Trác Dật Phi là khách quen của Nguyên phủ, khi đến cũng không cần phải thông báo. Hắn ôm Viên Viên đi thẳng vào trong vườn.
Trong vườn có gốc cây cổ Tùng trăm năm, cao to sừng sững. Dưới gốc cây Tùng là một cái bàn đựng cầm, Nguyên Thích Chi đang ngồi ngay ngắn đánh đàn ở đấy.
Gió mát rười rượi, đàn cầm cất lên, tiếng đàn như tiếng suối chảy róc rách, gió lạnh lùa quanh cây.
Kỹ năng luyện cầm như thế lại phát ra từ tay một nhi đồng nhỏ tuổi. Người nghe tiếng cầm tấu, không ai không thể khen cậu quả thật là một thần đồng.
Trác Dật Phi cũng tự giác dừng lại, sợ quấy nhiễu cậu.
Viên Viên ở trong lòng lại nhảy xuống dưới, bước chân nho nhỏ chạy lon ton đến gần.
Tiếng đàn dừng lại, Nguyên Thích Chi nhìn thấy Viên Viên chạy tới, ngạc nhiên hỏi.
“Muội là ai?”
“Viên Viên.”
“Viên Viên?” Nguyên Thích Chi khó hiểu nghiêng đầu sang, thì thấy Trác Dật Phi đứng cách đó không xa, lập tức đứng lên chào.”Trác tiên sinh đến ạ!”
“Thích Chi, đây là Viên Viên, cháu ngoại của ta.”
“Thì ra là cháu ngoại của Trác tiên sinh.” Nguyên Thích Chi lại quay sang nhìn Viên Viên, thấy nàng mút ngón tay nhìn cậu cười ngây thơ.”Muội thật đáng yêu.”
“Viên Viên, mau gọi Thích Chi ca ca.”
“Thích Chi ca ca.”
Viên Viên gọi tên cậu, giọng nói non nớt, ngọt ngào khiến cậu vui vẻ lâng lâng.”Viên Viên muội muội, để huynh dẫn muội đi chơi nhé?”
“Được ạ.”
Thế là, tiểu ca ca sáu tuổi nắm tay tiểu muội muội hai tuổi bước ra ngoài.
***
Rằm mười lăm tháng Tám, trăng tròn sáng vằng vặc.
Ở trên Sấu Tây Hồ, có một con thuyền nhỏ.
“Lục Đồng, Dao Cơ hóa ra lại chuyển thế thành Viên Viên, cháu gái ngoại của ta. Ta đã giúp nàng ấy gặp Nguyên Thích Chi, là Tần Tình chuyển thế. Hai đứa bé vừa gặp đã thân, ngồi chơi chung với nhau cả ngày. Đến khi định tách ra liền khóc sướt mướt không chịu đi. Nguyên phu nhân liền cười nói: ‘Thích Chi thích chơi với Viên Viên muội muội như vậy, thế mẫu thân cưới bé ấy về làm dâu cho con được không?’ Nguyên Thích Chi trả lời ngay: ‘Được, con muốn cưới Viên Viên muội muội làm vợ.’ Vậy là đoạn nhân duyên này của họ, hẳn là có thể viên mãn tại kiếp này.”
Trác Dật Phi nhìn hồ nước nói rất nhiều chuyện, nhưng mặt hồ vẫn yên tĩnh như lúc ban đầu.
“Lục Đồng, ta không nên thường thường đến nói chuyện với nàng. Nàng đang ở đây tĩnh tâm tu hành, ta làm vậy có thể sẽ ảnh hưởng đến nàng. Thế nhưng hiện giờ ta không thể nhịn được. Lục Đồng, đã qua ba năm rồi, ta thật sự rất nhớ nàng. Giá như có thể được gặp nàng thêm một lần nữa thì tốt rồi.”
Trăng sáng như gương, chiếu rọi xuống tận đáy hồ. Mặt hồ dao động, từng vòng sáng tròn lan tỏa xung quanh. Vòng sáng càng lúc càng mạnh, từ nhu hòa dần trở nên mãnh liệt, có vầng sắc cầu vồng biến ảo lóe lên.
Trác Dật Phi đứng ở giữa hồ rực rỡ, tim đập nhanh, tay bất giác nắm chặt mép thuyền: “Lục Đồng, là nàng sao?”
Vòng sáng như khói mờ tách ra thật lộng lẫy. Một thiếu nữ mặc y phục màu tuyết tựa như sen trắng nở rộ trong muôn vàn hào quang rực rỡ. Lục Đồng, Lục Đồng đã đến. Nàng tựa như tiên nữ bay nhẹ nhàng đáp xuống thuyền.
“Lục Đồng, sao nàng có thể ra khỏi mặt hồ vậy?” Trác Dật Phi đến cầm tay nàng, bàn tay mềm mại như tơ, trắng noãn như ngọc.
“Nàng đã khỏe, da thịt nàng không còn cứng như gỗ nữa.”
Lục Đồng cười dịu dàng, muốn nói lại thôi.
“Thật tốt quá, chẳng phải nàng bảo cần mất bảy năm sao? Thế mà chỉ mới ba năm đã rời được, thật sự là quá tốt.” Trác Dật Phi cảm thấy hạnh phúc đến bất ngờ, hắn hưng phấn muốn nhảy dựng lên.
“Không phải như thế, Dật Phi, hôm nay là ngày rằm Trung Thu tháng Tám. Tinh hoa mặt trăng trong đêm nay đạt cực thịnh. Ta yên lặng tu suốt ba năm, để mượn dịp này mới có thể tạm thời ra hồ.”
Sắc mặt Trác Dật Phi chuyển trắng: “Ý của nàng là nàng sắp phải trở về?”
“Đúng vậy, ta sắp phải nhanh chóng quay về trong hồ rồi. Dật Phi, ta có lời muốn nói với chàng, chàng hãy nghe rõ nhé.”
Sắc mặt Lục Đồng ngưng trọng, Trác Dật Phi đột nhiên cảm thấy có điều không ổn.
“Dật Phi, chàng cũng biết, ta vốn chưa tu hành đủ thành Mị. Lần trước tu vi bị tổn hại nên chỉ có thể biến thành hình người dưới ánh trăng. Sau khi bị hao tổn tu vi, ta lại không thể yên tâm tu luyện, cố gắng cưỡng ép chính mình ra khỏi hồ. Trên thực tế, tu vi đã hao tổn lại thêm hao tổn. Nếu như ta muốn tu thành hình người nguyên vẹn, phải tốn chừng hơn trăm năm tu luyện, không còn cách nào khác.”
“Ngày đó lúc chia tay, ta nói chỉ cần mất bảy năm, thật ra là lừa gạt chàng. Ta nghĩ bảy năm ấy sẽ giúp chàng dần dần quên ta. Nhưng ta không ngờ, suốt ba năm qua, chàng đều chèo thuyền ra hồ trò chuyện với ta hằng đêm. Dật Phi, ta dùng toàn bộ công lực, cố gắng biến thành hình người để lên gặp chàng là vì muốn làm một chuyện.”
“Chuyện gì?”
Lục Đồng đưa tay xoa mi tâm của hắn, đầu ngón tay chợt lóe tinh quang.”Cho chàng quên ta.”
Ánh trăng lu mờ, mặt hồ tĩnh lặng như đang say ngủ.
Chiếc thuyền nhỏ lay động giữa sóng nước, bên trong thuyền, Trác Dật Phi đã nằm ngủ say giấc. Lục Đồng cúi đầu nhìn hắn. Một giọt nước mắt rơi xuống đuôi lông mày của hắn, hóa thành một nốt ruồi chu sa nho nhỏ.
“Dật Phi, ít nhất phải hơn trăm năm sau ta mới có thể tu thành hình người. Chàng lại không thể chờ ta lâu đến vậy, ta cũng không thể để chàng vì ta mà cô độc cả đời. Cho nên, quên ta bây giờ, là điều tốt nhất với chàng. Cả đời này, ta và chàng có duyên không phận. Kiếp sau khi chàng luân hồi chuyển thế, ta sẽ giống như Dao Cơ tìm kiếm Tần Tình mà tới tìm chàng.”
Trong đêm Trung Thu, Trác Dật Phi đi cả đêm chưa về.
Ngày hôm sau người nhà mới phát hiện hắn không ở trong phòng. Ân Nhược Dương biết được vội vàng chạy ra Sấu Tây Hồ tìm người. Khi đến thì thấy hắn đang nằm ngủ say trên một chiếc thuyền cập bến bên bờ hồ.
Sau khi tỉnh lại, Ân Nhược Dương liền hỏi: “Dật Phi, sao huynh lại tới Sấu Tây Hồ vậy, muốn gặp Lục Đồng à?”
Trác Dật Phi mờ mịt: “Ai là Lục Đồng?”
Ân Nhược Dương giật mình. Suy nghĩ kỹ lại, không lỗ mãng nói tiếp. Chỉ chậm rãi xem xét lời nói của hắn, và nhận ra Trác Dật Phi đã hoàn toàn quên mất chuyện cổ cầm.
Thắc mắc vô cùng nhưng cũng đành chịu. Ân Nhược Dương thở dài: Người Yêu khác đạo, quên đi cũng tốt.
Mùa xuân năm sau, Tam tiểu thư của Tri Phủ Dương Châu đến tuổi cập kê. Tri phủ đại nhân gả nàng cho Trác Dật Phi, người mà ông ta coi trọng trước giờ. Một đôi phu thê hòa hợp, có thể nói trời sinh một đôi. Sau khi kết hôn cầm sắt hài hòa, ân ái đến già.
***
Trăm năm thấm thoát trôi qua, một năm lại tiếp một năm xuân.
Bên bờ Sấu Tây Hồ, có một chàng công tử trẻ tuổi mặc áo xanh lá bơi thuyền dạo hồ. Quanh co khúc khuỷu, vòng qua những con đường uốn lượn trên hồ, thuyền lướt như bay, chàng đứng ngắm nhìn cảnh sắc rực rỡ ở hai bên bờ. Ngọn núi phía xa xanh mướt tựa như ngọc. Bờ đê dài liễu rũ, bốn cây cầu Yên Vũ, núi Tiểu Kim, cầu Ngũ Đình, cầu Nhị Thập Tứ, Bạch tháp, vườn hoa lung linh, đài đón xuân, lầu Vọng Xuân......
“‘Hai đê hoa liễu đều dựa thủy, một đường lầu gác thẳng lên núi’, Sấu Tây Hồ đẹp quá!” Công tử trẻ tuổi đứng ở đầu thuyền, nhìn phong cảnh thiên nhiên hai bờ sông xinh đẹp tuyệt trần, như tranh quốc họa, nhịn không được lớn tiếng tán thưởng. Hắn mi thanh mục tú, phong thái tuấn dật, bên đuôi lông mày có một nốt ruồi chu sa nho nhỏ.
Người nhà đò chèo thuyền, chen miệng nói: “Công tử, ánh trăng ở Sấu Tây Hồ còn đẹp hơn đấy.”
“Biết, ‘ba phần trăng sáng soi trần thế, hai phần dành chiếu khắp Dương Châu’. Ánh trăng Dương Châu tất nhiên sẽ lấy Sấu Tây Hồ làm nơi chiếu rọi đầu tiên. Hôm nay vừa vặn là đêm rằm mười lăm, vào đêm sau, nhất định còn phải lại đến dạo dưới ánh trăng Tây Hồ một phen.”
“Nghe khẩu âm của công tử, chắc là người đến từ Kinh Thành?”
“Phải ta đến từ Thịnh Kinh.”
“Thịnh Kinh cách Dương Châu rất xa. Công tử ngàn dặm xa xôi, là đến tìm người thân, bằng hữu? Hay là cố ý đến đây du sơn ngoạn thủy?”
“Thiên hạ Tây Hồ ba mươi có sáu, ta mến mộ phong tư của Sấu Tây Hồ nên tự mình cố ý tới nơi này.”
Ông lão chèo thuyền cười nói: “Chỉ vì du sơn ngoạn thủy mà đến đây, công tử thật đúng là một nhã sĩ!”
Trăng tròn vừa lên, sáng trong như gương.
Cầu Nhị Thập Tứ được xây bằng thạch trắng, ở dưới ánh trăng trong suốt như ngọc, vòm cầu hình nguyệt, rọi bóng xuống hồ, tựa như tiên cảnh.
Công tử trẻ tuổi đứng trên cầu, ngẩng đầu nhìn ánh trăng sáng trong, đáy lòng thổn thức: “Cầu Nhị Thập Tứ đêm trăng sáng, quả nhiên là danh bất hư truyền.”
Chợt nghe thấy một tiếng nhạc cầm vang lên trong không gian, lan truyền trên mặt hồ. Tiếng đàn như mưa rơi nước chảy, dịu dàng và lặng yên. Âm luật vô cùng tinh diệu, âm vận lại siêu nhiên, khó có thể hình dung được. Hắn theo tiếng dõi mắt nhìn lại, thấy ở giữa hồ có một con thuyền nhỏ đang lướt dần đến đây. Trên thuyền có bóng dáng một thiếu nữ yểu điệu.
Kết thúc một khúc nhạc, thuyền nhỏ đã chèo đến gần cầu Nhị Thập Tứ. Công tử trẻ tuổi tán thưởng một tiếng: “Cô nương đàn thật hay.”
Thiếu nữ thanh xuân đứng khoan thai trên thuyền, khẽ xoay người lại. Ánh trăng chiếu rọi vào khuôn mặt của nàng, lộ ra dung nhan tuyệt sắc như thiên tiên.
Vị công tử trẻ tuổi nhất thời giật mình. Không phải vì tướng mạo xinh đẹp của nàng, mà chàng còn cảm giác như trông thấy một điều gì đó rất thân thuộc.
Chợt cất tiếng hỏi: “Cô nương, xin hỏi danh thơm của nàng là gì?”
Cô nàng xuân sắc nhìn nốt ruồi chu sa ở đuôi lông mày của chàng, nhoẻn miệng cười: “Lục Đồng, ta tên là Lục Đồng.”
Vòng luân hồi tựa như bánh răng, có nhiều thứ cứ luôn chuyển động mãi không ngừng.
Ví như tình, ví như duyên.
– Kết –