có thấy gì không?”.
Thay vì giải thích dài dòng, Linnette chỉ gật đầu. Cô chỉnh đốn lại trang phục đầu tóc rồi bước qua chỗ cánh đàn ông đang ngồi ở quầy rượu và bước lên tầng hai. Cô vội vàng chạy về căn phòng của mình ở phía đằng sau.
Cô quăng mình lên giường, thở hắt ra, mệt mỏi vì sống sót và vì xấu hổ. Bởi chưa gì cô đã nói hết chuyện cuộc đời mình với người lạ. Ba mươi năm sau, việc cô gặp cơn lốc xoáy sẽ trở thành một câu chuyện tuyệt vời để kể cho con cháu nghe - nếu có. Và có thể, Linnette sẽ thêm thắt chút ít cho thêm phần hài hước. Tuy nhiên, lúc này, cô chẳng thấy có gì buồn cười cả. Không có gì là buồn cười hết.
Vài ngày đã trôi qua, nhưng sự kiện khủng khiếp sáng hôm đó vẫn ám ảnh Linnette. Cứ mỗi khi nghĩ tới cơn lốc xoáy và những gì diễn ra sau đó, mặt cô lại nóng lên như bị cháy nắng.
Sau khi xem được tin tức về cơn lốc trên tivi, bố mẹ cô vội gọi điện hỏi xem cô thế nào, và Maddy cũng vậy. Cô chỉ miêu tả vắn tắt những gì đã xảy ra và không hề đề cập tới Pete. Mọi người đều khen cô sáng suốt và phản ứng nhanh, điều đó khiến cô cảm thấy áy náy. May mà từ cái ngày định mệnh đó đến giờ cô vẫn chưa gặp lại Pete.
Rồi buổi chiều Chủ nhật, khi cô đang ngồi một mình bên bàn thì anh bước vào nhà hàng. Anh nhìn cô và gật đầu. Chọn một cái bàn trong góc, anh kéo một cái ghế và đặt chiếc mũ Stetson - rõ ràng là một cái mới - lên trên chiếc ghế trông bên cạnh. Không còn cách nào khác, Linnette phải mang thực đơn và một ly nước đá ra cho anh.
“Rất vui được gặp lại cô”, Pete nhìn cô và mỉm cười.
Không đủ tự tin để nói, Linnette cắn môi và gật đầu.
“Cô đã tìm thấy xe chưa?”, anh vừa mở thực đơn vừa hỏi cô.
“Nó thành đồ bỏ rồi”, cô bảo anh. Xe bị hỏng nặng, một bên bị va mạnh vào một cái cây cách nơi cô đỗ vài cánh đồng. Kính bị vỡ gần hết và khung xe cũng bị hỏng nặng. Trước đây khi phải trả một khoản tiền bảo hiểm hàng tháng kha khá cho chiếc xe, cô luôn thấy tiếc. Bây giờ cô mới thấy mình may mắn vì đã đóng bảo hiểm. Theo thợ sửa xe, cô nên mua một chiếc xe mới.
“Tôi rất vui”, Pete rời mắt khỏi thực đơn. Anh chọn món thịt cừu và khoai tây nghiền đặc biệt.
“Thế còn... xe của anh?”. Cô hỏi một cách lịch sự.
Anh nhún vai. “Bị lõm vài chỗ, như thế cũng tốt, cho thêm phần cá tính”. Cô cảm thấy thích sự tự nhiên và hài hước của anh. Anh tiếp tục nói: “Giống như việc trái tim tan vỡ vậy. Nó khiến con người ta trở nên cá tính...”.
Linnete nhìn anh chằm chằm, cô giật thực đơn ra khỏi tay anh và nặng nề đi vào nơi chuẩn bị đồ ăn. Sao anh ta dám nói thế với cô chứ? Có thể Pete đã cứu sống cô, nhưng như thế không có nghĩa anh ta không được phép chế nhạo cô.
Cô sẽ không bao giờ nói chuyện với anh ta nữa, Linnette quyết định. Không bao giờ.
Linnette McAfee đã ở thung lũng Buffalo được gần hai tuần. Số tiền tiết kiệm ít ỏi của cô hết nhanh hơn cô tưởng nhiều; tiền ga, tiền thức ăn và nơi ở khá tốn kém, nhưng cô không muốn dùng thẻ tín dụng cho đến khi có tiền để đổ vào đó.
Cô ở trên phố lớn và tình cờ đến thị trấn này. Vì đến giờ ăn trưa nên cô vào nhà hàng duy nhất ở đây mang tên “Ba Trong Một”. Bên ngoài, trên của sổ cô thấy ghi cần tuyển nữ phục vụ và vì chỉ còn vài trăm đô la tiền mặt nên cô quyết định xin làm việc này.
“Cô đã bao giờ làm nhân viên phục vụ chưa?”. Người đàn ông lực lưỡng mặc chiếc áo vest da có mái tóc buộc túm đằng sau hỏi cô. Trên hai cánh tay anh ta đều có hình xăm. Bình thường cô sẽ sợ phát khiếp, nhưng bây giờ thì cô lại không có cảm giác ấy. Anh ta giới thiệu tên anh ta là Buffalo Bob, và mặc dù trông hung dữ như thành viên của một băng đảng nào đó, nhưng ánh mắt anh ta lại rất hiền từ. Cô chưa kịp trả lời thì hai đứa trẻ ùa vào gọi bố- chính là Buffalo Bob. Anh ta bế bổng chúng lên đầy âu yếm. Hành động đó khiến Linnette nghĩ rằng mình không có gì phải sợ anh nữa. Sau đó, cô gặp vợ anh ta, Merily, và phát hiện ra rằng họ còn đứa con nhỏ thứ ba, đứa bé khiến Merily quá bận nên không thể quán xuyên công việc trong nhà hàng.
Linnette cũng đã có một chút kinh nghiệm phục vụ bàn. Trước đây, khi còn đi học, cô từng làm việc trong một nhà hàng bán đồ ăn tối.
“Cô có người giới thiệu không?”. Buffalo Bob hỏi lúc bọn trẻ đi lên gác và họ tiếp tục cuộc phỏng vấn.
“Không, và tôi còn không có cả chỗ ở nữa”. Có lẽ nếu cô để danh thiếp của mình lên bàn, trong đó có tên cơ quan nơi cô làm việc thì sẽ có lợi hơn chăng?
Cô vừa nghĩ vừa mỉm cười.
Anh ta cũng cười lại với cô, nhưng rồi lại cố ra vẻ lạnh lùng. “Công việc kèm theo một phòng nghỉ. Không phải là khách sạn Ritz đâu nên cô đừng quá hy vọng, nhưng cũng sạch sẽ, và còn có một chiếc tivi. Chúng tôi cũng sống ở đây”. Anh ta nhìn cô rất kỳ cục. “Cô chạy trốn luật pháp đấy à?”.
“Không hề”. Cô thấy choáng khi anh ta có thể hỏi một câu như vậy.
“Chúng tôi không muốn có rắc rối ở đây”, anh ta cảnh báo cô.
“Tôi sẽ không gây rắc rối gì đâu”. Cô khẳng định.
Dù nghi ngờ nhưng cuối cùng Buffalo Bob đã cho cô một công việc khá ổn định. Thị trấn này có nhiều đặc điểm giống nơi cô đã rời đi. Tuy nhiên, nó nhỏ hơn và ở đây không có Cal Washburn.
Đây là ngày nghỉ đầu tiên của Linnette sau mười ngày làm việc liên tục và cô dự định sẽ khám phá khu vực này. Cô đã gặp được vài người. Hassie Knight, chủ một hiệu thuốc - người có lẽ phải đến tám mươi tuổi. Bà luôn biết cách hướng dẫn và đưa ra những lời khuyên tốt nhất cho mọi người. Điều này khiến cô nhớ tới Charlotte Rhodes ở vịnh Cedar. Maddy McKenna, chủ một quầy tạp hóa, cô ấy sống ngoài thị trấn với chồng và hai con: một trai, một gái. Linnette đã làm quen với cả bốn người. Chủ nhật tuần trước và ngay lập tức thấy thích Maddy. Khi người bạn mới mời cô tới thăm nông trại của họ, hai đứa trẻ rất háo hức muốn được dẫn cô đi thăm thú xung quanh, nhất là khi chúng biết rằng cô chưa bao giờ được nhìn thấy một con trâu thục sự. “Trâu, chứ không phải bò”, chúng đồng thanh sửa lại cho cô.
Jeb, chồng của Maddy lại khá kín tiếng. Anh thường im lặng mỉm cười nhìn vợ con, chỉ có Maddy nói chuyện là chính. Linnette thấy anh đi khập khiễng nhưng không hề tự ti. Chính anh đã bảo Maddy mời cô tới nông trại.
Lúc Linnette ngồi vào xe, bầu trời u ám như sắp sửa mưa to. Vài ngày trước cô và Maddy đã ngồi uống cà phê với nhau. Maddy đã vẽ đường cho cô tới nông trại. Linnette chỉ muốn kể với Gloria ngay về những nét vẽ dẫn đường này và biết chắc chị mình sẽ thấy thích thú. Là một cảnh sát, Gloria đã nghe rất nhiều những chỉ dẫn dài dòng, khó hiểu từ những người trong cộng đồng.
Theo lời Maddy, Linnette lái xe khoảng hơn hai dặm về phía nam, rẽ trái ở chỗ cây sồi chết khô, tiếp tục đi theo con đường đó cho tới khi gặp đoạn trũng và chiếc hộp phát thư có viết chữ màu đen. Từ đó, cô sẽ phải... Linnette giở tiếp sang tờ hướng dẫn kế tiếp.
Bầu trời khiến cô nhớ tới màu xám của những chiếc tàu hải quân đậu ở vịnh.
Còn ở bang Wasington, bầu trời thế này thường báo hiệu một cơn mưa lớn. Cô biết chắc chắn ở đây cũng sẽ như vậy.
Càng ngày trời càng u ám, và nóng nực. Cái nóng khủng khiếp của tháng Chín không hề giống cái nóng ở vịnh Cedar nhưng điều khiến Linnette ngạc nhiên nhất là mọi vật quá yên lặng. Mặc dù đã hạ hết cửa sổ xuống, cô vẫn không hề nghe thấy tiếng hót của bất cứ một con chim nào. Đường phố hoàn toàn vắng lặng.
Và rồi cô nhìn thấy nó.
Một cột mây đen khổng lồ xoắn ốc ở phía xa. Cô nhận ra hình phễu đặc trưng của một cơn lốc xoáy. Lốc xoáy ư? Ở đây ? Bây giờ? Không, sao có thể như thế được?
Suy nghĩ tiếp theo lóe lên trong đầu cô là: Mình phải làm gì? Thời gian học y tá đã giúp cô bình tĩnh để phân tích mối nguy hiểm. Mặc dù đang vô cùng lo sợ nhưng cô vẫn không để mình bị hoảng loạn. Bình tĩnh nào, cô tự nhủ. Hãy bình tĩnh.
Bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi, cô phanh xe và dừng lại bên đường. Có lẽ ở bên trong xe là an toàn nhất. Nhìn qua kính chắn gió, cô thấy cơn lốc đang tiến thẳng về phía mình. Nếu cô không chạy nhanh để thoát khỏi nó, chắc chắn cô sẽ bị giết chết. Hình ảnh Cảnh sát trưởng Davis đến trước cửa nhà bố mẹ cô để thông báo về cái chết của cô khiến cô không thể nào chịu nổi. Mẹ cô vẫn khăng khăng rằng Linnette đã có quyết định sai lầm. Việc này là khẳng định cho điều ấy chăng?
Không ý thức được mình đang làm gì, Linnette bò ra khỏi xe. Cô sẽ chết sao? Có thể lắm, cô nghĩ. Cô sẽ không thể sống sót được. Gió có thể mạnh tới mức cuốn cô đi sang cánh đồng khác - hoặc sang hạt khác. Lý do duy nhất để cô vẫn đứng được ở đây là vì cô đang nắm chặt cửa xe. Gió quật tóc vào mặt cô bỏng rát.
Và rồi, chẳng biết từ đâu, một chiếc xe khác xuất hiện và hướng về phía cô.
Rõ ràng là nó cũng đang chạy trốn cơn lốc xoáy. Nó đỗ xịch lại bên cạnh cô.
“Vào đi!”. Người đàn ông hét lên và mở cửa.
Linnette nhảy vào trong xe. Lơ lửng một nửa ở trong và một nửa ở ngoài, cô bám chặt lấy thành ghế, và trong lúc anh ta tiếp tục lái xe đi, cô cố hết sức để trườn nốt người vào trong xe. Chợt xe phanh kít lại và cánh cửa kêu đánh rầm.
“Ra mau!” anh ta gào lên.
Không thể nào mở nổi cửa xe vì gió quá mạnh Linnette dùng sức nặng của cả cơ thể để đẩy cho tới khi mở được ra. Người đàn ông đã ra khỏi xe, anh tóm lấy eo cô và kéo cô vào một cái cống ngầm ở ven đường.
“Chúng ta chết mất”, Linnette bảo anh ta, tự thấy ngạc nhiên vì giọng mình bình tĩnh đến vậy. Rồi gió ầm ầm thổi tới. Họ cúi rạp xuống và gió hất cả hai ngã xuống đất. Tiếng gió gầm rú như tiếng động cơ phản lực gào thét trong đường hầm. Linnette kêu thét lên vì sợ hãi. Người đàn ông lạ mặt siết chặt eo cô, kéo cô sát vào người, vòng tay ôm trọn bờ vai cô để bảo vệ. Tiếng gió vẫn gào rú từng hồi, nghe thật khủng khiếp. Cô thấy đầu óc nhức buốt.
Rồi, cũng như lúc đến, cơn lốc qua đi.
Tai Linnette bị đau. Cô không biết là tại âm thanh khủng khiếp của gió hay tại sự thay đổi khí áp.
“Vậy là chúng ta không chết”, người đàn ông bảo cô.
“Vâng”. Cô nhìn lên và chìm đắm vào đôi mắt còn xanh hơn cả màu mắt xanh thẳm của Cal. Ký ức hiện vẽ khiến cô bật khóc.
“Này, mọi việc đều ổn cả mà”.
“Tôi biết”. Nhưng cô vẫn không ngừng khóc.
Anh buông cô ra và với trong chiếc ba lô đeo trên lưng một chiếc khăn tay sạch màu trắng. Trước đó cô chưa từng gặp người đàn ông nào mang theo khăn tay bên người.
Sự quan tâm của anh càng khiến cô khóc nức nở hơn, không phải là những tiếng sụt sịt, mà là những tiếng nấc nghẹn ngào khiến vai cô rung lên dữ dội. Cô và người đàn ông lạ mặt vẫn quỳ trong cống cạnh nhau.
“Tôi là Pete Mason”, anh bảo cô. “Anh tôi và tôi có một trại lúa mì cách đây khoảng mười dặm ở cuối đường này, tôi vào thị trấn để mua đồ”.
“Linnette McAfee”, cô nói trong tiếng nấc.
“Cô có bị đau không?”.
“Không”, cô nghẹn ngào. “Anh biết không, tôi yêu, tôi đã yêu thực sự và rồi Cal bỏ tôi. Anh ấy ra đi... để cứu những con ngựa và rồi anh ấy đem lòng yêu cô bác sỹ thú y. Sự thực là họ rất hợp nhau”.
“Tôi biết”.
Rõ ràng là anh ta chẳng biết chuyện gì hết. “Và... và em trai tôi có khoản tiền mà nó chưa từng kể với ai”.
Pete nhìn cô chăm chú. Linnette không hiểu tại sao cô lại không thể ngừng lại nổi mặc dù đã cố, lời nói cứ như thể bay ra khỏi miệng cô một cách không thể kiểm soát. “Tôi đi khỏi vịnh Cedar thị trấn quê hương tôi. Tôi chỉ mang theo một ít đồ và cứ thế lái xe đi. Mọi người cho rằng tôi ngốc và và có thể tôi ngốc thật. Ngay cả mẹ tôi, chính mẹ tôi cũng bảo rằng tôi đang phạm một sai lầm khủng khiếp”.
“Linnette...”.
“Tôi tưởng tôi biết rõ về tình yêu, nhưng thực ra tôi tôi chẳng biết gì hết”.
Pete vòng tay qua vai cô để an ủi.
Cô dùng chiếc khăn của anh lau sạch mũi rồi nói giọng run rẩy. “Tôi không biết tại sao tôi lại nói với anh chi tiết về cuộc đời mình. Tôi đã làm việc cho Buffalo Bob và Merily được gần hai tuần. Thế nhưng tôi có kể gì với họ đâu?”.
Có thế là do cô đang bị suy sụp tinh thần. Cũng có thể cơn lốc xoáy và nỗi sợ hãi đến cùng cực đã đẩy cô đến tình trạng đó. Cô còn biết phải giải thích ra sao về những gì vừa xảy ra với cô. Trước đây, cô chưa bao giờ xử sự thế này với bất kỳ ai. Vậy mà cô lại đi phơi bày hết đời tư của mình trước một người hoàn toàn lạ mặt.
“Cô sẽ ổn chứ nếu tôi để cô ở đây một phút?”. Pete hỏi Linnette.
Cô gật đầu. “Vâng, tôi sẽ không sao đâu”. Nhưng khi anh vừa định đứng lên và bắt đầu rời khỏi cống thì cô cũng đứng dậy và bước theo anh. Họ mò mẫm ra khỏi cống.
Vừa ra đến đường, Linnette há hốc miệng vì kinh hãi. Trông như thể có ai đó đã thiêu trụi một vệt dài trên mặt đất, quét sạch mọi thứ. Rồi cô chợt nhận ra chiếc xe của mình đã biến mất.
“Xe của tôi!”. Cô choáng váng bật khóc. Nếu như cô cứ ngồi nguyên trong xe, chắc cô cũng đã bị cuốn mất hút vào không trung... “Anh đã cứu tôi”, cô bảo anh. “Anh đã cứu tôi! Nếu anh không tới thì có khi bây giờ tôi đã chết rồi”.
“Chỉ chậm hai phút nữa thôi là cả hai chúng ta cùng đi đời”.
Chiếc xe tải của Pete bị lật nhào cách đó khoảng gần hai trăm mét.
“Chúng ta làm gì bây giờ đây?”, cô hỏi một cách vô vọng.
“Hoặc là chúng ta đi bộ về thị trấn, hoặc là chờ xem có ai lái xe qua không”, Pete bảo cô. “Theo tôi thì nên chờ”.
“Được rồi”. Thực ra cô cũng chẳng biết mình có thể làm gì khác. Và anh là người duy nhất quen thuộc khu vực này.
Họ ngồi xuống trên một vuông cỏ bằng phẳng. Giờ đây, khi căng thẳng đã qua đi, cô cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức. Cô bắt đầu để ý người đàn ông đã cứu mình, anh cao trên một mét tám, cao đến mức cô phải nghiêng cả đầu để nhìn.
Anh cũng gầy nữa. Lúc cô mới trông thấy anh, anh đội một chiếc mũ cao bồi, nhưng giờ thì nó đã bị gió thổi bay. Anh không thật sự đẹp trai, nhưng ở anh có cái gì đó rất cuốn hút, đặc biệt là đôi mắt xanh ngời sáng. Gò má anh nhô cao và mũi trông như đã từng bị gãy. Cô cũng để ý thấy cằm anh có một cái lúm. Dù sao, cô cũng phải công nhận rằng anh thật hấp dẫn.
Ít nhất phải một tiếng đồng hồ trôi qua mới có người lái xe qua.
Họ ngồi đó tán gẫu linh tinh với nhau và cô bắt đầu cảm thấy không thoải mái khi có Pete ở bên. May mà anh không nhắc tới việc cô đã kể hết cả những chuyện rắc rối của đời mình cho anh nghe - chẳng hạn việc Cal bỏ cô để yêu Vicki. Câu chuyện đó cứ lơ lửng giữa hai người.
Người cho đi nhờ xe vào thị trấn thả Linnette xuống nhà hàng Ba Trong Một. Lúc đó, cô bối rối đến mức thậm chí chẳng dám nhìn vào mắt Pete. Xấu hổ nhất là vì cô nhận ra trong khi cô không thể ngừng kể về bản thân mình thì Pete chẳng hề chia sẻ gì với cô về cuộc đời anh. Cô chỉ biết rằng anh sống trong nông trại của gia đình. Có thể anh đã lấy vợ và có một căn nhà với những đứa con xinh xắn. Tất nhiên, cô không trông đợi một chuyện tình lãng mạn. Cô đang chạy trốn khỏi một tình yêu, và cô cũng không có ý định để mình rơi vào một tình yêu khác quá nhanh chóng như vậy.
“Một lần nữa cảm ơn anh”. Cô vẫy tay chào người lái xe và Pete, lúc này anh đang hạ thấp cửa sổ xuống.
“Như tôi đã nói với cô, Dennis Urlacher có thể đưa xe của cô vào thị trấn”.
Anh gọi với theo cô. “Anh ta sẽ lấy cô tiền sửa rẻ thôi”.
“Vâng, cảm ơn, cảm ơn anh nhiều”. Cô đỏ mặt chạy vội vào nhà hàng. Lúc này, cô đâu quan tâm gì tới chiếc xe. Có thể họ sẽ chẳng bao giờ tìm ra nó. Có thể nó đang ở hạt bên cạnh hoặc cũng có thể ở dưới đáy một cái hố nào đó.
Liunette thấy thật may mắn vì mình đã không ngồi trong xe.
“Cô có ổn không?”, Buffalo Bob hỏi cô. “Merlly lo quá vì cô ấy nhớ ra là hôm nay cô đến chỗ McKenna. Chúng tôi nghe nói ở đó có lốc xoáy. Cô có thấy gì không?”.
Thay vì giải thích dài dòng, Linnette chỉ gật đầu. Cô chỉnh đốn lại trang phục đầu tóc rồi bước qua chỗ cánh đàn ông đang ngồi ở quầy rượu và bước lên tầng hai. Cô vội vàng chạy về căn phòng của mình ở phía đằng sau.
Cô quăng mình lên giường, thở hắt ra, mệt mỏi vì sống sót và vì xấu hổ. Bởi chưa gì cô đã nói hết chuyện cuộc đời mình với người lạ. Ba mươi năm sau, việc cô gặp cơn lốc xoáy sẽ trở thành một câu chuyện tuyệt vời để kể cho con cháu nghe - nếu có. Và có thể, Linnette sẽ thêm thắt chút ít cho thêm phần hài hước. Tuy nhiên, lúc này, cô chẳng thấy có gì buồn cười cả. Không có gì là buồn cười hết.
Vài ngày đã trôi qua, nhưng sự kiện khủng khiếp sáng hôm đó vẫn ám ảnh Linnette. Cứ mỗi khi nghĩ tới cơn lốc xoáy và những gì diễn ra sau đó, mặt cô lại nóng lên như bị cháy nắng.
Sau khi xem được tin tức về cơn lốc trên tivi, bố mẹ cô vội gọi điện hỏi xem cô thế nào, và Maddy cũng vậy. Cô chỉ miêu tả vắn tắt những gì đã xảy ra và không hề đề cập tới Pete. Mọi người đều khen cô sáng suốt và phản ứng nhanh, điều đó khiến cô cảm thấy áy náy. May mà từ cái ngày định mệnh đó đến giờ cô vẫn chưa gặp lại Pete.
Rồi buổi chiều Chủ nhật, khi cô đang ngồi một mình bên bàn thì anh bước vào nhà hàng. Anh nhìn cô và gật đầu. Chọn một cái bàn trong góc, anh kéo một cái ghế và đặt chiếc mũ Stetson - rõ ràng là một cái mới - lên trên chiếc ghế trông bên cạnh. Không còn cách nào khác, Linnette phải mang thực đơn và một ly nước đá ra cho anh.
“Rất vui được gặp lại cô”, Pete nhìn cô và mỉm cười.
Không đủ tự tin để nói, Linnette cắn môi và gật đầu.
“Cô đã tìm thấy xe chưa?”, anh vừa mở thực đơn vừa hỏi cô.
“Nó thành đồ bỏ rồi”, cô bảo anh. Xe bị hỏng nặng, một bên bị va mạnh vào một cái cây cách nơi cô đỗ vài cánh đồng. Kính bị vỡ gần hết và khung xe cũng bị hỏng nặng. Trước đây khi phải trả một khoản tiền bảo hiểm hàng tháng kha khá cho chiếc xe, cô luôn thấy tiếc. Bây giờ cô mới thấy mình may mắn vì đã đóng bảo hiểm. Theo thợ sửa xe, cô nên mua một chiếc xe mới.
“Tôi rất vui”, Pete rời mắt khỏi thực đơn. Anh chọn món thịt cừu và khoai tây nghiền đặc biệt.
“Thế còn... xe của anh?”. Cô hỏi một cách lịch sự.
Anh nhún vai. “Bị lõm vài chỗ, như thế cũng tốt, cho thêm phần cá tính”. Cô cảm thấy thích sự tự nhiên và hài hước của anh. Anh tiếp tục nói: “Giống như việc trái tim tan vỡ vậy. Nó khiến con người ta trở nên cá tính...”.
Linnete nhìn anh chằm chằm, cô giật thực đơn ra khỏi tay anh và nặng nề đi vào nơi chuẩn bị đồ ăn. Sao anh ta dám nói thế với cô chứ? Có thể Pete đã cứu sống cô, nhưng như thế không có nghĩa anh ta không được phép chế nhạo cô.
Cô sẽ không bao giờ nói chuyện với anh ta nữa, Linnette quyết định. Không bao giờ.