Tại lầu Yên Vũ bên bờ Sấu Tây Hồ. Lầu cao ba tầng, bốn bên là hành lang. Vào lúc mưa rơi rả rích, khi đứng trên lầu trông về phía xa sẽ thấy quanh hồ mây khói mờ mịt, mưa rơi như kéo dệt. Cho nên mới có tên là lầu Yên Vũ.
Lầu Yên Vũ là địa danh nổi tiếng trên Sấu Tây Hồ. Du khách đến đây nối liền không dứt. Hôm nay lại nhộn nhịp lạ thường, hàng trăm người đều đổ xô vào trong lầu. Tất cả cũng chỉ vì thân sĩ Dương Châu Trác công tử của Trác phủ bao trọn lầu Yên Vũ, dùng cầm treo giải thưởng. Nếu ai có thể tấu vang cây thất huyền cầm của hắn sẽ được trao tặng ba trăm lượng bạc trắng.
Trác Dật Phi ở Dương Châu là một thánh thủ danh cầm có tiếng. Lúc đầu khi hắn dùng cầm treo giải thưởng, mọi người đều nghĩ hắn muốn tổ chức cuộc thi đánh đàn cầm. Thế nên không ai dám tới múa rìu qua mắt thợ. Sau lại biết chỉ cần bất cứ ai gảy vang được cây cầm kia là có thể nhận ngay ba trăm lượng bạc. Nhất thời dòng người ùa vây vào trong.
Trác Dật Phi mang theo nhiều gia đinh đến bảo đảm trật tự xung quanh, bắt buộc mọi người phải xếp hàng ngay ngắn tiến vào thử đánh đàn. Ân Nhược Dương lưng mang trường kiếm đứng ở bên, mắt nhìn đám người lộn xộn vì tiền này, nhướng mày: “Dật Phi, từ lúc huynh giữ cây cầm này thật sự thay đổi như hai người khác nhau vậy. Trước kia huynh chán ghét nhất là những trường hợp ầm ỹ như thế này mà.”
Trác Dật Phi lại cười nói: “Trước khác nay khác.”
Trước mặt hắn đặt một cây đàn cầm được bài trí thanh nhã. Ánh mắt nhìn cây cầm vô cùng nhu hòa. Có người bước tới định dùng lực đánh thử cây đàn, hắn liền lên tiếng ngăn lại: “Nhẹ tay một chút, nếu cầm vang lên, thì dây đàn vừa động liền có thanh âm.”
Hắn yêu quý cầm như thế, Ân Nhược Dương cũng không thấy kỳ lạ, dù sao đó cũng là thói quen thường ngày của hắn. Thế nhưng ánh mắt của hắn khi nhìn cầm lại nhu hòa lạ thường. Giống cây đàn cầm trước mặt là một thứ có sự sống vậy, còn hắn thì đang thương tiếc che chở cho sinh mạng đó.
Đàn này thất cổ quái, giống như có thể mê hoặc thần trí con người, sửa đổi tính tình của Trác Dật Phi.
Ân Nhược Dương chợt nhớ tới nửa đêm hôm qua. Gia đinh của Trác phủ nghe lệnh Trác lão gia, Trác phu nhân đi tìm công tử nhà họ. Khi hắn nghe tin Trác Dật Phi ôm cầm rời khỏi phủ một mình, đến đêm canh ba vẫn còn chưa thấy trở về liền giật mình cả kinh.
Trực tiếp hỏi: “Mang theo cây cầm nào?”
“Cái này tiểu nhân cũng không rõ.”
Ân Nhược Dương lập tức chạy tới Trác phủ, đi thẳng vào lầu Minh Nguyệt, liền không thấy cây đàn cầm câm ở trên bàn nữa. Ngay lập tức lòng hắn trầm xuống, chợt nghĩ đến cảnh người trung niên kia rơi xuống nước ở Sấu Tây Hồ.
“Mau, kêu vài người đi với ta đến Sấu Tây Hồ.”
Ân Nhược Dương dẫn theo một đám gia đinh vừa đi ra khỏi cổng lớn Trác phủ thì thấy Trác Dật Phi đã trở lại. Từ đầu đến chân hắn đều ướt đẫm, vừa nhìn liền biết hắn đã rơi xuống nước. Nhưng hắn lại khăng khăng một mực rằng cây cầm này chẳng có gì khác thường. Trác Dật Phi giải thích là do bản thân hắn trượt chân rơi xuống nước, không liên quan gì đến cây cầm này. Cây cầm lại bị hắn ôm chặt vào trong ngực, không thể lấy ra được.
Trác Dật Phi còn nói, hắn dùng mọi cách xem xét mãi vẫn không tìm ra nguyên nhân khiến cây đàn cầm kỳ lại này không lên tiếng. Vì thế hắn quyết định ngày hôm sau sẽ đến lầu Yên Vũ, lấy cầm treo giải thưởng, tìm xem có cao nhân nào có thể tấu vang cây cầm vô thanh này không.
Ân Nhược Dương cảm thấy Trác Dật Phi vì cây cầm này mà loạn tính lạ thường, nhưng hắn nhất thời không thể khuyên can được. Vì lo lắng cho bạn tốt, càng không yên tâm về cây cầm ma quái. Thế nên vào ngày hôm sau, hắn đi theo Trác Dật Phi đến lầu Yên Vũ.
Trên lầu Yên Vũ náo nhiệt cả một ngày trời, ít nhất có hơn năm, sáu trăm người đến thử đánh đàn. Nhưng không có ai có thể khiến dây đàn vang tiếng. Mọi người đều lấy làm kỳ lạ mà rời đi. Nhất thời trong thành Dương Châu, các quán trà, quán rượu đều bàn luận xôn xao về chuyện ly kỳ này. Đến ngày thứ ba, dòng người tò mò muốn tìm hiểu đến đông không đếm xuể. Trước lầu Yên Vũ đã chen chúc chật ních người.
Ân Nhược Dương đứng canh giữ ở lầu Yên Vũ, nhìn chằm chằm vào cây đàn cầm kia. Nhưng cũng không thấy cây cầm phát sinh ra hiện tượng lạ gì, mà sức nhẫn nại của Trác Dật Phi cũng khác trước rất nhiều. Hết thảy trông thấy cũng khá bình thường. Chỉ là đứng ở trong lầu hỗn loạn ồn ào nhiều ngày liên tục, ngay cả hắn cũng thấy khó chịu, thế mà Trác Dật Phi lại bình thản chịu đựng, ánh mắt luôn tập trung nhìn cây đàn cầm, không màng thế sự.
Ân Nhược Dương cảm thấy rất kỳ lạ, nhưng lại không nói được kỳ lạ ở chỗ nào. Hắn buồn bực trong lòng với một đống chuyện không thể hiểu được, liền đi ra ngoài hành lang hít thở không khí.
Ánh mắt vô tình nhìn thoáng qua dưới lầu chợt ngừng lại. Bên góc tường phía Đông của lầu, dưới gốc cây Liễu có một thư sinh tuấn tú mặc áo dài màu lam. Đang đưa mắt nhìn cảnh tưởng đông đúc như trẩy hội của lầu Yên Vũ, một tay cầm quạt giấy, mở ra lại khép lại, mở ra lại khép lại, hiển nhiên người ấy đang do dự có nên đi vào hay không.
Chưa kịp nghĩ ngợi, Ân Nhược Dương đã dùng chiêu Bình Sa Lạc Nhạn nhảy ra bên ngoài lầu, xoáy mình giữa không trung một cái đã đứng trước cửa lầu Yên Vũ.
“Công phu kiệt xuất.” Vài tiếng hoan hô liên tiếp. Khiến cho Ân Nhược Dương đột nhiên cảm thấy bản thấy quả thật có chút thất thố. Nhiều người đang ở tại nơi này, hắn thi triển công phu như thế có khác gì với các trò làm xiếc.
Mà thư sinh áo lam kia nhìn thấy hắn, cây quạt trong tay vừa mở ra liền không kịp khép lại. Cơ thể ổn định, ánh mắt cũng bình tĩnh, yên lặng rồi một lát rồi lên tiếng: “Ân đại ca.”
“Liễu......” Ân Nhược Dương ngừng một chút, nhìn xung quanh vội sửa lời: “Liễu công tử, đệ tới một mình à? Lục Nhi đâu?”
“Đệ không mang theo Lục Nhi, mà để nàng đứng ở cửa phòng canh chừng giúp đệ. Nếu như mẫu thân đệ đến tìm thì nói đệ đang ngủ trưa ở trong phòng.”
“Đệ, đệ cũng to gan quá rồi. Đi ra ngoài một mình như thế lỡ như gặp phải chuyện gì thì sao?”
“Bên bờ Sấu Tây Hồ là nơi phồn hoa thắng địa, thì có thể gặp phải chuyện gì?”
“Không thể nói như vậy, đệ cũng thấy ở đây rất hỗn loạn......”
Ân Nhược Dương nói đến được một nửa đột nhiên khựng lại, Liễu Xuân Nùng ngước mắt lên nhìn hắn. Hai mắt đối diện, bất chợt cùng nhớ lại ấn tượng lần đầu tiên gặp mặt......
Ngày ấy xe ngựa của mẫu tử Liễu thị lặn lội đường xa đi vào thành Dương Châu, trên đường tới Trác phủ đi ngang qua Sấu Tây Hồ. Liễu Xuân Nùng tò mò cảnh phồn hoa nơi đây, nên nàng vén màn lên, đầu tựa bên thành cửa sổ. Cũng may xe ngựa bôn ba một đường dài, con ngựa cũng cảm thấy mỏi mệt, vó ngựa bước từ từ, chậm chạp, giúp cho nàng thoải mái thưởng thức cảnh đẹp bên ngoài.
Xe ngựa đi không bao xa, đột nhiên nghe thấy một tiếng rầm. Cái sạp bên đường bị người đá lật lên. Trên sạp vốn được bày biện đủ loại túi hương, hà bao, dây đeo quạt, túi đựng quạt, chuỗi ngọc, vòng tay ngọc, hoa lụa...... giờ như chim Tước hoảng sợ văng ra bốn phía, lăn lông lốc trên đất.
Xa phu vội vàng ghìm chặt ngựa, tránh cho nó đạp hỏng đồ vật lung tung.
Người đá sạp quán kia còn không chịu bỏ qua, giơ chân lên muỗn giẫm đạp hết mấy thứ trên đất. Một lão phụ nhân tóc hoa râm quỳ xuống ôm lấy chân của gã.
“Hoắc Bát gia, cái sạp này là kế sinh nhai giúp lão thái bà ta sống qua ngày. Cầu xin ngài thương xót cho thân già này.”
“Hừ, Vương lão thái bà đã già hơn một bó tuổi còn chạy ra đây mở sạp buôn bán làm gì? Để con dâu bà tới đây, Hoắc Bát ta sẽ chăm sóc nàng tử tế.”
“Con dâu của ta tuổi còn trẻ, không thích hợp xuất đầu lộ diện bên ngoài. Mỗi ngày nàng ở trong nhà thêu thùa các món lặt vặt này để ta cầm đi bán đổi vài đồng tiền lẻ. Hoắc Bát gia làm ơn hãy thương xót, để hai quả phụ chúng ta một con đường sống đi.”
“Đúng là đồ ương ngạnh cố chấp. Hoắc Bát ta chiếu cố các ngươi, thì còn làm quả phụ cái gì? Con dâu bà theo ta, bà đi theo phụ thân ta, chẳng phải đẹp cả đôi đường sao?”
Hoắc Bát vuốt chòm râu quai nón, nở nụ cười dâm đãng, Vương lão phụ nhân xấu hổ: “Hai người quả phụ chúng ta không hề có ý định tái giá. Mong ngài đừng nói ra những lời ấy.”
“Ơ hay, đúng là thứ cho mặt mũi liền lên mặt.” Hoắc Bát giơ chân lên, Vương lão phụ nhân bị hắn hất ngã sang một bên. Sau đó gã giẫm nát một chuỗi ngọc dưới đất. Mọi người đứng vây xem đều bất bình lên mặt, nhưng không có ai dám xông ra.
Hoắc Bát giẫm nát một chuỗi ngọc, đang muốn nhấc chân nghiền nát chuỗi tiếp theo thì bỗng dưng cảm thấy trước mắt tối sầm. Có một vật thể lạ bay tới đánh ngay trên đùi phải của hắn. Gã khuỵu chân ngã lăn xuống đất, la lớn kêu đau.
“Ui, da, là tên nào dám đả thương chân của ta?”
Một người thanh niên mày kiếm mắt sáng, vóc người cao lớn đứng nghiêm trước gã. Tay phải người này giương lên, vai đeo một thanh trường kiếm còn nằm trong vỏ. Cả người tràn ngập khí phách hào hùng.
“Là ta, Ân Nhược Dương.”
Tiếng nói của Hoắc Bát lập tức nhỏ dần, “Thì ra là Ân công tử, tiểu nhân biết lỗi rồi, tiểu nhân biết lỗi rồi.”
Hoắc Bát mới vừa rồi còn oai phong hách dịch, chớp mắt một cái, oai phong quăng mất, kéo một cái chân bị thương đi cà thọt định rời khỏi.
“Từ từ đã, trước khi rời đi, ngươi mau nhặt hết toàn bộ đồ vật này lên.”
Hoắc Bát ngoan ngoãn nhặt lên, Vương lão phụ nhân đừng ở một bên lau nước mắt cảm tạ Ân Nhược Dương tạ: “Ân công tử, lão thân cảm tạ đại ân đại đức của ngài!”
Vừa nói bà vừa vội vàng quỳ xuống, Ân Nhược Dương nhanh chóng đưa tay đỡ lấy.”Chỉ là một chút chuyện nhỏ mà thôi, đại nương không cần đa lễ.”
Hoắc Bát mang theo cái chân bị thương, cử động không tiện, khi lượm đồ vật thì vụng về rơi rớt này nọ. Ân Nhược Dương liền khom lưng đi xuống nhặt một vài vật nhỏ rơi tán lạc bên cạnh mình. Khi đang tới cạnh chiếc xe ngựa lượm đóa hoa lụa rơi dưới bánh xe, chợt nghe thấy có một giọng nói mềm mại như chim hoàng oanh: “Thứ này vừa mới văng vào cửa sổ xe ta. Công tử cầm lấy đi.”
Ân Nhược Dương ngẩng đầu lên, nhìn vào trong cửa sổ xe ngựa, thì thấy màn cửa hơi vén lên, một bàn tay ngọc trắng nõn nà đưa một túi hà bao màu xanh phỉ thúy nhỏ.
Trong lòng nhất thời khẽ rung động.
Hắn đứng dậy, đưa tay lên, cũng không cầm lấy tay ngọc nhận túi hương mà chẳng qua để tay nàng thả xuống. Bàn tay ấy đặt nghiêng bên cửa sổ, túi hà bao rơi xuống lòng bàn tay hắn. Cảm giác có chút ấm áp ngọt ngào, hiển nhiên nó đã được nàng giữ chặt trong lòng bàn tay khá lâu.
Nhịn không được, hắn nghiêng đầu nhìn theo hướng xe rời đi, mà màn xe cũng hơi vén cao một ít. Để lộ ra dung nhan như hoa Phù Dung, một đôi mắt trong vắt như thu thủy lướt nhìn qua hắn.
Bốn mắt đối diện, tựa như điện quang hỏa thạch, lại giống như cột đá ngàn năm bỗng nở hoa.
Màn xe rơi xuống, hắn nghe được tiếng của một người phụ nữ trung niên, khá mơ hồ, giống như mới vừa tỉnh giấc: “Sao xe ngựa lại ngừng lại thế, Xuân Nùng, chúng ta đã đến nhà cậu của con rồi sao?”
“Mẫu thân đã tỉnh, vẫn còn chưa đến đâu, cơ mà cũng sắp đến rồi.”
Một hồi xôn xao cũng dần bình ổn lại, người xem náo nhiệt tản dần sang bốn phía. Xe ngựa lại tiếp tục bước tới. Ân Nhược Dương nhìn xe ngựa đang dần đi xa, đứng ngẩn ngơ.
Xuân Nùng là tên của nàng sao? Tên thật đẹp, tên đẹp như vậy hẳn người cũng thế, tựa như nét đẹp xuân sắc ngọt ngào.
Tại lầu Yên Vũ bên bờ Sấu Tây Hồ. Lầu cao ba tầng, bốn bên là hành lang. Vào lúc mưa rơi rả rích, khi đứng trên lầu trông về phía xa sẽ thấy quanh hồ mây khói mờ mịt, mưa rơi như kéo dệt. Cho nên mới có tên là lầu Yên Vũ.
Lầu Yên Vũ là địa danh nổi tiếng trên Sấu Tây Hồ. Du khách đến đây nối liền không dứt. Hôm nay lại nhộn nhịp lạ thường, hàng trăm người đều đổ xô vào trong lầu. Tất cả cũng chỉ vì thân sĩ Dương Châu Trác công tử của Trác phủ bao trọn lầu Yên Vũ, dùng cầm treo giải thưởng. Nếu ai có thể tấu vang cây thất huyền cầm của hắn sẽ được trao tặng ba trăm lượng bạc trắng.
Trác Dật Phi ở Dương Châu là một thánh thủ danh cầm có tiếng. Lúc đầu khi hắn dùng cầm treo giải thưởng, mọi người đều nghĩ hắn muốn tổ chức cuộc thi đánh đàn cầm. Thế nên không ai dám tới múa rìu qua mắt thợ. Sau lại biết chỉ cần bất cứ ai gảy vang được cây cầm kia là có thể nhận ngay ba trăm lượng bạc. Nhất thời dòng người ùa vây vào trong.
Trác Dật Phi mang theo nhiều gia đinh đến bảo đảm trật tự xung quanh, bắt buộc mọi người phải xếp hàng ngay ngắn tiến vào thử đánh đàn. Ân Nhược Dương lưng mang trường kiếm đứng ở bên, mắt nhìn đám người lộn xộn vì tiền này, nhướng mày: “Dật Phi, từ lúc huynh giữ cây cầm này thật sự thay đổi như hai người khác nhau vậy. Trước kia huynh chán ghét nhất là những trường hợp ầm ỹ như thế này mà.”
Trác Dật Phi lại cười nói: “Trước khác nay khác.”
Trước mặt hắn đặt một cây đàn cầm được bài trí thanh nhã. Ánh mắt nhìn cây cầm vô cùng nhu hòa. Có người bước tới định dùng lực đánh thử cây đàn, hắn liền lên tiếng ngăn lại: “Nhẹ tay một chút, nếu cầm vang lên, thì dây đàn vừa động liền có thanh âm.”
Hắn yêu quý cầm như thế, Ân Nhược Dương cũng không thấy kỳ lạ, dù sao đó cũng là thói quen thường ngày của hắn. Thế nhưng ánh mắt của hắn khi nhìn cầm lại nhu hòa lạ thường. Giống cây đàn cầm trước mặt là một thứ có sự sống vậy, còn hắn thì đang thương tiếc che chở cho sinh mạng đó.
Đàn này thất cổ quái, giống như có thể mê hoặc thần trí con người, sửa đổi tính tình của Trác Dật Phi.
Ân Nhược Dương chợt nhớ tới nửa đêm hôm qua. Gia đinh của Trác phủ nghe lệnh Trác lão gia, Trác phu nhân đi tìm công tử nhà họ. Khi hắn nghe tin Trác Dật Phi ôm cầm rời khỏi phủ một mình, đến đêm canh ba vẫn còn chưa thấy trở về liền giật mình cả kinh.
Trực tiếp hỏi: “Mang theo cây cầm nào?”
“Cái này tiểu nhân cũng không rõ.”
Ân Nhược Dương lập tức chạy tới Trác phủ, đi thẳng vào lầu Minh Nguyệt, liền không thấy cây đàn cầm câm ở trên bàn nữa. Ngay lập tức lòng hắn trầm xuống, chợt nghĩ đến cảnh người trung niên kia rơi xuống nước ở Sấu Tây Hồ.
“Mau, kêu vài người đi với ta đến Sấu Tây Hồ.”
Ân Nhược Dương dẫn theo một đám gia đinh vừa đi ra khỏi cổng lớn Trác phủ thì thấy Trác Dật Phi đã trở lại. Từ đầu đến chân hắn đều ướt đẫm, vừa nhìn liền biết hắn đã rơi xuống nước. Nhưng hắn lại khăng khăng một mực rằng cây cầm này chẳng có gì khác thường. Trác Dật Phi giải thích là do bản thân hắn trượt chân rơi xuống nước, không liên quan gì đến cây cầm này. Cây cầm lại bị hắn ôm chặt vào trong ngực, không thể lấy ra được.
Trác Dật Phi còn nói, hắn dùng mọi cách xem xét mãi vẫn không tìm ra nguyên nhân khiến cây đàn cầm kỳ lại này không lên tiếng. Vì thế hắn quyết định ngày hôm sau sẽ đến lầu Yên Vũ, lấy cầm treo giải thưởng, tìm xem có cao nhân nào có thể tấu vang cây cầm vô thanh này không.
Ân Nhược Dương cảm thấy Trác Dật Phi vì cây cầm này mà loạn tính lạ thường, nhưng hắn nhất thời không thể khuyên can được. Vì lo lắng cho bạn tốt, càng không yên tâm về cây cầm ma quái. Thế nên vào ngày hôm sau, hắn đi theo Trác Dật Phi đến lầu Yên Vũ.
Trên lầu Yên Vũ náo nhiệt cả một ngày trời, ít nhất có hơn năm, sáu trăm người đến thử đánh đàn. Nhưng không có ai có thể khiến dây đàn vang tiếng. Mọi người đều lấy làm kỳ lạ mà rời đi. Nhất thời trong thành Dương Châu, các quán trà, quán rượu đều bàn luận xôn xao về chuyện ly kỳ này. Đến ngày thứ ba, dòng người tò mò muốn tìm hiểu đến đông không đếm xuể. Trước lầu Yên Vũ đã chen chúc chật ních người.
Ân Nhược Dương đứng canh giữ ở lầu Yên Vũ, nhìn chằm chằm vào cây đàn cầm kia. Nhưng cũng không thấy cây cầm phát sinh ra hiện tượng lạ gì, mà sức nhẫn nại của Trác Dật Phi cũng khác trước rất nhiều. Hết thảy trông thấy cũng khá bình thường. Chỉ là đứng ở trong lầu hỗn loạn ồn ào nhiều ngày liên tục, ngay cả hắn cũng thấy khó chịu, thế mà Trác Dật Phi lại bình thản chịu đựng, ánh mắt luôn tập trung nhìn cây đàn cầm, không màng thế sự.
Ân Nhược Dương cảm thấy rất kỳ lạ, nhưng lại không nói được kỳ lạ ở chỗ nào. Hắn buồn bực trong lòng với một đống chuyện không thể hiểu được, liền đi ra ngoài hành lang hít thở không khí.
Ánh mắt vô tình nhìn thoáng qua dưới lầu chợt ngừng lại. Bên góc tường phía Đông của lầu, dưới gốc cây Liễu có một thư sinh tuấn tú mặc áo dài màu lam. Đang đưa mắt nhìn cảnh tưởng đông đúc như trẩy hội của lầu Yên Vũ, một tay cầm quạt giấy, mở ra lại khép lại, mở ra lại khép lại, hiển nhiên người ấy đang do dự có nên đi vào hay không.
Chưa kịp nghĩ ngợi, Ân Nhược Dương đã dùng chiêu Bình Sa Lạc Nhạn nhảy ra bên ngoài lầu, xoáy mình giữa không trung một cái đã đứng trước cửa lầu Yên Vũ.
“Công phu kiệt xuất.” Vài tiếng hoan hô liên tiếp. Khiến cho Ân Nhược Dương đột nhiên cảm thấy bản thấy quả thật có chút thất thố. Nhiều người đang ở tại nơi này, hắn thi triển công phu như thế có khác gì với các trò làm xiếc.
Mà thư sinh áo lam kia nhìn thấy hắn, cây quạt trong tay vừa mở ra liền không kịp khép lại. Cơ thể ổn định, ánh mắt cũng bình tĩnh, yên lặng rồi một lát rồi lên tiếng: “Ân đại ca.”
“Liễu......” Ân Nhược Dương ngừng một chút, nhìn xung quanh vội sửa lời: “Liễu công tử, đệ tới một mình à? Lục Nhi đâu?”
“Đệ không mang theo Lục Nhi, mà để nàng đứng ở cửa phòng canh chừng giúp đệ. Nếu như mẫu thân đệ đến tìm thì nói đệ đang ngủ trưa ở trong phòng.”
“Đệ, đệ cũng to gan quá rồi. Đi ra ngoài một mình như thế lỡ như gặp phải chuyện gì thì sao?”
“Bên bờ Sấu Tây Hồ là nơi phồn hoa thắng địa, thì có thể gặp phải chuyện gì?”
“Không thể nói như vậy, đệ cũng thấy ở đây rất hỗn loạn......”
Ân Nhược Dương nói đến được một nửa đột nhiên khựng lại, Liễu Xuân Nùng ngước mắt lên nhìn hắn. Hai mắt đối diện, bất chợt cùng nhớ lại ấn tượng lần đầu tiên gặp mặt......
Ngày ấy xe ngựa của mẫu tử Liễu thị lặn lội đường xa đi vào thành Dương Châu, trên đường tới Trác phủ đi ngang qua Sấu Tây Hồ. Liễu Xuân Nùng tò mò cảnh phồn hoa nơi đây, nên nàng vén màn lên, đầu tựa bên thành cửa sổ. Cũng may xe ngựa bôn ba một đường dài, con ngựa cũng cảm thấy mỏi mệt, vó ngựa bước từ từ, chậm chạp, giúp cho nàng thoải mái thưởng thức cảnh đẹp bên ngoài.
Xe ngựa đi không bao xa, đột nhiên nghe thấy một tiếng rầm. Cái sạp bên đường bị người đá lật lên. Trên sạp vốn được bày biện đủ loại túi hương, hà bao, dây đeo quạt, túi đựng quạt, chuỗi ngọc, vòng tay ngọc, hoa lụa...... giờ như chim Tước hoảng sợ văng ra bốn phía, lăn lông lốc trên đất.
Xa phu vội vàng ghìm chặt ngựa, tránh cho nó đạp hỏng đồ vật lung tung.
Người đá sạp quán kia còn không chịu bỏ qua, giơ chân lên muỗn giẫm đạp hết mấy thứ trên đất. Một lão phụ nhân tóc hoa râm quỳ xuống ôm lấy chân của gã.
“Hoắc Bát gia, cái sạp này là kế sinh nhai giúp lão thái bà ta sống qua ngày. Cầu xin ngài thương xót cho thân già này.”
“Hừ, Vương lão thái bà đã già hơn một bó tuổi còn chạy ra đây mở sạp buôn bán làm gì? Để con dâu bà tới đây, Hoắc Bát ta sẽ chăm sóc nàng tử tế.”
“Con dâu của ta tuổi còn trẻ, không thích hợp xuất đầu lộ diện bên ngoài. Mỗi ngày nàng ở trong nhà thêu thùa các món lặt vặt này để ta cầm đi bán đổi vài đồng tiền lẻ. Hoắc Bát gia làm ơn hãy thương xót, để hai quả phụ chúng ta một con đường sống đi.”
“Đúng là đồ ương ngạnh cố chấp. Hoắc Bát ta chiếu cố các ngươi, thì còn làm quả phụ cái gì? Con dâu bà theo ta, bà đi theo phụ thân ta, chẳng phải đẹp cả đôi đường sao?”
Hoắc Bát vuốt chòm râu quai nón, nở nụ cười dâm đãng, Vương lão phụ nhân xấu hổ: “Hai người quả phụ chúng ta không hề có ý định tái giá. Mong ngài đừng nói ra những lời ấy.”
“Ơ hay, đúng là thứ cho mặt mũi liền lên mặt.” Hoắc Bát giơ chân lên, Vương lão phụ nhân bị hắn hất ngã sang một bên. Sau đó gã giẫm nát một chuỗi ngọc dưới đất. Mọi người đứng vây xem đều bất bình lên mặt, nhưng không có ai dám xông ra.
Hoắc Bát giẫm nát một chuỗi ngọc, đang muốn nhấc chân nghiền nát chuỗi tiếp theo thì bỗng dưng cảm thấy trước mắt tối sầm. Có một vật thể lạ bay tới đánh ngay trên đùi phải của hắn. Gã khuỵu chân ngã lăn xuống đất, la lớn kêu đau.
“Ui, da, là tên nào dám đả thương chân của ta?”
Một người thanh niên mày kiếm mắt sáng, vóc người cao lớn đứng nghiêm trước gã. Tay phải người này giương lên, vai đeo một thanh trường kiếm còn nằm trong vỏ. Cả người tràn ngập khí phách hào hùng.
“Là ta, Ân Nhược Dương.”
Tiếng nói của Hoắc Bát lập tức nhỏ dần, “Thì ra là Ân công tử, tiểu nhân biết lỗi rồi, tiểu nhân biết lỗi rồi.”
Hoắc Bát mới vừa rồi còn oai phong hách dịch, chớp mắt một cái, oai phong quăng mất, kéo một cái chân bị thương đi cà thọt định rời khỏi.
“Từ từ đã, trước khi rời đi, ngươi mau nhặt hết toàn bộ đồ vật này lên.”
Hoắc Bát ngoan ngoãn nhặt lên, Vương lão phụ nhân đừng ở một bên lau nước mắt cảm tạ Ân Nhược Dương tạ: “Ân công tử, lão thân cảm tạ đại ân đại đức của ngài!”
Vừa nói bà vừa vội vàng quỳ xuống, Ân Nhược Dương nhanh chóng đưa tay đỡ lấy.”Chỉ là một chút chuyện nhỏ mà thôi, đại nương không cần đa lễ.”
Hoắc Bát mang theo cái chân bị thương, cử động không tiện, khi lượm đồ vật thì vụng về rơi rớt này nọ. Ân Nhược Dương liền khom lưng đi xuống nhặt một vài vật nhỏ rơi tán lạc bên cạnh mình. Khi đang tới cạnh chiếc xe ngựa lượm đóa hoa lụa rơi dưới bánh xe, chợt nghe thấy có một giọng nói mềm mại như chim hoàng oanh: “Thứ này vừa mới văng vào cửa sổ xe ta. Công tử cầm lấy đi.”
Ân Nhược Dương ngẩng đầu lên, nhìn vào trong cửa sổ xe ngựa, thì thấy màn cửa hơi vén lên, một bàn tay ngọc trắng nõn nà đưa một túi hà bao màu xanh phỉ thúy nhỏ.
Trong lòng nhất thời khẽ rung động.
Hắn đứng dậy, đưa tay lên, cũng không cầm lấy tay ngọc nhận túi hương mà chẳng qua để tay nàng thả xuống. Bàn tay ấy đặt nghiêng bên cửa sổ, túi hà bao rơi xuống lòng bàn tay hắn. Cảm giác có chút ấm áp ngọt ngào, hiển nhiên nó đã được nàng giữ chặt trong lòng bàn tay khá lâu.
Nhịn không được, hắn nghiêng đầu nhìn theo hướng xe rời đi, mà màn xe cũng hơi vén cao một ít. Để lộ ra dung nhan như hoa Phù Dung, một đôi mắt trong vắt như thu thủy lướt nhìn qua hắn.
Bốn mắt đối diện, tựa như điện quang hỏa thạch, lại giống như cột đá ngàn năm bỗng nở hoa.
Màn xe rơi xuống, hắn nghe được tiếng của một người phụ nữ trung niên, khá mơ hồ, giống như mới vừa tỉnh giấc: “Sao xe ngựa lại ngừng lại thế, Xuân Nùng, chúng ta đã đến nhà cậu của con rồi sao?”
“Mẫu thân đã tỉnh, vẫn còn chưa đến đâu, cơ mà cũng sắp đến rồi.”
Một hồi xôn xao cũng dần bình ổn lại, người xem náo nhiệt tản dần sang bốn phía. Xe ngựa lại tiếp tục bước tới. Ân Nhược Dương nhìn xe ngựa đang dần đi xa, đứng ngẩn ngơ.
Xuân Nùng là tên của nàng sao? Tên thật đẹp, tên đẹp như vậy hẳn người cũng thế, tựa như nét đẹp xuân sắc ngọt ngào.