Vừa bước khỏi lầu Minh Nguyệt, Liễu Xuân Nùng cũng không vội trở về phòng, mà đảo chân bước nhanh đến hậu hoa viên. Tiểu nha hoàn Lục Nhi chạy chậm đuổi theo: “Tiểu thư không định mặc thêm xiêm y sao?”
Liễu Xuân Nùng chỉ lướt đi nhanh, không đáp lại. Bước vào góc Bắc hoa viên, trong sắc hồng của hoa Hồng Hạnh, dưới tán lá xanh um, có một bàn đu dây treo lửng lơ. Nàng nhẹ nhàng nhảy lên, lay động bàn đu dây. Chân đẩy bàn gỗ, tay nắm chắc sợi dây. Chỉ qua hai, ba lượt, bàn đu dây đã chuyển động bay lên. Tà váy trắng nhạt theo gió đung đưa, tựa như mây trắng bồng bềnh.
Lục Nhi đứng bên vỗ tay cười: “Tiểu thư đẩy bàn đu dây thật tuyệt quá, hơn nữa lại còn rất đẹp nữa!”
Bên ngoài bức tường màu trắng của hậu hoa viên, Ân Nhược Dương đang giữ dây cương ngựa. Chợt nghe thấy có tiếng cười lanh lảnh. Nhất thời hắn ghìm ngựa dừng lại, noi theo tiếng quay ra sau. Chỉ thấy vách tường vôi phấn trắng che kín, lạnh lùng như tuyết cự tuyệt người ngoài. Hắn giục ngựa lùi lại mấy trượng, dõi mắt nhìn xa đã thấy cả vườn xuân sắc bên trong. Bên phía góc đầu tượng ló ra khóm lá xanh um của cây Hồng Hạnh. Sắc hồng, xanh ngọc khiến người ta mê mẩn quên chốn về.
Ánh mắt Ân Nhược Dương dõi theo bên đầu tường. Giật mình nhìn một lát, bỗng dưng chợt hoàn hồn. Hắn xoay đầu định giục ngựa rời đi. Đột nhiên trước mặt chợt lóe một bóng hình. Chốc lát, bóng hình lại lóe lên. Hắn nhìn rõ, đó là bóng ảnh của bàn đu dây. Dưới sắc trời sáng tỏ, bức tường trắng không thể ngăn được bóng ảnh kia.
Bóng ảnh của bàn đu dây? Có cô gái đang đu dây trong vườn. Ân Nhược Dương lại ngửa đầu nhìn lại, chỉ thấy bàn đu dây đang dao động, mỗi lần di chuyển đều khiến khóm lá rung rinh, hoa Hạnh khẽ lay. Một thiếu nữ thanh xuân đứng trên bàn đu dây, eo nhỏ mông cong, búp tay trắng nõn, tà váy rộng lay động giữa không trung như gió lướt tuyết bay.
Ân Nhược Dương giật mình, nheo mắt nhìn xuyên khóm xanh ngọc, hồng son thấy bóng trắng nhẹ nhàng tung bay. Do ngăn cách bởi vách tường, nên khó có thể thấy rõ chân ảnh người thiếu nữ đang đứng trên bàn đu dây kia. Tuy vậy dường như có thể thấy bộ trang sức hoa lê trang nhã, và mùi hương lan thoang thoảng trong không gian.
Bên trong xanh vạn hồng ngàn, một bóng trắng ngọc ngà điểm xuyến trên khung cảnh. Chợt tâm khẽ rung động như dây đàn, một khúc âm thấp xướng nức nở, vang vọng vào tâm hồn. Ân Nhược Dương cảm thấy lòng mình như một thanh thất huyền cầm, đang bị người nhẹ nhàng khảy lên từng giai điệu nội tâm......
Hoa hạnh bên trong dù có hồng đậm thêm nhưng vẫn bị bức tường ngăn lại. Than nhân gian cách thiên đường chỉ chừng gang tấc, không gặp đã khổ vì tương tư, khi gặp cũng khổ vì tương tư.
***
Mấy ngày nay, Trác Dật Phi đều chăm chú tìm hiểu cây cầm. Cây đàn cầm này dù xem xét ở bất kỳ phương diện nào đều không hề thấy chỗ nào sai sót. Rõ ràng là cây đàn cổ tốt nhất, nhưng sao tay khảy mãi vẫn không lên tiếng. Cuối cùng, hắn chỉ đành thở dài một tiếng: “Thật là cây cầm kỳ lạ!”
Hắn treo thanh cầm này lên vách đá, không có ý định cất vào trong cầm các của mình. Dù cây cầm câm này không phát ra tiếng, nhưng cũng có thể treo làm vật trưng bày trong phòng.
Sau khi cây cầm được treo trên vách đá nom hơn nửa tháng, Chu chưởng quỹ lại tới, hơn nữa còn dẫn theo một người đàn ông trung niên lạ mặt. Ông ta thân hình gầy gò, quần áo đơn sơ, vừa nhìn liền biết người này cuộc sống khó khăn, đầy trắc trở.
“Trác công tử, vị này chính là con trai của ông lão đã qua đời do bệnh tật trong khách điếm của tiểu nhân. Hắn vượt ngàn dặm từ Trường An đến Dương Châu để tìm người, muốn mang linh cữu của gia phụ trở về cố hương.”
“Ồ, điều này thật tốt! Lúc trước, ta cũng có nói đừng vội hạ táng mà hẵng chờ xem có người thân đến tìm không. Quả nhiên có hiếu tử vượt ngàn dặm đến tìm phụ thân.”
Người đàn ông trung niên kia vái lạy Trác Dật Phi: “Đa tạ Trác công tử thiện tâm thương xót, thay gia phụ bỏ tiền lo tang sự. Nay ta thân làm con đến nơi này cũng bởi vì không muốn di vật duy nhất của phụ thân bị thất lạc bên ngoài. Ta nguyện dùng gấp đôi số bạc là hai mươi lượng để chuộc lại cây cầm. Kính xin Trác công tử thành toàn.”
Nhìn người trung niên này dáng vẻ nghèo khổ, nhưng vẫn chịu vì di vật của gia phụ mà không tiếc tiền của. Trác Dật Phi nhìn thấy không khỏi ngầm khen ngợi, liền quả quyết cự tuyệt: “Nếu ngươi dùng hai mươi lượng bạc để chuộc cây cầm này. Ta tuyệt không đồng ý.”
Người đàn ông trung niên nghe thế liền biến sắc.
“Nhưng mà, ta nguyện ý trả cây đàn cầm này cho ngươi. Cũng xem như vật về chủ cũ.”
Người đàn ông trung niên mừng rỡ: “Đa tạ Trác công tử.”
Hắn tháo thanh cầm câm từ trên vách đá xuống, dùng tấm vải thô màu lam trước kia bao bọc lại. Người trung niên ôm chặt như ôm được bảo bối. Khi người đó vừa bước ra ngoài thì gã sai vặt áo xanh đang dẫn Ân Nhược Dương tiến vào. Hai người bước qua nhau, Ân Nhược Dương liếc mắt hơi lưu ý người kia một cái.
“Dật Phi, người nọ là ai vậy? Huynh đã đưa cho hắn thứ gì thế? Nhìn hắn hớn hở cứ như vừa nhặt được bảo khố vậy.”
“Ta không cho hắn thứ gì cả, chỉ là vật về chủ cũ mà thôi.”
“Vật về chủ cũ? Trong lầu Minh Nguyệt của huynh, chẳng lẽ cất giữ món gì của hắn sao?”
Trác Dật Phi thuật lại chân tướng cho hắn nghe. Ân Nhược Dương nghe xong liền hiểu rõ: “Thì ra là cây đàn cầm đó! Ta vẫn luôn cảm thấy cầm đó có chút cổ quái. Để cho người kia mang về cũng ổn. Chẳng qua khi nãy trông hắn không giống như ôm cầm, mà giống như đang ôm núi vàng, núi bạc vậy.”
Trác Dật Phi lại không đồng ý: “Di vật của gia phụ, trong mắt của hiếu tử tất nhiên là phải quý hơn ngàn vàng rồi.”
Cầm và người cũng đã rời xa, Ân Nhược Dương cũng không muốn nói tiếp về đề tài này nữa, vì thế hắn đổi chủ đề: “Hôm nay là đêm rằm mười lăm. Có một vài bằng hữu mời đi Sấu Tây Hồ ngắm trăng. Huynh có đi không?”
“Nếu mọi người đều có nhã hứng như vậy, ta sao có thể không đi.”
“Tốt lắm, vậy tối nay hẹn gặp nhau ở trên cầu Nhị Thập Tứ. Huynh nhớ mang theo cầm đấy, đi ngắm trăng đêm mà thiếu tiếng đàn của Trác công tử làm bạn, quả thật sẽ khiến ánh trăng mất đi vài phần ý vị.”
Hai người bọn họ đang trò chuyện, bỗng có tiếng gõ cửa phòng. Hai người đồng loạt quay lại, chỉ thấy Liễu Xuân Nùng quần xanh áo tơ, dáng người mảnh mai đang bước tới. Nàng hiển nhiên nghe được cuộc đối thoại khi đang đứng ngoài cửa, đôi mắt nàng tràn ngập khát vọng ngẩng lên nhìn Trác Dật Phi: “Biểu ca, hai người muốn đi Sấu Tây Hồ ngắm trăng sao? Muội cũng muốn đi, huynh dẫn muội đi cùng được không?”
Trác Dật Phi cau mày khó xử: “Xuân Nùng, ban ngày thì ta có thể mang muội đi dạo bên ngoài. Nhưng ban đêm thì trăm triệu lần không được, cô sẽ không đồng ý.”
“Không có đâu, muội đi cùng biểu ca ra ngoài, mẫu thân đều luôn yên tâm. Nếu như huynh sợ mẫu thân trách cứ mình, vậy thì để muội nói với mẫu thân. Nếu như người đồng ý, huynh hãy dẫn muội đi cùng nhé!”
Nói một hơi thật dài xong, Liễu Xuân Nùng cũng không đợi Trác Dật Phi trả lời, liền xoay người vội vàng sải bước chạy xuống lầu.
“Aii, Xuân Nùng ——” Trác Dật Phi muốn gọi nàng lại, nhưng không thể được. Hắn lắc đầu cười khổ với Ân Nhược Dương, nói: “Tính tình của biểu muội ta là vậy. Muốn làm cái gì thì nhất quyết làm bằng được cái đó.”
“Tính cách sáng lạn, thoải mái cũng là một chuyện tốt. Dật Phi, hôn sự của huynh và muội ấy...... sắp đến rồi chứ?”
Trác Dật Phi gật gật đầu: “Phụ mẫu và cô đang thương lượng với nhau. Họ muốn đợi đến cuối năm, sau khi Xuân Nùng thủ tang dượng xong, thì mới bắt đầu xử lý.”
Liễu Xuân Nùng là con gái duy nhất của dượng Trác Dật Phi. Dượng Liễu gia vốn là một thư sinh, sau khi thi đậu khoa cử, đã cùng gia quyến đến huyện Bồ Đài, tỉnh Sơn Đông nhậm chức Huyện lệnh. Năm kia bất hạnh đổ bệnh mà qua đời, để lại cô nhi quả phụ không người chăm sóc. Đầu năm trước được Trác lão gia phái người đến đón muội muội ruột thịt cùng cháu gái ngoại của mình. Một cũng là do thương xót cho cảnh khổ của họ, hai là vì thấy cháu gái mình có tuổi tác và tướng mạo đều tương xướng với con trai nhà mình, nếu kết thân tình thì thân càng thêm thân.
Ân Nhược Dương buồn bã, ha ha nói: “Dật Phi...... Chúc mừng ngươi.”
“Đúng rồi, Nhược Dương, nghe nói Ân bá mẫu cũng đang tìm bà mai giúp huynh đi cầu thân đấy!”
Ân Nhược Dương nhíu mày tỏ vẻ phiền não: “Ta không muốn thành thân, nhưng mà mẫu thân lại cứ...... Aiii!”
“Ta đoán bá mẫu vội vã kiếm con dâu về để buộc lại chân của huynh đấy. Tránh cho huynh lại tâm huyết sôi trào, chạy khắp nơi từ Nam đến Bắc. Khiến cho bá mẫu lo lắng.”
Ân Nhược Dương im lặng nửa ngày, còn than thở một tiếng: “Kỳ thật mẫu thân lo lắng quá rồi, ta sẽ không rời khỏi Dương Châu đâu. Ta đã thử qua rồi, dù có đi đến chân trời góc bể, không bỏ được chính là không bỏ được.”
Trác Dật Phi nghe vậy liền ngạc nhiên. Tính tình Ân Nhược Dương từ trước tới nay đều hào sảng, khoáng đạt. Chưa từng nghe thấy hắn nói ra nhưng câu từ sâu kín như vậy.
“Nhược Dương, cái gì khiến cho huynh không bỏ được? Không lẽ huynh...... đã ái mộ con gái nhà ai à?”
Ân Nhược Dương nhất thời lỡ đãng mà buột miệng, cảm thấy hối hận vô cùng. Giờ phút này làm sao có tâm tư đi trả lời câu hỏi của Trác Dật Phi, vì thế vội vàng nói: “Ta còn có việc phải đi trước, huynh nhớ tới điểm hẹn tối nay.”
Vừa bước khỏi lầu Minh Nguyệt, Liễu Xuân Nùng cũng không vội trở về phòng, mà đảo chân bước nhanh đến hậu hoa viên. Tiểu nha hoàn Lục Nhi chạy chậm đuổi theo: “Tiểu thư không định mặc thêm xiêm y sao?”
Liễu Xuân Nùng chỉ lướt đi nhanh, không đáp lại. Bước vào góc Bắc hoa viên, trong sắc hồng của hoa Hồng Hạnh, dưới tán lá xanh um, có một bàn đu dây treo lửng lơ. Nàng nhẹ nhàng nhảy lên, lay động bàn đu dây. Chân đẩy bàn gỗ, tay nắm chắc sợi dây. Chỉ qua hai, ba lượt, bàn đu dây đã chuyển động bay lên. Tà váy trắng nhạt theo gió đung đưa, tựa như mây trắng bồng bềnh.
Lục Nhi đứng bên vỗ tay cười: “Tiểu thư đẩy bàn đu dây thật tuyệt quá, hơn nữa lại còn rất đẹp nữa!”
Bên ngoài bức tường màu trắng của hậu hoa viên, Ân Nhược Dương đang giữ dây cương ngựa. Chợt nghe thấy có tiếng cười lanh lảnh. Nhất thời hắn ghìm ngựa dừng lại, noi theo tiếng quay ra sau. Chỉ thấy vách tường vôi phấn trắng che kín, lạnh lùng như tuyết cự tuyệt người ngoài. Hắn giục ngựa lùi lại mấy trượng, dõi mắt nhìn xa đã thấy cả vườn xuân sắc bên trong. Bên phía góc đầu tượng ló ra khóm lá xanh um của cây Hồng Hạnh. Sắc hồng, xanh ngọc khiến người ta mê mẩn quên chốn về.
Ánh mắt Ân Nhược Dương dõi theo bên đầu tường. Giật mình nhìn một lát, bỗng dưng chợt hoàn hồn. Hắn xoay đầu định giục ngựa rời đi. Đột nhiên trước mặt chợt lóe một bóng hình. Chốc lát, bóng hình lại lóe lên. Hắn nhìn rõ, đó là bóng ảnh của bàn đu dây. Dưới sắc trời sáng tỏ, bức tường trắng không thể ngăn được bóng ảnh kia.
Bóng ảnh của bàn đu dây? Có cô gái đang đu dây trong vườn. Ân Nhược Dương lại ngửa đầu nhìn lại, chỉ thấy bàn đu dây đang dao động, mỗi lần di chuyển đều khiến khóm lá rung rinh, hoa Hạnh khẽ lay. Một thiếu nữ thanh xuân đứng trên bàn đu dây, eo nhỏ mông cong, búp tay trắng nõn, tà váy rộng lay động giữa không trung như gió lướt tuyết bay.
Ân Nhược Dương giật mình, nheo mắt nhìn xuyên khóm xanh ngọc, hồng son thấy bóng trắng nhẹ nhàng tung bay. Do ngăn cách bởi vách tường, nên khó có thể thấy rõ chân ảnh người thiếu nữ đang đứng trên bàn đu dây kia. Tuy vậy dường như có thể thấy bộ trang sức hoa lê trang nhã, và mùi hương lan thoang thoảng trong không gian.
Bên trong xanh vạn hồng ngàn, một bóng trắng ngọc ngà điểm xuyến trên khung cảnh. Chợt tâm khẽ rung động như dây đàn, một khúc âm thấp xướng nức nở, vang vọng vào tâm hồn. Ân Nhược Dương cảm thấy lòng mình như một thanh thất huyền cầm, đang bị người nhẹ nhàng khảy lên từng giai điệu nội tâm......
Hoa hạnh bên trong dù có hồng đậm thêm nhưng vẫn bị bức tường ngăn lại. Than nhân gian cách thiên đường chỉ chừng gang tấc, không gặp đã khổ vì tương tư, khi gặp cũng khổ vì tương tư.
Mấy ngày nay, Trác Dật Phi đều chăm chú tìm hiểu cây cầm. Cây đàn cầm này dù xem xét ở bất kỳ phương diện nào đều không hề thấy chỗ nào sai sót. Rõ ràng là cây đàn cổ tốt nhất, nhưng sao tay khảy mãi vẫn không lên tiếng. Cuối cùng, hắn chỉ đành thở dài một tiếng: “Thật là cây cầm kỳ lạ!”
Hắn treo thanh cầm này lên vách đá, không có ý định cất vào trong cầm các của mình. Dù cây cầm câm này không phát ra tiếng, nhưng cũng có thể treo làm vật trưng bày trong phòng.
Sau khi cây cầm được treo trên vách đá nom hơn nửa tháng, Chu chưởng quỹ lại tới, hơn nữa còn dẫn theo một người đàn ông trung niên lạ mặt. Ông ta thân hình gầy gò, quần áo đơn sơ, vừa nhìn liền biết người này cuộc sống khó khăn, đầy trắc trở.
“Trác công tử, vị này chính là con trai của ông lão đã qua đời do bệnh tật trong khách điếm của tiểu nhân. Hắn vượt ngàn dặm từ Trường An đến Dương Châu để tìm người, muốn mang linh cữu của gia phụ trở về cố hương.”
“Ồ, điều này thật tốt! Lúc trước, ta cũng có nói đừng vội hạ táng mà hẵng chờ xem có người thân đến tìm không. Quả nhiên có hiếu tử vượt ngàn dặm đến tìm phụ thân.”
Người đàn ông trung niên kia vái lạy Trác Dật Phi: “Đa tạ Trác công tử thiện tâm thương xót, thay gia phụ bỏ tiền lo tang sự. Nay ta thân làm con đến nơi này cũng bởi vì không muốn di vật duy nhất của phụ thân bị thất lạc bên ngoài. Ta nguyện dùng gấp đôi số bạc là hai mươi lượng để chuộc lại cây cầm. Kính xin Trác công tử thành toàn.”
Nhìn người trung niên này dáng vẻ nghèo khổ, nhưng vẫn chịu vì di vật của gia phụ mà không tiếc tiền của. Trác Dật Phi nhìn thấy không khỏi ngầm khen ngợi, liền quả quyết cự tuyệt: “Nếu ngươi dùng hai mươi lượng bạc để chuộc cây cầm này. Ta tuyệt không đồng ý.”
Người đàn ông trung niên nghe thế liền biến sắc.
“Nhưng mà, ta nguyện ý trả cây đàn cầm này cho ngươi. Cũng xem như vật về chủ cũ.”
Người đàn ông trung niên mừng rỡ: “Đa tạ Trác công tử.”
Hắn tháo thanh cầm câm từ trên vách đá xuống, dùng tấm vải thô màu lam trước kia bao bọc lại. Người trung niên ôm chặt như ôm được bảo bối. Khi người đó vừa bước ra ngoài thì gã sai vặt áo xanh đang dẫn Ân Nhược Dương tiến vào. Hai người bước qua nhau, Ân Nhược Dương liếc mắt hơi lưu ý người kia một cái.
“Dật Phi, người nọ là ai vậy? Huynh đã đưa cho hắn thứ gì thế? Nhìn hắn hớn hở cứ như vừa nhặt được bảo khố vậy.”
“Ta không cho hắn thứ gì cả, chỉ là vật về chủ cũ mà thôi.”
“Vật về chủ cũ? Trong lầu Minh Nguyệt của huynh, chẳng lẽ cất giữ món gì của hắn sao?”
Trác Dật Phi thuật lại chân tướng cho hắn nghe. Ân Nhược Dương nghe xong liền hiểu rõ: “Thì ra là cây đàn cầm đó! Ta vẫn luôn cảm thấy cầm đó có chút cổ quái. Để cho người kia mang về cũng ổn. Chẳng qua khi nãy trông hắn không giống như ôm cầm, mà giống như đang ôm núi vàng, núi bạc vậy.”
Trác Dật Phi lại không đồng ý: “Di vật của gia phụ, trong mắt của hiếu tử tất nhiên là phải quý hơn ngàn vàng rồi.”
Cầm và người cũng đã rời xa, Ân Nhược Dương cũng không muốn nói tiếp về đề tài này nữa, vì thế hắn đổi chủ đề: “Hôm nay là đêm rằm mười lăm. Có một vài bằng hữu mời đi Sấu Tây Hồ ngắm trăng. Huynh có đi không?”
“Nếu mọi người đều có nhã hứng như vậy, ta sao có thể không đi.”
“Tốt lắm, vậy tối nay hẹn gặp nhau ở trên cầu Nhị Thập Tứ. Huynh nhớ mang theo cầm đấy, đi ngắm trăng đêm mà thiếu tiếng đàn của Trác công tử làm bạn, quả thật sẽ khiến ánh trăng mất đi vài phần ý vị.”
Hai người bọn họ đang trò chuyện, bỗng có tiếng gõ cửa phòng. Hai người đồng loạt quay lại, chỉ thấy Liễu Xuân Nùng quần xanh áo tơ, dáng người mảnh mai đang bước tới. Nàng hiển nhiên nghe được cuộc đối thoại khi đang đứng ngoài cửa, đôi mắt nàng tràn ngập khát vọng ngẩng lên nhìn Trác Dật Phi: “Biểu ca, hai người muốn đi Sấu Tây Hồ ngắm trăng sao? Muội cũng muốn đi, huynh dẫn muội đi cùng được không?”
Trác Dật Phi cau mày khó xử: “Xuân Nùng, ban ngày thì ta có thể mang muội đi dạo bên ngoài. Nhưng ban đêm thì trăm triệu lần không được, cô sẽ không đồng ý.”
“Không có đâu, muội đi cùng biểu ca ra ngoài, mẫu thân đều luôn yên tâm. Nếu như huynh sợ mẫu thân trách cứ mình, vậy thì để muội nói với mẫu thân. Nếu như người đồng ý, huynh hãy dẫn muội đi cùng nhé!”
Nói một hơi thật dài xong, Liễu Xuân Nùng cũng không đợi Trác Dật Phi trả lời, liền xoay người vội vàng sải bước chạy xuống lầu.
“Aii, Xuân Nùng ——” Trác Dật Phi muốn gọi nàng lại, nhưng không thể được. Hắn lắc đầu cười khổ với Ân Nhược Dương, nói: “Tính tình của biểu muội ta là vậy. Muốn làm cái gì thì nhất quyết làm bằng được cái đó.”
“Tính cách sáng lạn, thoải mái cũng là một chuyện tốt. Dật Phi, hôn sự của huynh và muội ấy...... sắp đến rồi chứ?”
Trác Dật Phi gật gật đầu: “Phụ mẫu và cô đang thương lượng với nhau. Họ muốn đợi đến cuối năm, sau khi Xuân Nùng thủ tang dượng xong, thì mới bắt đầu xử lý.”
Liễu Xuân Nùng là con gái duy nhất của dượng Trác Dật Phi. Dượng Liễu gia vốn là một thư sinh, sau khi thi đậu khoa cử, đã cùng gia quyến đến huyện Bồ Đài, tỉnh Sơn Đông nhậm chức Huyện lệnh. Năm kia bất hạnh đổ bệnh mà qua đời, để lại cô nhi quả phụ không người chăm sóc. Đầu năm trước được Trác lão gia phái người đến đón muội muội ruột thịt cùng cháu gái ngoại của mình. Một cũng là do thương xót cho cảnh khổ của họ, hai là vì thấy cháu gái mình có tuổi tác và tướng mạo đều tương xướng với con trai nhà mình, nếu kết thân tình thì thân càng thêm thân.
Ân Nhược Dương buồn bã, ha ha nói: “Dật Phi...... Chúc mừng ngươi.”
“Đúng rồi, Nhược Dương, nghe nói Ân bá mẫu cũng đang tìm bà mai giúp huynh đi cầu thân đấy!”
Ân Nhược Dương nhíu mày tỏ vẻ phiền não: “Ta không muốn thành thân, nhưng mà mẫu thân lại cứ...... Aiii!”
“Ta đoán bá mẫu vội vã kiếm con dâu về để buộc lại chân của huynh đấy. Tránh cho huynh lại tâm huyết sôi trào, chạy khắp nơi từ Nam đến Bắc. Khiến cho bá mẫu lo lắng.”
Ân Nhược Dương im lặng nửa ngày, còn than thở một tiếng: “Kỳ thật mẫu thân lo lắng quá rồi, ta sẽ không rời khỏi Dương Châu đâu. Ta đã thử qua rồi, dù có đi đến chân trời góc bể, không bỏ được chính là không bỏ được.”
Trác Dật Phi nghe vậy liền ngạc nhiên. Tính tình Ân Nhược Dương từ trước tới nay đều hào sảng, khoáng đạt. Chưa từng nghe thấy hắn nói ra nhưng câu từ sâu kín như vậy.
“Nhược Dương, cái gì khiến cho huynh không bỏ được? Không lẽ huynh...... đã ái mộ con gái nhà ai à?”
Ân Nhược Dương nhất thời lỡ đãng mà buột miệng, cảm thấy hối hận vô cùng. Giờ phút này làm sao có tâm tư đi trả lời câu hỏi của Trác Dật Phi, vì thế vội vàng nói: “Ta còn có việc phải đi trước, huynh nhớ tới điểm hẹn tối nay.”