Tibor đã có một kỳ nghỉ khá thoải mái trong vùng quê của chúng tôi. Cậu không kể nhiều về nó, ngoài chuyện làm quen với vài người Đức, và đã vung tay quá trán trong các trattoria[1] bên đồi.Cậu trở lại sau một tuần, nhìn phấn chấn lên rõ rệt, nhưng cũng lo lắng hỏi cho chắc rằng Eloise McCormack không đi đâu khỏi thành phố trong thời kỳ cậu vắng mặt.
[1] Quán ăn bình dân (tiếng Ý).
Mật độ du khách đã vãn dần lúc ấy, và bồi bàn các quán đã bắt đầu mang đèn sưởi ra đặt giữa các bàn ngoài sân. Buổi chiều hôm cậu về, vào giờ thường lệ, Tibor mang cây đàn quay lại Excelsior, và hài lòng thấy không chỉ là Eloise đang chờ, mà rõ ràng là bà nhớ cậu. Bà chào đón cậu nồng nhiệt, và cũng như người khác, trong cơn lốc tình cảm, có lẽ sẽ trút lên cậu hàng đống thức ăn hay đồ uống, bà ấn cậu vào cái ghế mọi khi và sốt ruột mở bao đàn, miệng nói: “Chơi cho tôi nghe! Nào! Chơi đi!”
Họ đã trải qua một buổi chiều tuyệt vời. Trước đó cậu đã lo lắng không biết mọi thứ sẽ thế nào, sau lời “thú nhận” của bà và sau cách họ chia tay, nhưng sự căng thẳng hình như đã biến mất sạch sẽ, và không khí giữa hai người hòa thuận hơn lúc nào hết. Ngay cả khi, sau khi chơi xong một bản, bà nhắm mắt và bắt đầu một bài phê bình dài, nghiêm khắc về cách cậu chơi, cậu cũng không cảm thấy ghét bỏ gì, chỉ thấy cồn cào muốn hiểu lời bà càng kỹ càng tốt. Ngày hôm đó và hôm sau nữa, vẫn là như vậy: thoải mái, đôi lúc còn đùa cợt, và cậu biết chắc mình chưa bao giờ được chơi hay hơn thế trong đời. Họ không hề nhắc đến cuộc đối thoại trước khi cậu đi, bà cũng không hỏi về kỳ nghỉ ở vùng quê. Họ chỉ nói chuyện âm nhạc.
Rồi ngày thứ tư sau khi cậu trở về, một chuỗi những không may lặt vặt - tính cả một cái két bồn cầu rỉ nước trong phòng - khiến cậu không thể đến Excelsior vào giờ mọi khi. Đến lúc cậu đi qua quán, ánh ngày đã nhạt, bồi bàn đã thắp nến trong những bát thủy tinh nhỏ, và chúng tôi đã chơi được vài bài trong suất tối. Cậu giơ tay vẫy chúng tôi, rồi đi tiếp qua quảng trường đến khách sạn, trông như cà nhắc vì tha theo cây đàn.
Cậu để ý thấy người lễ tân hơi do dự trước khi gọi lên phòng bà. Rồi khi mở cửa, bà chào cậu thân thiết nhưng có vẻ hơi khác mọi khi, và trước khi cậu kịp lên tiếng thì bà đã nhanh chóng nói:
“Tibor, tôi thật mừng là anh tới. Tôi vừa kể với Peter mọi chuyện về anh. Đúng thế, Peter cuối cùng cũng đã tìm thấy tôi!” Rồi bà gọi với vào phòng: “Peter, anh ấy đây rồi! Tibor đây rồi. Và với cả cây đàn nữa!”
Khi Tibor bước vào phòng, một người to con, cứng tuổi, chậm chạp trong chiếc sơ mi cổ bẻ nhạt màu đứng lên với một nụ cười. Ông ta bắt tay Tibor rất chặt và nói: “Ôi, tôi đã nghe bao nhiêu điều về anh. Eloise tin chắc anh sẽ thành một ngôi sao sáng.”
“Peter kiên trì lắm,” bà thì đang nói. “Tôi biết cuối cùng anh ấy sẽ tìm thấy tôi.”
“Không ai trốn được tôi,” Peter nói. Rồi ông đã kéo ghế cho Tibor, rót cho cậu một cốc sâm banh từ xô đá đặt trên tủ ly. “Nào, Tibor, hãy cùng chúng tôi uống mừng cuộc hội ngộ này.”
Tibor nhấp sâm banh, để ý thấy Peter đã tình cờ kéo cho cậu chiếc “ghế chơi đàn” mọi khi. Eloise đã mất tích đâu đó, và trong một lúc Tibor và Peter nói chuyện, cốc trong tay. Peter có vẻ hiền hậu và hỏi rất nhiều chuyện. Tibor đã sống thế nào hồi trẻ ở một nơi như Hungary? Có sốc nhiều không khi lần đầu đến phương Tây?
“Tôi ước gì mình biết chơi nhạc,” Peter nói. “Anh thật may mắn. Tôi rất muốn học. Nhưng có lẽ hơi muộn rồi, tôi nghĩ thế.”
“Ôi, ông chẳng bao giờ nói được là quá muộn,” Tibor nói.
“Anh nói phải. Đừng bao giờ nói quá muộn. Quá muộn luôn chỉ là cách bào chữa. Không, sự thực là, tôi là một người bận rộn, và tôi tự nhủ mình bận rộn đến nỗi không học được tiếng Pháp, không chơi được nhạc, không đọc được Chiến tranh và hòa bình. Mọi thứ tôi vẫn muốn làm từ trước đến nay. Eloise từng chơi nhạc hồi còn bé. Tôi nghĩ cô ấy đã kể với anh.”
“Có, bà có kể. Tôi biết là bà ấy có rất nhiều tài năng.”
“Ôi, chắc chắn là thế. Ai quen cô ấy cũng sẽ thấy là thế. Cô ấy có tâm hồn nhạy cảm. Cô ấy mới là người cần những giờ học ấy. Tôi, thì chỉ là đức ông Chuối Mắn.” Ông giơ hai bàn tay lên và cười. “Tôi rất muốn chơi dương cầm, nhưng anh còn làm gì được với bàn tay thế này? Rất thích hợp với công việc đào đất, và dòng họ tôi đã làm thế từ nhiều thế hệ. Nhưng còn cô ấy,” ông giơ cốc về phía cửa, “cô ấy thì có tâm hồn nhạy cảm.”
Cuối cùng, Eloise cũng hiện ra từ buồng ngủ trong váy dạ tiệc và rất nhiều trang sức.
“Peter, đừng làm Tibor phát chán,” bà nói. “Anh ấy không thích đánh gôn đâu.”
Peter giơ hai tay ra nhìn Tibor cầu khẩn. “Nói tôi nghe, Tibor. Tôi đã nói với anh một chữ nào về đánh gôn chưa?”
Tibor nói cậu cần đi thôi, nói cậu thấy mình đang làm vướng hai người sắp đi dùng bữa tối. Câu này vấp phải sự phản đối từ cả hai người, và Peter nói:
“Anh nhìn tôi xem. Trông tôi có giống mặc để ăn tối hay không?”
Và dù Tibor nghĩ ông mặc cực kỳ đàng hoàng, cậu cũng cười lên một tiếng cho lịch sự. Rồi Peter nói:
“Anh không thể đi mà chưa chơi gì cả. Tôi đã nghe kể bao nhiêu về tiếng đàn của anh.”
Bối rối, Tibor thực tế đã bắt đầu kéo khóa bao đàn, nhưng Eloise đã nghiêm khắc lên tiếng với một thái độ mới trong giọng nói:
“Tibor có lý. Đã muộn rồi. Nhà hàng trong thành phố này, họ không giữ bàn nếu không đến đúng giờ đâu. Peter, anh thay đồ đi. Có lẽ cạo râu nữa? Em sẽ tiễn Tibor đi. Em cần nói chuyện riêng với anh ấy.”
Trong thang máy, họ cười với nhau thân mật, nhưng không nói gì. Khi ra đến ngoài, họ thấy piazza đã thắp sáng cho buổi tối.Trẻ con quanh đây, đã quay lại sau kỳ nghỉ, đang đá bóng hoặc chạy đuổi nhau vòng quanh đài phun. Dân chúng đã đổ hết xuống quảng trường trong giờ đi dạo hoàng hôn, và tôi nghĩ tiếng nhạc từ quán tôi chắc đã vượt không gian đến tận chỗ họ đang đứng.
“Chà, thế đấy,” cuối cùng bà nói. “Anh ấy đã tìm thấy tôi, nên tôi nghĩ anh ấy xứng đáng với tôi.”
“Ông ấy là một người cực kỳ dễ mến,” Tibor nói. “Bà định quay lại Mỹ luôn à?”
“Vài ngày tới. Tôi nghĩ tôi sẽ quay lại.”
“Bà định kết hôn?”
“Tôi nghĩ thế.” Trong một lúc, bà nhìn cậu chăm chú, rồi quay đi. “Tôi nghĩ thế,” bà nhắc lại.
“Tôi chúc bà hạnh phúc. Ông ấy là một người tốt bụng. Cũng là người yêu âm nhạc. Đấy là điều quan trọng với bà.”
“Phải. Đấy là điều quan trọng.”
“Khi bà đang chuẩn bị vừa lúc nãy. Chúng tôi không nói chuyện chơi gôn, mà chuyện học nhạc.”
“Ồ thật à? Anh nói là cho anh ấy hay tôi?”
“Cả hai. Tuy thế, tôi không nghĩ sẽ có nhiều giáo viên ở Portland, Oregon có thể dạy được bà.”
Bà cười lên. “Tôi đã nói, rất khó cho những người như chúng ta.”
“Phải, tôi hiểu điều đó. Sau mấy tuần vừa rồi, tôi càng hiểu điều đó hơn bao giờ hết.” Rồi cậu thêm: “Miss Eloise, có điều này tôi cần nói trước khi chúng ta chia tay. Tôi sắp đi Amsterdam, ở đó tôi có việc làm trong một khách sạn lớn.”
“Anh sẽ trực khách sạn à?”
“Không. Tôi sẽ chơi trong ban nhạc thính phòng nhỏ trong phòng ăn tối khách sạn. Chúng tôi sẽ chơi cho khách nghe trong khi họ ăn.”
Cậu đang quan sát bà thật kỹ và thấy có gì đó lóe lên trong hai mắt bà, rồi lại tắt đi. Bà đặt tay lên cánh tay cậu và mỉm cười.
“Được rồi, thế thì chúc anh may mắn.” Rồi bà thêm. “Khách nghỉ ở đó. Họ sắp được hưởng vận may rồi.”
“Tôi hy vọng thế.”
Thêm một lúc nữa, họ vẫn đứng đấy cùng nhau, ngay sát chân luồng sáng từ mặt tiền khách sạn đổ xuống, cây cello to đùng giữa họ.
“Và cũng hy vọng,” cậu thêm, “bà sẽ thật hạnh phúc với ông Peter.”
“Tôi cũng hy vọng thế,” bà nói và lại cười. Rồi bà hôn lên má cậu và ôm nhanh cậu một cái. “Anh bảo trọng nhé,” bà nói.
Tibor cám ơn bà, rồi chưa kịp để ý thì cậu đã nhìn bà bước trở lại Excelsior.
Tibor rời thành phố chúng tôi sau đó chẳng bao lâu. Lần cuối cùng chúng tôi chạm cốc với cậu ta, cậu rõ ràng là hết sức biết ơn Giancarlo và Ernesto đã giúp tìm việc, cũng như chúng tôi đã làm bạn với cậu, nhưng tôi không thể không có cảm giác cậu có hơi ngạo với chúng tôi. Có vài người trong chúng tôi nghĩ thế, không chỉ riêng tôi, dù Giancarlo, theo bản tính anh, lúc này lại bênh Tibor, nói thằng bé chẳng qua đang phấn khích và căng thẳng về bước tiếp theo trong đời.
“Phấn khích à? Làm sao nó phấn khích được?” Ernesto nói. “Nó đã qua cả mùa hè nghe nói mình là một thiên tài. Làm ở khách sạn, đấy là một bước lùi. Ngồi đây nói chuyện với chúng ta, đấy cũng là một bước lùi. Nó là một thằng bé tốt lúc đầu hè. Nhưng sau những gì con mụ ấy gây ra cho nó, tôi rất mừng là chúng ta tống tiễn được nó đi.”
Như tôi đã nói, mọi chuyện này xảy ra đã bảy năm rồi. Giancarlo, Ernesto, tất cả ban từ hồi ấy trừ tôi và Fabian, họ đều đã tiến lên. Cho đến lúc bắt gặp cậu ta trên quảng trường mấy hôm trước, tôi đã không nghĩ đến đại danh cầm Hungary trẻ tuổi từ rất lâu rồi. Cậu ta không khó nhận ra lắm. Cậu ta đã lên cân, tất nhiên, và trông cổ đã mập hơn. Và cái lối cậu ta làm hiệu bằng ngón tay, gọi bồi bàn, có cái gì đó - cũng có thể tôi tưởng tượng - cái gì đó như sốt ruột, như khinh suất lại kèm theo thái độ có vẻ chua chát. Nhưng có thể nói thế là bất công. Suy cho cùng, tôi chỉ thoáng nhìn thấy cậu. Dù có thế, tôi cũng cảm giác cậu đã đánh mất nỗi háo hức muốn chứng tỏ mình hồi trẻ, và bộ dạng dè dặt cậu từng có hồi ấy. Nhưng chẳng có gì trên đời chỉ có mặt xấu, chắc anh sẽ nói vậy.
Tôi đã muốn tới đó nói chuyện với cậu, nhưng tới khi suất diễn hết thì cậu đã đi rồi. Biết đâu đấy, có thể cậu chỉ ở đây một buổi chiều. Cậu đang mặc vét - không thực sự sang trọng, chỉ là một bộ vét thường - nên có thể cậu đã tìm được việc làm bàn giấy ở đâu đó. Có thể cậu có công tác gì gần đây và qua thành phố chúng tôi chỉ để hồi nhớ chuyện cũ, ai biết được? Nếu cậu trở lại quảng trường, và nếu lúc ấy tôi không chơi nhạc, tôi sẽ tới trò chuyện với cậu ta.
Tibor đã có một kỳ nghỉ khá thoải mái trong vùng quê của chúng tôi. Cậu không kể nhiều về nó, ngoài chuyện làm quen với vài người Đức, và đã vung tay quá trán trong các trattoria[] bên đồi.Cậu trở lại sau một tuần, nhìn phấn chấn lên rõ rệt, nhưng cũng lo lắng hỏi cho chắc rằng Eloise McCormack không đi đâu khỏi thành phố trong thời kỳ cậu vắng mặt.
[] Quán ăn bình dân (tiếng Ý).
Mật độ du khách đã vãn dần lúc ấy, và bồi bàn các quán đã bắt đầu mang đèn sưởi ra đặt giữa các bàn ngoài sân. Buổi chiều hôm cậu về, vào giờ thường lệ, Tibor mang cây đàn quay lại Excelsior, và hài lòng thấy không chỉ là Eloise đang chờ, mà rõ ràng là bà nhớ cậu. Bà chào đón cậu nồng nhiệt, và cũng như người khác, trong cơn lốc tình cảm, có lẽ sẽ trút lên cậu hàng đống thức ăn hay đồ uống, bà ấn cậu vào cái ghế mọi khi và sốt ruột mở bao đàn, miệng nói: “Chơi cho tôi nghe! Nào! Chơi đi!”
Họ đã trải qua một buổi chiều tuyệt vời. Trước đó cậu đã lo lắng không biết mọi thứ sẽ thế nào, sau lời “thú nhận” của bà và sau cách họ chia tay, nhưng sự căng thẳng hình như đã biến mất sạch sẽ, và không khí giữa hai người hòa thuận hơn lúc nào hết. Ngay cả khi, sau khi chơi xong một bản, bà nhắm mắt và bắt đầu một bài phê bình dài, nghiêm khắc về cách cậu chơi, cậu cũng không cảm thấy ghét bỏ gì, chỉ thấy cồn cào muốn hiểu lời bà càng kỹ càng tốt. Ngày hôm đó và hôm sau nữa, vẫn là như vậy: thoải mái, đôi lúc còn đùa cợt, và cậu biết chắc mình chưa bao giờ được chơi hay hơn thế trong đời. Họ không hề nhắc đến cuộc đối thoại trước khi cậu đi, bà cũng không hỏi về kỳ nghỉ ở vùng quê. Họ chỉ nói chuyện âm nhạc.
Rồi ngày thứ tư sau khi cậu trở về, một chuỗi những không may lặt vặt - tính cả một cái két bồn cầu rỉ nước trong phòng - khiến cậu không thể đến Excelsior vào giờ mọi khi. Đến lúc cậu đi qua quán, ánh ngày đã nhạt, bồi bàn đã thắp nến trong những bát thủy tinh nhỏ, và chúng tôi đã chơi được vài bài trong suất tối. Cậu giơ tay vẫy chúng tôi, rồi đi tiếp qua quảng trường đến khách sạn, trông như cà nhắc vì tha theo cây đàn.
Cậu để ý thấy người lễ tân hơi do dự trước khi gọi lên phòng bà. Rồi khi mở cửa, bà chào cậu thân thiết nhưng có vẻ hơi khác mọi khi, và trước khi cậu kịp lên tiếng thì bà đã nhanh chóng nói:
“Tibor, tôi thật mừng là anh tới. Tôi vừa kể với Peter mọi chuyện về anh. Đúng thế, Peter cuối cùng cũng đã tìm thấy tôi!” Rồi bà gọi với vào phòng: “Peter, anh ấy đây rồi! Tibor đây rồi. Và với cả cây đàn nữa!”
Khi Tibor bước vào phòng, một người to con, cứng tuổi, chậm chạp trong chiếc sơ mi cổ bẻ nhạt màu đứng lên với một nụ cười. Ông ta bắt tay Tibor rất chặt và nói: “Ôi, tôi đã nghe bao nhiêu điều về anh. Eloise tin chắc anh sẽ thành một ngôi sao sáng.”
“Peter kiên trì lắm,” bà thì đang nói. “Tôi biết cuối cùng anh ấy sẽ tìm thấy tôi.”
“Không ai trốn được tôi,” Peter nói. Rồi ông đã kéo ghế cho Tibor, rót cho cậu một cốc sâm banh từ xô đá đặt trên tủ ly. “Nào, Tibor, hãy cùng chúng tôi uống mừng cuộc hội ngộ này.”
Tibor nhấp sâm banh, để ý thấy Peter đã tình cờ kéo cho cậu chiếc “ghế chơi đàn” mọi khi. Eloise đã mất tích đâu đó, và trong một lúc Tibor và Peter nói chuyện, cốc trong tay. Peter có vẻ hiền hậu và hỏi rất nhiều chuyện. Tibor đã sống thế nào hồi trẻ ở một nơi như Hungary? Có sốc nhiều không khi lần đầu đến phương Tây?
“Tôi ước gì mình biết chơi nhạc,” Peter nói. “Anh thật may mắn. Tôi rất muốn học. Nhưng có lẽ hơi muộn rồi, tôi nghĩ thế.”
“Ôi, ông chẳng bao giờ nói được là quá muộn,” Tibor nói.
“Anh nói phải. Đừng bao giờ nói quá muộn. Quá muộn luôn chỉ là cách bào chữa. Không, sự thực là, tôi là một người bận rộn, và tôi tự nhủ mình bận rộn đến nỗi không học được tiếng Pháp, không chơi được nhạc, không đọc được Chiến tranh và hòa bình. Mọi thứ tôi vẫn muốn làm từ trước đến nay. Eloise từng chơi nhạc hồi còn bé. Tôi nghĩ cô ấy đã kể với anh.”
“Có, bà có kể. Tôi biết là bà ấy có rất nhiều tài năng.”
“Ôi, chắc chắn là thế. Ai quen cô ấy cũng sẽ thấy là thế. Cô ấy có tâm hồn nhạy cảm. Cô ấy mới là người cần những giờ học ấy. Tôi, thì chỉ là đức ông Chuối Mắn.” Ông giơ hai bàn tay lên và cười. “Tôi rất muốn chơi dương cầm, nhưng anh còn làm gì được với bàn tay thế này? Rất thích hợp với công việc đào đất, và dòng họ tôi đã làm thế từ nhiều thế hệ. Nhưng còn cô ấy,” ông giơ cốc về phía cửa, “cô ấy thì có tâm hồn nhạy cảm.”
Cuối cùng, Eloise cũng hiện ra từ buồng ngủ trong váy dạ tiệc và rất nhiều trang sức.
“Peter, đừng làm Tibor phát chán,” bà nói. “Anh ấy không thích đánh gôn đâu.”
Peter giơ hai tay ra nhìn Tibor cầu khẩn. “Nói tôi nghe, Tibor. Tôi đã nói với anh một chữ nào về đánh gôn chưa?”
Tibor nói cậu cần đi thôi, nói cậu thấy mình đang làm vướng hai người sắp đi dùng bữa tối. Câu này vấp phải sự phản đối từ cả hai người, và Peter nói:
“Anh nhìn tôi xem. Trông tôi có giống mặc để ăn tối hay không?”
Và dù Tibor nghĩ ông mặc cực kỳ đàng hoàng, cậu cũng cười lên một tiếng cho lịch sự. Rồi Peter nói:
“Anh không thể đi mà chưa chơi gì cả. Tôi đã nghe kể bao nhiêu về tiếng đàn của anh.”
Bối rối, Tibor thực tế đã bắt đầu kéo khóa bao đàn, nhưng Eloise đã nghiêm khắc lên tiếng với một thái độ mới trong giọng nói:
“Tibor có lý. Đã muộn rồi. Nhà hàng trong thành phố này, họ không giữ bàn nếu không đến đúng giờ đâu. Peter, anh thay đồ đi. Có lẽ cạo râu nữa? Em sẽ tiễn Tibor đi. Em cần nói chuyện riêng với anh ấy.”
Trong thang máy, họ cười với nhau thân mật, nhưng không nói gì. Khi ra đến ngoài, họ thấy piazza đã thắp sáng cho buổi tối.Trẻ con quanh đây, đã quay lại sau kỳ nghỉ, đang đá bóng hoặc chạy đuổi nhau vòng quanh đài phun. Dân chúng đã đổ hết xuống quảng trường trong giờ đi dạo hoàng hôn, và tôi nghĩ tiếng nhạc từ quán tôi chắc đã vượt không gian đến tận chỗ họ đang đứng.
“Chà, thế đấy,” cuối cùng bà nói. “Anh ấy đã tìm thấy tôi, nên tôi nghĩ anh ấy xứng đáng với tôi.”
“Ông ấy là một người cực kỳ dễ mến,” Tibor nói. “Bà định quay lại Mỹ luôn à?”
“Vài ngày tới. Tôi nghĩ tôi sẽ quay lại.”
“Bà định kết hôn?”
“Tôi nghĩ thế.” Trong một lúc, bà nhìn cậu chăm chú, rồi quay đi. “Tôi nghĩ thế,” bà nhắc lại.
“Tôi chúc bà hạnh phúc. Ông ấy là một người tốt bụng. Cũng là người yêu âm nhạc. Đấy là điều quan trọng với bà.”
“Phải. Đấy là điều quan trọng.”
“Khi bà đang chuẩn bị vừa lúc nãy. Chúng tôi không nói chuyện chơi gôn, mà chuyện học nhạc.”
“Ồ thật à? Anh nói là cho anh ấy hay tôi?”
“Cả hai. Tuy thế, tôi không nghĩ sẽ có nhiều giáo viên ở Portland, Oregon có thể dạy được bà.”
Bà cười lên. “Tôi đã nói, rất khó cho những người như chúng ta.”
“Phải, tôi hiểu điều đó. Sau mấy tuần vừa rồi, tôi càng hiểu điều đó hơn bao giờ hết.” Rồi cậu thêm: “Miss Eloise, có điều này tôi cần nói trước khi chúng ta chia tay. Tôi sắp đi Amsterdam, ở đó tôi có việc làm trong một khách sạn lớn.”
“Anh sẽ trực khách sạn à?”
“Không. Tôi sẽ chơi trong ban nhạc thính phòng nhỏ trong phòng ăn tối khách sạn. Chúng tôi sẽ chơi cho khách nghe trong khi họ ăn.”
Cậu đang quan sát bà thật kỹ và thấy có gì đó lóe lên trong hai mắt bà, rồi lại tắt đi. Bà đặt tay lên cánh tay cậu và mỉm cười.
“Được rồi, thế thì chúc anh may mắn.” Rồi bà thêm. “Khách nghỉ ở đó. Họ sắp được hưởng vận may rồi.”
“Tôi hy vọng thế.”
Thêm một lúc nữa, họ vẫn đứng đấy cùng nhau, ngay sát chân luồng sáng từ mặt tiền khách sạn đổ xuống, cây cello to đùng giữa họ.
“Và cũng hy vọng,” cậu thêm, “bà sẽ thật hạnh phúc với ông Peter.”
“Tôi cũng hy vọng thế,” bà nói và lại cười. Rồi bà hôn lên má cậu và ôm nhanh cậu một cái. “Anh bảo trọng nhé,” bà nói.
Tibor cám ơn bà, rồi chưa kịp để ý thì cậu đã nhìn bà bước trở lại Excelsior.
Tibor rời thành phố chúng tôi sau đó chẳng bao lâu. Lần cuối cùng chúng tôi chạm cốc với cậu ta, cậu rõ ràng là hết sức biết ơn Giancarlo và Ernesto đã giúp tìm việc, cũng như chúng tôi đã làm bạn với cậu, nhưng tôi không thể không có cảm giác cậu có hơi ngạo với chúng tôi. Có vài người trong chúng tôi nghĩ thế, không chỉ riêng tôi, dù Giancarlo, theo bản tính anh, lúc này lại bênh Tibor, nói thằng bé chẳng qua đang phấn khích và căng thẳng về bước tiếp theo trong đời.
“Phấn khích à? Làm sao nó phấn khích được?” Ernesto nói. “Nó đã qua cả mùa hè nghe nói mình là một thiên tài. Làm ở khách sạn, đấy là một bước lùi. Ngồi đây nói chuyện với chúng ta, đấy cũng là một bước lùi. Nó là một thằng bé tốt lúc đầu hè. Nhưng sau những gì con mụ ấy gây ra cho nó, tôi rất mừng là chúng ta tống tiễn được nó đi.”
Như tôi đã nói, mọi chuyện này xảy ra đã bảy năm rồi. Giancarlo, Ernesto, tất cả ban từ hồi ấy trừ tôi và Fabian, họ đều đã tiến lên. Cho đến lúc bắt gặp cậu ta trên quảng trường mấy hôm trước, tôi đã không nghĩ đến đại danh cầm Hungary trẻ tuổi từ rất lâu rồi. Cậu ta không khó nhận ra lắm. Cậu ta đã lên cân, tất nhiên, và trông cổ đã mập hơn. Và cái lối cậu ta làm hiệu bằng ngón tay, gọi bồi bàn, có cái gì đó - cũng có thể tôi tưởng tượng - cái gì đó như sốt ruột, như khinh suất lại kèm theo thái độ có vẻ chua chát. Nhưng có thể nói thế là bất công. Suy cho cùng, tôi chỉ thoáng nhìn thấy cậu. Dù có thế, tôi cũng cảm giác cậu đã đánh mất nỗi háo hức muốn chứng tỏ mình hồi trẻ, và bộ dạng dè dặt cậu từng có hồi ấy. Nhưng chẳng có gì trên đời chỉ có mặt xấu, chắc anh sẽ nói vậy.
Tôi đã muốn tới đó nói chuyện với cậu, nhưng tới khi suất diễn hết thì cậu đã đi rồi. Biết đâu đấy, có thể cậu chỉ ở đây một buổi chiều. Cậu đang mặc vét - không thực sự sang trọng, chỉ là một bộ vét thường - nên có thể cậu đã tìm được việc làm bàn giấy ở đâu đó. Có thể cậu có công tác gì gần đây và qua thành phố chúng tôi chỉ để hồi nhớ chuyện cũ, ai biết được? Nếu cậu trở lại quảng trường, và nếu lúc ấy tôi không chơi nhạc, tôi sẽ tới trò chuyện với cậu ta.