Tôi không nói năng nhiều với cả hai khi xuống nhà sau giờ ăn sáng như thường lệ. Tôi chuẩn bị bánh mì nướng và cà phê, tự lấy một ít trứng tráng còn lại, và ngồi xuống một góc quán. Trong khi ngồi ăn tôi cứ trở lại với ý nghĩ mình có thể gặp phải Tilo và Sonja lần nữa trong khu đồi. Và dù có thể sẽ dẫn đến phải nghe bài ca về cái nhà của Mụ Fraser, dù thế đi nữa, tôi nhận ra mình đang hy vọng chuyện đó xảy ra. Thêm nữa, ngay cả nếu chỗ Mụ Fraser thực là kinh khủng, họ cũng không bao giờ đoán được tôi đã giới thiệu vì ác ý. Có cả chục cách để tôi thoát khỏi chuyện này.
Maggie và Geoff hẳn là đang trông chờ tôi giúp khi giờ ăn trưa tới, nhưng tôi quyết định họ cần một bài học về chuyện ăn không của người khác. Thế nên sau khi ăn xong tôi đi lên phòng, lấy đàn và chuồn ra cửa sau.
Lúc này trời đã lại nóng nực và mồ hôi chảy xuống má khi tôi đi lên đường dốc tới băng ghế của mình. Mặc dù nghĩ về Tilo và Sonja suốt bữa sáng, đến lúc này tôi đã quên mất họ, cho nên khi lên tới chặng dốc cuối và nhìn ra chiếc ghế, tôi khá ngạc nhiên thấy Sonja đang ngồi đó một mình. Bà nhìn ra tôi ngay và vẫy tay.
Tôi vẫn còn hơi e sợ bà, và nhất là không có Tilo ở đây, tôi không hào hứng tới ngồi với bà lắm. Nhưng bà cười rõ tươi với tôi và dịch người ra, như là để chỗ cho tôi, nên tôi không còn cách nào khác.
Chúng tôi chào nhau, rồi trong một lúc chỉ ngồi cạnh nhau như thế, không nói gì. Ban đầu cũng không khó xử lắm, phần vì tôi vẫn đang lấy lại hơi, phần vì khung cảnh trước mắt. Sương và mây mù nhiều hơn hôm trước, nhưng nếu để ý, vẫn có thể nhìn thấy bên kia bên giới xứ Wales tới dãy đồi Núi Đen. Gió khá mạnh, nhưng không phải là khó chịu.
“Thế Tilo đâu rồi?” cuối cùng tôi hỏi.
“Tilo à? Ồ…” Bà đưa tay lên che mắt. Rồi chỉ. “Kia kìa. Anh thấy không? Ở đằng kia. Tilo đấy.”
Xa xa tầm bao nhiêu đó, tôi nhìn thấy một dáng người, có vẻ là mặc áo phông xanh đội mũ lưỡi trai trắng, đi dọc theo con đường dốc lên Đỉnh Worcestershire.
“Tilo muốn đi dạo,” bà nói.
“Bà không muốn đi cùng à?”
“Không. Tôi ngồi lại đây.”
Tuy rõ ràng bà không còn là vị khách điên khùng trong quán, song bà cũng không hẳn là con người thân thiện và khích lện ngày hôm qua. Hẳn là có chuyện gì đây, và tôi bắt đầu sửa soạn lời biện hộ về chỗ Mụ Fraser.
“À nhân thể,” tôi nói, “tôi đã viết thêm một chút cho bài đó. Bà có thể nghe nếu bà muốn.”
Bà suy nghĩ một chút, rồi đáp: “Nếu anh không phiền thì có lẽ không phải bây giờ. Anh biết đấy, Tilo và tôi vừa mới nói chuyện. Anh gọi là vừa mới bất đồng cũng được.”
“Ôi thế ạ. Rất tiếc lại có chuyện đó.”
“Và bây giờ ông ấy đã bỏ đi dạo.”
Lần nữa, chúng tôi lại ngồi mà không nói gì. Rồi tôi thở dài và nói: “Tôi nghĩ có lẽ đấy là lỗi của tôi.”
Bà quay lại nhìn tôi. “Lỗi của anh à? Sao anh lại nói thế?”
“Nguyên nhân hai người cãi nhau, nguyên nhân kỳ nghỉ của ông bà thành ra hỏng cả. Đấy là lỗi tôi. Đấy là tại cái nhà khách, phải không? Nhà khách ấy không được lắm, phải không?”
“Nhà khách à?” Bà có vẻ bối rối. “Nhà khách à. Ừ, nó cũng có khuyết điểm. Nhưng nó chỉ là cái nhà khách, như mọi nhà khách khác.”
“Nhưng bà để ý, đúng không? Bà luôn để ý các khuyết điểm. Chắc là bà phải để ý.”
Bà có vẻ nghĩ ngợi điều này, rồi gật đầu. “Đúng thế, tôi luôn để ý các khuyết điểm. Còn Tilo thì không. Tilo, tất nhiên, nghĩ đấy là một nhà khách tuyệt vời. Chúng ta may mắn quá, ông ấy bảo thế. May mắn quá mới tìm được nhà khách này. Rồi sáng nay chúng tôi dùng bữa. Với Tilo, đó là một bữa sáng rất ổn, bữa sáng tốt nhất từng có. Tôi nói, Tilo, đừng có ngớ ngẩn. Bữa sáng nay chẳng ra gì. Nhà khách này chẳng ra gì. Ông ấy nói, không, không, chúng ta rất là may mắn. Thế nên tôi tức điên lên. Tôi nói cho người chủ biết mọi thứ gì không ổn ở đây. Tilo kéo tôi đi. Chúng ta đi dạo đi, ông ấy nói thế. Rồi em sẽ thấy dễ chịu hơn. Thế nên chúng tôi ra đây. Và ông ấy nói, Sonja, nhìn những ngọn đồi này, chẳng phải chúng thật đẹp sao? Chẳng phải ta may mắn vì đã tới một nơi như thế này trong kỳ nghỉ sao? Vùng đồi này, ông ấy bảo, còn tuyệt vời hơn ông ấy tưởng tượng khi nghe nhạc Elgar. Ông ấy hỏi tôi, không phải thế sao? Có lẽ lúc ấy tôi lại tức lên. Tôi bảo ông ấy, vùng đồi này có gì mà tuyệt. Chúng không phải như tôi tưởng tượng khi nghe Elgar. Những ngọn đồi của Elgar vừa vương giả vừa huyền bí. Ở đây chỉ như một cái công viên. Tôi đã nói với ông ấy như thế, và bây giờ đến lượt ông ấy cáu bẳn. Ông ấy bảo đã thế thì ông ấy sẽ đi một mình. Ông ấy bảo chúng ta thế là xong, chúng ta bây giờ không đồng ý được chuyện gì nữa. Thế đấy, ông ấy bảo, Sonja, em và anh, chúng ta thế là xong. Và ông ấy đi! Anh thấy đấy. Đấy là vì sao ông ấy ở trên đó còn tôi ở dưới này.” Bà lại che mắt và theo dõi chặng đường của Tilo.
“Tôi xin lỗi vô cùng,” tôi nói. “Giá mà tôi không chỉ ông bà đến cái nhà khách ấy từ đầu…”
“Xin anh. Cái nhà khách không quan trọng.” Bà cúi người tới trước để thấy được Tilo rõ hơn. Rồi bà quay sang tôi mỉm cười, và tôi nghĩ hình như có những giọt lệ nhỏ trong mắt. “Nói tôi hay đi,” bà bảo. “Hôm nay, anh định sáng tác thêm bài hát nữa à?”
“Dự định là thế. Hoặc ít nhất thì, tôi định viết nốt bài hát đang viết dở. Bài bà vừa nghe hôm qua ấy.”
“Bài ấy hay tuyệt. Và anh sẽ làm gì nữa, sau khi đã viết xong ở đây? Anh có dự định gì chưa?”
“Tôi sẽ về Luân Đôn lập một ban nhạc. Những bài hát này cần một ban thích hợp, nếu không chúng sẽ không đạt được hiệu quả.”
“Thú vị quá. Tôi chúc anh may mắn.”
Ngừng một lúc, tôi lại nói, thật nhỏ: “Mà có khi tôi cũng chẳng làm. Cũng không phải dễ dàng, bà biết đấy.”
Bà không trả lời, và tôi chợt nghĩ bà không nghe thấy, bởi bà đã lại quay đi, nhìn về phía Tilo.
“Anh biết không,” cuối cùng bà nói, “hồi còn trẻ, không có gì có thể làm tôi bực tức. Nhưng bây giờ tôi bực tức vì mọi thứ. Tôi không biết tại sao mình lại thành thế này. Điều ấy không tốt. Ồ, tôi không nghĩ Tilo sẽ trở lại đây. Tôi sẽ quay lại nhà khách đợi ông ấy vậy.” Bà đứng lên, ánh mắt vẫn dõi theo bóng người đằng xa.
“Thật đáng tiếc,” tôi nói và cũng đứng dậy, “ông bà lại bất hòa giữa kỳ nghỉ thế này. Thế mà hôm qua, khi tôi chơi cho hai người nghe, hai người có vẻ hạnh phúc biết mấy.”
“Phải, đấy là một khoảnh khắc đẹp. Cám ơn anh đã đem lại nó.” Bỗng nhiên, bà chìa tay cho tôi, mỉm cười thân mật. “Gặp được anh thật mừng.”
Chúng tôi bắt tay nhau, theo kiểu mềm mại mỗi lần bắt tay phụ nữ. Bà đã dợm bước đi, song dừng lại nhìn tôi.
“Nếu Tilo ở đây,” bà nói, “ông ấy sẽ bảo anh, đừng bao giờ nản chí. Ông ấy sẽ nói, tất nhiên rồi, anh phải đi Luân Đôn và thử thành lập ban nhạc của mình. Tất nhiên anh sẽ thành công. Tilo sẽ nói với anh như thế. Bởi vì ông ấy là như vậy.”
“Thế bà thì sẽ nói thế nào?”
“Tôi cũng muốn nói tương tự. Bởi anh còn trẻ và tài năng. Nhưng tôi không tin tưởng đến thế. Đời là vậy, đời sẽ mang đến những buồn phiền. Nếu trên hết, anh có những giấc mơ như thế…” Bà lại mỉm cười và nhún vai. “Nhưng tôi không nên nói những điều này. Tôi không phải tấm gương tốt cho anh. Thêm nữa, tôi có thể thấy anh giống Tilo hơn. Nếu buồn phiền có đến, anh vẫn sẽ tiến lên. Anh sẽ nói, cũng như ông ấy nói, rằng mình may mắn làm sao.” Trong vài giây, bà đứng nhìn tôi, như đang ghi nhớ lại dáng vẻ tôi thế nào. Cơn gió đang thổi tung tóc bà, khiến bà có vẻ già hơn thường lệ. “Tôi chúc anh thật nhiều may mắn,” cuối cùng bà nói.
“Tôi cũng chúc bà may mắn,” tôi nói. “Và tôi hy vọng hai người chóng làm hòa với nhau.”
Bà vẫy tay lần cuối, rồi đi xuống theo đường mòn khuất tầm mắt.
Tôi lấy đàn trong bao ra và ngồi lại xuống ghế. Nhưng mãi một hồi lâu tôi không chơi gì, vì còn đang nhìn ra xa, về hướng Đỉnh Worcestershire, và cái bóng tí xíu của Tilo trên đường lên dốc. Có lẽ vì lúc này nắng trên đồi đang chiếu xuống mảng đó, tôi thấy ông rõ hơn lúc nãy nhiều, dù ông đã xa tôi hơn. Ông vừa dừng chân một lúc trên đường, và có vẻ đang nhìn những ngọn đồi quây quần xung quanh, gần như thể đang đánh giá lại chúng. Rồi cái bóng của ông lại tiếp tục di chuyển.
Tôi tiếp tục với bài hát một lúc nữa, nhưng cứ liên tục mất tập trung, chủ yếu vì còn đang hình dung vẻ mặt Mụ Fraser lúc Sonja tấn công mụ ta sáng nay. Rồi tôi nhìn lên trời mây, nhìn xuống mặt đất trải bao la bên dưới, và bắt mình quay lại nghĩ về bài hát, về phần nối tôi còn chưa làm xong.
Tôi không nói năng nhiều với cả hai khi xuống nhà sau giờ ăn sáng như thường lệ. Tôi chuẩn bị bánh mì nướng và cà phê, tự lấy một ít trứng tráng còn lại, và ngồi xuống một góc quán. Trong khi ngồi ăn tôi cứ trở lại với ý nghĩ mình có thể gặp phải Tilo và Sonja lần nữa trong khu đồi. Và dù có thể sẽ dẫn đến phải nghe bài ca về cái nhà của Mụ Fraser, dù thế đi nữa, tôi nhận ra mình đang hy vọng chuyện đó xảy ra. Thêm nữa, ngay cả nếu chỗ Mụ Fraser thực là kinh khủng, họ cũng không bao giờ đoán được tôi đã giới thiệu vì ác ý. Có cả chục cách để tôi thoát khỏi chuyện này.
Maggie và Geoff hẳn là đang trông chờ tôi giúp khi giờ ăn trưa tới, nhưng tôi quyết định họ cần một bài học về chuyện ăn không của người khác. Thế nên sau khi ăn xong tôi đi lên phòng, lấy đàn và chuồn ra cửa sau.
Lúc này trời đã lại nóng nực và mồ hôi chảy xuống má khi tôi đi lên đường dốc tới băng ghế của mình. Mặc dù nghĩ về Tilo và Sonja suốt bữa sáng, đến lúc này tôi đã quên mất họ, cho nên khi lên tới chặng dốc cuối và nhìn ra chiếc ghế, tôi khá ngạc nhiên thấy Sonja đang ngồi đó một mình. Bà nhìn ra tôi ngay và vẫy tay.
Tôi vẫn còn hơi e sợ bà, và nhất là không có Tilo ở đây, tôi không hào hứng tới ngồi với bà lắm. Nhưng bà cười rõ tươi với tôi và dịch người ra, như là để chỗ cho tôi, nên tôi không còn cách nào khác.
Chúng tôi chào nhau, rồi trong một lúc chỉ ngồi cạnh nhau như thế, không nói gì. Ban đầu cũng không khó xử lắm, phần vì tôi vẫn đang lấy lại hơi, phần vì khung cảnh trước mắt. Sương và mây mù nhiều hơn hôm trước, nhưng nếu để ý, vẫn có thể nhìn thấy bên kia bên giới xứ Wales tới dãy đồi Núi Đen. Gió khá mạnh, nhưng không phải là khó chịu.
“Thế Tilo đâu rồi?” cuối cùng tôi hỏi.
“Tilo à? Ồ…” Bà đưa tay lên che mắt. Rồi chỉ. “Kia kìa. Anh thấy không? Ở đằng kia. Tilo đấy.”
Xa xa tầm bao nhiêu đó, tôi nhìn thấy một dáng người, có vẻ là mặc áo phông xanh đội mũ lưỡi trai trắng, đi dọc theo con đường dốc lên Đỉnh Worcestershire.
“Tilo muốn đi dạo,” bà nói.
“Bà không muốn đi cùng à?”
“Không. Tôi ngồi lại đây.”
Tuy rõ ràng bà không còn là vị khách điên khùng trong quán, song bà cũng không hẳn là con người thân thiện và khích lện ngày hôm qua. Hẳn là có chuyện gì đây, và tôi bắt đầu sửa soạn lời biện hộ về chỗ Mụ Fraser.
“À nhân thể,” tôi nói, “tôi đã viết thêm một chút cho bài đó. Bà có thể nghe nếu bà muốn.”
Bà suy nghĩ một chút, rồi đáp: “Nếu anh không phiền thì có lẽ không phải bây giờ. Anh biết đấy, Tilo và tôi vừa mới nói chuyện. Anh gọi là vừa mới bất đồng cũng được.”
“Ôi thế ạ. Rất tiếc lại có chuyện đó.”
“Và bây giờ ông ấy đã bỏ đi dạo.”
Lần nữa, chúng tôi lại ngồi mà không nói gì. Rồi tôi thở dài và nói: “Tôi nghĩ có lẽ đấy là lỗi của tôi.”
Bà quay lại nhìn tôi. “Lỗi của anh à? Sao anh lại nói thế?”
“Nguyên nhân hai người cãi nhau, nguyên nhân kỳ nghỉ của ông bà thành ra hỏng cả. Đấy là lỗi tôi. Đấy là tại cái nhà khách, phải không? Nhà khách ấy không được lắm, phải không?”
“Nhà khách à?” Bà có vẻ bối rối. “Nhà khách à. Ừ, nó cũng có khuyết điểm. Nhưng nó chỉ là cái nhà khách, như mọi nhà khách khác.”
“Nhưng bà để ý, đúng không? Bà luôn để ý các khuyết điểm. Chắc là bà phải để ý.”
Bà có vẻ nghĩ ngợi điều này, rồi gật đầu. “Đúng thế, tôi luôn để ý các khuyết điểm. Còn Tilo thì không. Tilo, tất nhiên, nghĩ đấy là một nhà khách tuyệt vời. Chúng ta may mắn quá, ông ấy bảo thế. May mắn quá mới tìm được nhà khách này. Rồi sáng nay chúng tôi dùng bữa. Với Tilo, đó là một bữa sáng rất ổn, bữa sáng tốt nhất từng có. Tôi nói, Tilo, đừng có ngớ ngẩn. Bữa sáng nay chẳng ra gì. Nhà khách này chẳng ra gì. Ông ấy nói, không, không, chúng ta rất là may mắn. Thế nên tôi tức điên lên. Tôi nói cho người chủ biết mọi thứ gì không ổn ở đây. Tilo kéo tôi đi. Chúng ta đi dạo đi, ông ấy nói thế. Rồi em sẽ thấy dễ chịu hơn. Thế nên chúng tôi ra đây. Và ông ấy nói, Sonja, nhìn những ngọn đồi này, chẳng phải chúng thật đẹp sao? Chẳng phải ta may mắn vì đã tới một nơi như thế này trong kỳ nghỉ sao? Vùng đồi này, ông ấy bảo, còn tuyệt vời hơn ông ấy tưởng tượng khi nghe nhạc Elgar. Ông ấy hỏi tôi, không phải thế sao? Có lẽ lúc ấy tôi lại tức lên. Tôi bảo ông ấy, vùng đồi này có gì mà tuyệt. Chúng không phải như tôi tưởng tượng khi nghe Elgar. Những ngọn đồi của Elgar vừa vương giả vừa huyền bí. Ở đây chỉ như một cái công viên. Tôi đã nói với ông ấy như thế, và bây giờ đến lượt ông ấy cáu bẳn. Ông ấy bảo đã thế thì ông ấy sẽ đi một mình. Ông ấy bảo chúng ta thế là xong, chúng ta bây giờ không đồng ý được chuyện gì nữa. Thế đấy, ông ấy bảo, Sonja, em và anh, chúng ta thế là xong. Và ông ấy đi! Anh thấy đấy. Đấy là vì sao ông ấy ở trên đó còn tôi ở dưới này.” Bà lại che mắt và theo dõi chặng đường của Tilo.
“Tôi xin lỗi vô cùng,” tôi nói. “Giá mà tôi không chỉ ông bà đến cái nhà khách ấy từ đầu…”
“Xin anh. Cái nhà khách không quan trọng.” Bà cúi người tới trước để thấy được Tilo rõ hơn. Rồi bà quay sang tôi mỉm cười, và tôi nghĩ hình như có những giọt lệ nhỏ trong mắt. “Nói tôi hay đi,” bà bảo. “Hôm nay, anh định sáng tác thêm bài hát nữa à?”
“Dự định là thế. Hoặc ít nhất thì, tôi định viết nốt bài hát đang viết dở. Bài bà vừa nghe hôm qua ấy.”
“Bài ấy hay tuyệt. Và anh sẽ làm gì nữa, sau khi đã viết xong ở đây? Anh có dự định gì chưa?”
“Tôi sẽ về Luân Đôn lập một ban nhạc. Những bài hát này cần một ban thích hợp, nếu không chúng sẽ không đạt được hiệu quả.”
“Thú vị quá. Tôi chúc anh may mắn.”
Ngừng một lúc, tôi lại nói, thật nhỏ: “Mà có khi tôi cũng chẳng làm. Cũng không phải dễ dàng, bà biết đấy.”
Bà không trả lời, và tôi chợt nghĩ bà không nghe thấy, bởi bà đã lại quay đi, nhìn về phía Tilo.
“Anh biết không,” cuối cùng bà nói, “hồi còn trẻ, không có gì có thể làm tôi bực tức. Nhưng bây giờ tôi bực tức vì mọi thứ. Tôi không biết tại sao mình lại thành thế này. Điều ấy không tốt. Ồ, tôi không nghĩ Tilo sẽ trở lại đây. Tôi sẽ quay lại nhà khách đợi ông ấy vậy.” Bà đứng lên, ánh mắt vẫn dõi theo bóng người đằng xa.
“Thật đáng tiếc,” tôi nói và cũng đứng dậy, “ông bà lại bất hòa giữa kỳ nghỉ thế này. Thế mà hôm qua, khi tôi chơi cho hai người nghe, hai người có vẻ hạnh phúc biết mấy.”
“Phải, đấy là một khoảnh khắc đẹp. Cám ơn anh đã đem lại nó.” Bỗng nhiên, bà chìa tay cho tôi, mỉm cười thân mật. “Gặp được anh thật mừng.”
Chúng tôi bắt tay nhau, theo kiểu mềm mại mỗi lần bắt tay phụ nữ. Bà đã dợm bước đi, song dừng lại nhìn tôi.
“Nếu Tilo ở đây,” bà nói, “ông ấy sẽ bảo anh, đừng bao giờ nản chí. Ông ấy sẽ nói, tất nhiên rồi, anh phải đi Luân Đôn và thử thành lập ban nhạc của mình. Tất nhiên anh sẽ thành công. Tilo sẽ nói với anh như thế. Bởi vì ông ấy là như vậy.”
“Thế bà thì sẽ nói thế nào?”
“Tôi cũng muốn nói tương tự. Bởi anh còn trẻ và tài năng. Nhưng tôi không tin tưởng đến thế. Đời là vậy, đời sẽ mang đến những buồn phiền. Nếu trên hết, anh có những giấc mơ như thế…” Bà lại mỉm cười và nhún vai. “Nhưng tôi không nên nói những điều này. Tôi không phải tấm gương tốt cho anh. Thêm nữa, tôi có thể thấy anh giống Tilo hơn. Nếu buồn phiền có đến, anh vẫn sẽ tiến lên. Anh sẽ nói, cũng như ông ấy nói, rằng mình may mắn làm sao.” Trong vài giây, bà đứng nhìn tôi, như đang ghi nhớ lại dáng vẻ tôi thế nào. Cơn gió đang thổi tung tóc bà, khiến bà có vẻ già hơn thường lệ. “Tôi chúc anh thật nhiều may mắn,” cuối cùng bà nói.
“Tôi cũng chúc bà may mắn,” tôi nói. “Và tôi hy vọng hai người chóng làm hòa với nhau.”
Bà vẫy tay lần cuối, rồi đi xuống theo đường mòn khuất tầm mắt.
Tôi lấy đàn trong bao ra và ngồi lại xuống ghế. Nhưng mãi một hồi lâu tôi không chơi gì, vì còn đang nhìn ra xa, về hướng Đỉnh Worcestershire, và cái bóng tí xíu của Tilo trên đường lên dốc. Có lẽ vì lúc này nắng trên đồi đang chiếu xuống mảng đó, tôi thấy ông rõ hơn lúc nãy nhiều, dù ông đã xa tôi hơn. Ông vừa dừng chân một lúc trên đường, và có vẻ đang nhìn những ngọn đồi quây quần xung quanh, gần như thể đang đánh giá lại chúng. Rồi cái bóng của ông lại tiếp tục di chuyển.
Tôi tiếp tục với bài hát một lúc nữa, nhưng cứ liên tục mất tập trung, chủ yếu vì còn đang hình dung vẻ mặt Mụ Fraser lúc Sonja tấn công mụ ta sáng nay. Rồi tôi nhìn lên trời mây, nhìn xuống mặt đất trải bao la bên dưới, và bắt mình quay lại nghĩ về bài hát, về phần nối tôi còn chưa làm xong.