Công tử Hàm trải giấy hoa tiên, cầm bút thảo một bài hịch liên quân đợi dùng sau khi hồi quốc. Ngày lạnh, Tô Tử đứng bên mài mực, lại ủ một bình nước ấm đem đặt vào lòng y rồi mới lùi về sau lặng lẽ nhìn.
Tô Tử không biết chữ, nhưng lờ mờ hiểu được người kia hành văn thực hảo. Chẳng biết người đã viết được bao lâu, hắn đã nhìn y được bao lâu.
Ánh trăng mỏng mà sáng, giống như châu quang xuyên qua lớp vỏ trai, dập dềnh trôi ngoài khe cửa. Đêm về khuya, văn tứ cũng bay đi đâu hết. Thư quyển lỏng tay rơi xuống đất, nam nhân trên bàn gục xuống ngủ vùi.
Tô Tử si ngốc nhìn công tử Hàm, ánh mắt lưu luyến đọng trên khuôn mặt đẹp mà giản dị. Ngày nào còn có nhau, chỉ mong đừng quá vội. Mê luyến cả đời này, không biết còn có thể nhìn được bao lâu.
Hắn tự tính toán thể lực của bản thân, chao, cố gắng lắm thì hầu công tử đi được tới biên giới Tiễn quốc. Nếu thuận lợi hội họp cùng tử sĩ, biết đâu còn có thể theo công tử về Chương. Còn như có biến cố gì, cũng chẳng còn đường quay về làm thanh quan như ngày xưa.
Đương suy nghĩ mông lung, trong lồng ngực hàn khí bỗng xông lên nhức buốt, thiếu niên vội vàng nằm xuống dùng tay đè tiếng ho khan. Gói thịt hươu ban nãy từ trong áo rơi ra, vài miếng văng trên mặt đất. Hắn tiếc của lại nhặt lên thổi cho sạch bụi, lòng thầm nhủ “Phải ăn mới mong hết bệnh,” rồi bỏ vào miệng chậm rãi nhai. Mới được vài canh giờ, chẳng ngờ đầu lưỡi đã còn toàn chua xót.
Trong màn đêm yên tĩnh, Tô Tử quỳ rạp trên mặt đất, tẩn mẩn nhấm nuốt, thỉnh thoảng lại hục hặc ho khan. Lúc ngẩng lên hai mắt lệ đã ươm đầy. Cánh mũi phập phồng sụt sịt lấy hơi, nam nhân đang ngủ trên bàn bỗng mờ mịt gọi một tiếng “A…”, hắn vội vàng lấy tay áo quệt đi rồi đến bên người nọ.
Bấc đèn dài quá mà dầu thì sắp cạn, nơi ngọn lửa đang cháy nở ra những chấm tròn đỏ quạch xoay quanh tim đèn như đóa hoa. Bỗng đâu một tiếng “Ba!” vang lên, hoa đèn nổ, phụt sáng rồi lụi tàn. Trong ánh trăng mờ ảo, bóng đồ đạc rung rung như dáng người chạy loạn. Tô Tử thêm dầu. Một canh giờ hoa đèn nổ hai ba bận, công tử Hàm giật mình tỉnh dậy, trán ướt đẫm mồ hôi, lại cầm bút lên soạn hịch.
Tô Tử khuyên y nghỉ tạm, chẳng những bị cự tuyệt, y lại còn bắt hắn đi nằm. Hắn giả bộ ngoan ngoãn lùi về buồng trong, đứng sau bức rèm nhìn nam nhân chăm chú viết. Cho đến lúc y lảo đảo gục xuống bàn lần nữa mới rón rén lẻn về bên cạnh. Rồi dường như sợ quấy nhiễu y, hắn ngây ngốc ngồi ở bên bàn, cầm cây kéo khêu bấc đèn vừa cháy, lụi cụi cắt tâm.
Thiếu niên cắt thật tỉ mẩn nhẹ nhàng, như sợ động mạnh đèn sẽ tắt. Trong ánh sáng le lói, bóng hắn in lên tường cổ quái nhỏ gầy. Năm ngón tay như cánh hoa lan vươn ra gần đốm lửa, giống như ngay sau đó sẽ bị thiêu trụi hết, hóa thành một giọt lệ buông.
Có tiếng thở dài trong gió đông se. Một nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng.
Một chút lệ nhòa trong phút hôn nhau.
Trăng lạnh đêm thâu, ngồi cắt hoa đèn, mong người yên giấc ngủ.
*
“May mà không nặng lắm!” Tô Tử cười nói, buộc túi mầm cát cánh vào yên ngựa, “Vả lại cũng không phải ta thồ. Ngựa thêm nhiêu đây không có gì đáng ngại…” Lời vừa dứt, đột nhiên phục xuống mình ngựa, không nhịn được ho lên.
“Sao lại ho thành như vậy?” Công tử Hàm gặng hỏi, giọng có chút đau lòng. Lý Nhiễm Cầu nghe thấy lập tức sầm mặt xuống.
Tô Tử lắc đầu: “Hôm qua dầm mưa, không cẩn thận nhiễm lạnh.”
Trận mưa đêm qua đã trì hoãn hành trình, mưa ngớt mới tiếp tục lên đường ra trạm dịch. Đoạn đầu một mạch rừng núi hoang vu không nhiều trạm gác, nhưng nếu sau đó phải đi ngang quán trọ thì cũng chưa nói trước được tình hình.
Ba người rong ruổi theo đường nhỏ, đường đi mỗi lúc một dốc, tiến vào triền núi hai bên đều là đất ẩm. Đêm qua mưa lớn, đá lở từ đỉnh núi lăn xuống không ít, lại thêm mấy hố nước nhìn chẳng rõ nông sâu.
Lý Nhiễm Cầu thấy địa thế bất lợi bèn lên tiếng nhắc nhở hai người phải cẩn thận đề phòng. Tô Tử không rành cưỡi ngựa, đi được một đoạn, thanh mã (ngựa ô) dưới thân đột nhiên nghiêng ngả, lảo đảo sụp xuống đám bùn. Công tử Hàm nhanh tay kéo Tô Tử lên, hắn không quên túm theo túi mầm cát cánh. Con ngựa sa lầy, bùn đất bắn lên nhuộm hai người một thân nhớp bẩn.
Lý Nhiễm Cầu xuống ngựa xem xét tình hình, giây lát ngẩng lên: “Ngựa gẫy chân rồi, không thể tiếp tục cưỡi.” Nói xong trừng mắt lườm Tô Tử.
Công tử Hàm thở dài: “Đường đi lầy lội xóc nảy, không nên trách A Tử. Con ngựa này cũng thật đáng tiếc.” Đoạn xốc Tô Tử lên ngựa với mình, “Ngươi vốn nhẹ, cưỡi chung với ta không vấn đề gì.”
Dứt lời liếc sang Lý Nhiễm Cầu, ra chiều đừng nói gì thêm. Ba người hai ngựa tiếp tục lên đường. Đi được hồi lâu, bỗng nghe đằng sau ngựa hí từng phiên, quay đầu nhìn lại, đúng là thanh mã bị thương đã ráng sức vùng lên khỏi hố, tập tễnh chạy theo một đoạn.
“Loài súc sanh cũng có lòng trung như vậy, thực làm người ta cảm động.” Nam nhân phía sau Tô Tử thở dài, “Nhưng đã như vậy còn cố đuổi theo, cuối cùng chỉ là gánh nặng thôi.”
Thiếu niên nghe y nói lời này, trong lòng đột nhiên thấp thỏm.
Công tử Hàm quay sang Lý Nhiễm Cầu, nhẹ giọng phẩy tay: “Đi. Cứ để nó chạy.”
.
Chú thích:
★ Chất tử: Chất 质 có nghĩa là cầm cố, thay thế. Chất tử hay Nhân chất là người được đem ra thế chấp, làm con tin. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, các nước chư hầu để tỏ lòng tín nhiệm nhau thường phái nhân vật trọng yếu của nước mình sang cư trú tại nước đối phương để làm vật thế. Người bị phái đi thông thường là con vua của nước chư hầu.
Nếu như trong hai nước một mạnh một yếu, thì nước yếu sẽ gửi Chất tử đến nước mạnh, còn nước mạnh không phải gửi người sang. Đó là trường hợp Tử Sở, cha của Tần Thủy Hoàng, sang làm con tin nước Triệu. Ở đây Tiễn mạnh, Chương yếu, Thế tử Hàm con của Chương Quốc Công phải sang Tiễn làm Chất tử.
★ Công tử : Ở thời kỳ này, con trưởng của vua chư hầu được gọi là Thế tử, con thứ được gọi là công tử. Về sau người ta cũng gọi con cái quan lại là công tử, rồi dần dần con nhà giàu có cũng gọi công tử nốt. Con gái những nhà này ban đầu gọi là “nữ công tử,” các bạn đừng ngạc nhiên:)) Ở đây danh xưng “công tử” của Hàm là để tránh dòm ngó trên đường bỏ trốn. Hàm là con trai duy nhất của Chương Quốc Công, vì thế ở Chương sẽ được gọi là Thế tử Hàm.
★ Thực khách: Các công tử gây uy tín và thanh thế bằng việc nuôi thực khách trong phủ. Số thực khách ăn ngủ có khi đông đến hàng ngàn. Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận Mạnh Thường Quân, Bình Nguyên Quân và Tín Lăng Quân đều có ba nghìn thực khách trong nhà. Họ đến ở nhờ một thời gian và có thể ra đi, không có sự ràng buộc như các thủ hạ dưới quyền các vị công tử này. Đối với các công tử, việc nuôi thực khách hoàn toàn tự nguyện và vô điều kiện, không hề đòi hỏi những người khách phải đáp ứng điều gì mới được đến ăn ở nhà mình. Thực khách trong nhà các công tử, cũng như các nhà quyền quý khác, có ăn ngon thì đến, không ăn ngon thì đi; hoặc chủ đắc sủng thì tới, chủ thất sủng thì bỏ.
Tuy nhiên không phải tất cả các thực khách đều sống ăn bám và bạc bẽo như vậy. Nhiều thực khách trở thành mạng lưới tình báo hữu hiệu cho các công tử Mạnh Thường Quân, Tín Lăng Quân. Người có nhiều thực khách ngưỡng vọng và trung thành hơn cả là Ngụy Vô Kỵ và Triệu Thắng. Không thấy sử chép những trường hợp thực khách bỏ các vị công tử này đi khi họ gặp khó khăn, thậm chí với Nguỵ Vô Kỵ, hàng ngàn thực khách còn khảng khái đầu quân ra mặt trận đánh Tần, liều chết báo đáp.
★ Kê minh cẩu đạo: Bắt chước tiếng gà gáy rồi giả làm chó vào ăn trộm. Môn khách của Mạnh Thường Quân giả làm chó lẻn vào trộm áo lông chồn đem tặng Yến phi, Yến phi cầu vua Tần thả Mạnh Thường Quân về Tề. Sợ vua đổi ý, Mạnh Thường Quân lập tức rời khỏi nước Tần, nhưng khi qua Hàm Cốc Quan thì gà còn chưa gáy sáng, cửa thành chưa mở. Một môn khách khác thấy vậy liền bắt chước tiếng gà gáy, lập tức gà ở xung quanh cũng vỗ cánh gáy theo. Cửa thành mở ra, Mạnh Thường Quân chạy thoát trước khi quân Tần Chiêu Vương đuổi kịp. Đời sau dùng thành ngữ này chỉ kỹ năng, hành vi thấp hèn.
★ Đăng hoa bất kham tiễn: Khi chưa có đèn dầu hỏa, người xưa dùng dầu phụng hoặc dầu lạc đổ vào một đĩa nhỏ sâu lòng, xoắn vải lại thành sợi dây thả vào làm tim đèn. Tim đèn gần như được nhúng hoàn toàn vào dầu, chỉ có một đầu gát trên vành đĩa. Đèn thắp lâu thì “tim lụn dầu hao,” lúc đĩa dầu cạn, nơi ngọn lửa cháy nở ra những chấm tròn đỏ quạch, xoay quanh tim đèn như đóa hoa mà người ta gọi là hoa đèn. Khi hết dầu, trước khi tắt, đèn phụt sáng rồi lụn hẳn.
Đăng hoa ở đây không phải đèn lồng mà chính là “hoa đèn.” Vương Chất đời Tống làm bài thơ họa đăng hoa, đại ý là bấc đèn sau khi cháy hết sẽ kết thành hình hoa, trên đời chỉ có “hoa” này không phụ thuộc quy luật tự nhiên. Trong đêm mưa giông gió giật, trăm hoa đã dập nát, riêng hoa đèn vẫn đem xuân sắc lưu lại nhân gian.
Đời Minh, Phùng Tiểu Thanh viết có câu: “Lộ yên tiệm sấu tiễn thanh tiểu.” Tiễn là cắt. Người xưa thắp đèn dầu, thỉnh thoảng dùng kéo cắt bấc đèn đã cháy cho đèn sáng. Ý câu thơ này là bấc đèn đã lụi nên tiếng kéo nghe không còn rõ nữa. Trong Lý Thương Ẩn cũng tự hỏi: “Hà đương cộng tiễn Tây song chúc?” – bao giờ mới được cùng nhau ngồi cắt hoa đèn dưới song Tây? Lý Thương Ẩn chong đèn kể chuyện, , tất cả đều ám chỉ kiếp phù sinh như mộng, ngày vui ngắn chẳng tày gang, phải nhờ đến đêm dài, tận dụng hết thời gian có thể.
Tô Tử ngồi cắt hoa đèn, sơ sơ là như thế. Còn tên truyện tại sao là Đăng hoa bất kham tiễn – hoa đèn không thể cắt, thì xin đợi đến Vĩ thanh.
Nho sĩ này là chủ nhân nhà cỏ ngoài miệng giếng, cũng chính là mật thám nằm vùng của Chương quốc, y lại gần trình lên tin tức chim đưa thư mang về. Công tử Hàm bày thư tín lên bàn, trong thư tóm lược tình hình hiện thời ở Chương, kế đó là tin ba ngày sau, mười tử sĩ sẽ đợi ở trạm dịch bên ngoài biên giới Tiễn quốc, hộ tống Thế tử trở về.
“Trạm dịch cách nơi này gần sáu mươi dặm, từ đây đến đó đã sắp xếp một mật thám khác, Thế tử đến đó nghỉ chân, độ một hai ngày là có thể hồi Chương.” Nho sĩ áo trắng từ tốn giải thích, bất giác nhìn thấy bọc thuốc Tô Tử đem về: “Vừa rồi quân binh đến điều tra xem ai mua thuốc trị thương. Cũng may Tô công tử tự mình đi mua, nếu tôi đi chắc đã sinh chuyện, phiền toái đến Thế tử.”
Tô Tử nghe vậy, thè lưỡi cười một cái.
Lý Nhiễm Cầu đứng bên cạnh thấy nho sĩ cũng hùa theo khen ngợi, lòng càng thêm phiền muộn, bèn xin lên miệng giếng hít thở khí trời. Không bao lâu nho sĩ cũng rời đi, Tô Tử lại nhu thuận nằm trong lòng công tử Hàm, làm lò sưởi giữ ấm cho y đọc sách duyệt thư.
Được một thời gian, hai người đều có phần mệt mỏi. Tô Tử đứng dậy, trong bụng bỗng sôi ùng ục, đúng là cực đói. Hắn vội quay đi che dấu, lại bị công tử Hàm lấy tay đặt lên bụng.
“Tưởng ta không nhận ra sao?”
Trời đang rét đậm, thâm sơn cùng cốc lương thực thiếu thốn, tất cả đồ ăn trước hết phải dành cho Thế tử, sau đó đến hộ vệ Lý Nhiễm Cầu bổ sung thể lực, phần còn lại ít ỏi không được bao nhiêu.
Tô Tử dường như chẳng hề để tâm, cười rộ lên: “Ếch nhái bụng rỗng kêu to! Thực khách bụng no cũng kêu, công tử nếu bị cái bụng của thực khách lừa thì sau này thượng triều làm sao phân biệt được đâu là trung đâu là gian?”
Nam tử cuộn thư quyển lại, ôn nhu nhìn hắn: “Cái miệng trơn thật, so với đồ ăn còn nhiều dầu hơn!”
Nói xong liền cúi người hôn lên môi Tô Tử, đoạn lấy từ trong áo ra cái bình nhỏ, đổ ra hai viên tiểu hoàn.
“Còn mấy viên đại bổ đan, dù không xua được cơn đói nhưng cũng làm dịu tinh thần, ta xem ngươi có chút uể oải. Ban ngày gấp rút lên đường, cố gắng đừng tụt lại phía sau mới tốt.” Nói xong cứng rắn nhét vào lòng bàn tay Tô Tử.
Thiếu niên nhìn viên thuốc trên tay, run run nói: “Thuốc quý như thế, người cho ta, ta lại tiếc rẻ không ăn thôi. Đem bán lấy tiền, có khi còn đổi được mấy…”
Lời vừa nói ra, công tử Hàm đột ngột hôn lên bờ môi hắn, lấy đầu lưỡi đẩy thuốc vào cuống họng, lại nắm lấy cổ bắt phải nuốt vào.
Tô Tử ban đầu còn thấy xót xa, sau đó nhãn thần hơi hơi sáng lên, khóe miệng rưng rưng, cuối cùng hóa thành một nụ cười, như sương tan hoa nở.
Sáng hôm sau, ba người cưỡi ngựa rời khỏi nhà nho sĩ, theo đường nhỏ hướng về biên giới phía Đông. Đám người truy bắt dường như đã chạy trước khá xa, dọc đường đi vì thế mà sóng yên gió lặng. Nhưng đột nhiên trời về chiều rào rạt đổ mưa, ba người toàn thân ướt sũng. Dạ dày trống rỗng của Tô Tử trở đau, tụt lại cuối cùng, trộm run rẩy như lá héo cuối đông.
May mà chỗ ở của mật thám cũng không khó kiếm, trước khi giông gió nổi lên bọn họ đã được đón vào nhà. Mật thám tạm thời lấy săn bắn làm kế sinh nhai, lương thực so với trấn trước dồi dào hơn hẳn. Tô Tử lau khô người xong bèn đi xả thịt một miếng đùi hươu.
Công tử Hàm cùng mật thám đi vào mật thất, Lý Nhiễm Cầu ở nhà kho phía sau cho ngựa ăn, Tô Tử một mình ngồi trong phòng nhỏ bốn phía gió lùa, đói đến lả đi. Hắn xắn vài miếng ăn cầm hơi, sau đó dùng dao nhỏ tỉ mẩn lóc thịt hươu đem bọc vào một mảnh khăn sạch sẽ.
Đương tập trung tinh thần, Lý Nhiễm Cầu bỗng nhiên gõ cửa, cao giọng gọi hắn đi ra. Tuy biết không phải chuyện hay, nhưng Tô Tử vẫn lau khô mặt dao, gói ghém thịt hươu cẩn thận rồi mới đi ra cửa.
Bên ngoài mưa đông tầm tã, hiên nhà lộp độp mưa rơi, thanh âm nghe đến nao lòng.
Lý Nhiễm Cầu đứng trong bóng tối, không rõ có biểu tình gì, Tô Tử chỉ nghe hắn hỏi: “Buổi sáng rời đi ngươi lén mang theo một gói to, đó là cái gì?”
Tô Tử trả lời: “Là mầm cát cánh, khi nào tiện có thể giúp tướng quân bốc thuốc.” Hắn nhấn mạnh hai chữ cuối cùng, ngừng một thoáng lại nói: “Của nả trong nhà mật thám thực khách chưa bao giờ có bụng dạ gì cả. Tướng quân yên tâm.”
Lý Nhiễm Cầu có chút bất ngờ, hậm hừ mấy tiếng rồi trầm giọng nói: “Có biết ngươi là gánh nặng không?”
Tô Tử nghe hắn hỏi, trong lòng vô cùng kinh ngạc: “Thực khách cho đến giờ chưa từng làm chậm hành trình, chưa từng để Thế tử cùng tướng quân hao tâm tổn sức. Lương thực thuốc men thực khách cũng tận lực tìm về, không dám ăn không ngồi rồi, tại sao lại là gánh nặng?”
Lý Nhiễm Cầu chẳng nói chẳng rằng chộp lấy tay hắn bóp mạnh, Tô Tử cắn răng chịu đau ngồi sụp xuống. Lý Nhiễm Cầu cười lạnh: “Khi còn ở phủ Chất tử đã bệnh này bệnh nọ, dù Thế tử làm như không thấy, ngươi cũng nên tự ngộ ra. Phường tiểu nhân yếu ớt tham sống sợ chết sao có thể giúp ngài làm nên đại sự!”
“Thực khách là tiểu nhân.” Tô Tử nén nhịn đau. “Kê minh cẩu đạo so với tôi có lẽ còn hữu dụng hơn. Nhưng tiểu nhân cũng có nghĩa khí. Mặc dù tôi lấy thân báo ơn công tử, công tử lại chưa bao giờ đối xử với tôi như nam thiếp, còn cho tôi danh phận thực khách. Ơn ấy thực khách không quên, nhất định đáp đền.”
Lý Nhiễm Cầu lạnh lùng: “Hiện giờ ly khai chính là báo đáp tốt nhất!”
Nghe xong lời này, Tô Tử lược thẳng thân mình nhìn lên: “Nếu có ngày thực khách không đi được nữa, lúc đó sẽ chủ động giã từ. Nhưng một khi còn có thể đuổi kịp thì nhất định không ly khai Thế tử!”
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Rốt cuộc trời cũng tạnh mưa.
Công tử Hàm trải giấy hoa tiên, cầm bút thảo một bài hịch liên quân đợi dùng sau khi hồi quốc. Ngày lạnh, Tô Tử đứng bên mài mực, lại ủ một bình nước ấm đem đặt vào lòng y rồi mới lùi về sau lặng lẽ nhìn.
Tô Tử không biết chữ, nhưng lờ mờ hiểu được người kia hành văn thực hảo. Chẳng biết người đã viết được bao lâu, hắn đã nhìn y được bao lâu.
Ánh trăng mỏng mà sáng, giống như châu quang xuyên qua lớp vỏ trai, dập dềnh trôi ngoài khe cửa. Đêm về khuya, văn tứ cũng bay đi đâu hết. Thư quyển lỏng tay rơi xuống đất, nam nhân trên bàn gục xuống ngủ vùi.
Tô Tử si ngốc nhìn công tử Hàm, ánh mắt lưu luyến đọng trên khuôn mặt đẹp mà giản dị. Ngày nào còn có nhau, chỉ mong đừng quá vội. Mê luyến cả đời này, không biết còn có thể nhìn được bao lâu.
Hắn tự tính toán thể lực của bản thân, chao, cố gắng lắm thì hầu công tử đi được tới biên giới Tiễn quốc. Nếu thuận lợi hội họp cùng tử sĩ, biết đâu còn có thể theo công tử về Chương. Còn như có biến cố gì, cũng chẳng còn đường quay về làm thanh quan như ngày xưa.
Đương suy nghĩ mông lung, trong lồng ngực hàn khí bỗng xông lên nhức buốt, thiếu niên vội vàng nằm xuống dùng tay đè tiếng ho khan. Gói thịt hươu ban nãy từ trong áo rơi ra, vài miếng văng trên mặt đất. Hắn tiếc của lại nhặt lên thổi cho sạch bụi, lòng thầm nhủ “Phải ăn mới mong hết bệnh,” rồi bỏ vào miệng chậm rãi nhai. Mới được vài canh giờ, chẳng ngờ đầu lưỡi đã còn toàn chua xót.
Trong màn đêm yên tĩnh, Tô Tử quỳ rạp trên mặt đất, tẩn mẩn nhấm nuốt, thỉnh thoảng lại hục hặc ho khan. Lúc ngẩng lên hai mắt lệ đã ươm đầy. Cánh mũi phập phồng sụt sịt lấy hơi, nam nhân đang ngủ trên bàn bỗng mờ mịt gọi một tiếng “A…”, hắn vội vàng lấy tay áo quệt đi rồi đến bên người nọ.
Bấc đèn dài quá mà dầu thì sắp cạn, nơi ngọn lửa đang cháy nở ra những chấm tròn đỏ quạch xoay quanh tim đèn như đóa hoa. Bỗng đâu một tiếng “Ba!” vang lên, hoa đèn nổ, phụt sáng rồi lụi tàn. Trong ánh trăng mờ ảo, bóng đồ đạc rung rung như dáng người chạy loạn. Tô Tử thêm dầu. Một canh giờ hoa đèn nổ hai ba bận, công tử Hàm giật mình tỉnh dậy, trán ướt đẫm mồ hôi, lại cầm bút lên soạn hịch.
Tô Tử khuyên y nghỉ tạm, chẳng những bị cự tuyệt, y lại còn bắt hắn đi nằm. Hắn giả bộ ngoan ngoãn lùi về buồng trong, đứng sau bức rèm nhìn nam nhân chăm chú viết. Cho đến lúc y lảo đảo gục xuống bàn lần nữa mới rón rén lẻn về bên cạnh. Rồi dường như sợ quấy nhiễu y, hắn ngây ngốc ngồi ở bên bàn, cầm cây kéo khêu bấc đèn vừa cháy, lụi cụi cắt tâm.
Thiếu niên cắt thật tỉ mẩn nhẹ nhàng, như sợ động mạnh đèn sẽ tắt. Trong ánh sáng le lói, bóng hắn in lên tường cổ quái nhỏ gầy. Năm ngón tay như cánh hoa lan vươn ra gần đốm lửa, giống như ngay sau đó sẽ bị thiêu trụi hết, hóa thành một giọt lệ buông.
Có tiếng thở dài trong gió đông se. Một nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng.
Một chút lệ nhòa trong phút hôn nhau.
Trăng lạnh đêm thâu, ngồi cắt hoa đèn, mong người yên giấc ngủ.
*
“May mà không nặng lắm!” Tô Tử cười nói, buộc túi mầm cát cánh vào yên ngựa, “Vả lại cũng không phải ta thồ. Ngựa thêm nhiêu đây không có gì đáng ngại…” Lời vừa dứt, đột nhiên phục xuống mình ngựa, không nhịn được ho lên.
“Sao lại ho thành như vậy?” Công tử Hàm gặng hỏi, giọng có chút đau lòng. Lý Nhiễm Cầu nghe thấy lập tức sầm mặt xuống.
Tô Tử lắc đầu: “Hôm qua dầm mưa, không cẩn thận nhiễm lạnh.”
Trận mưa đêm qua đã trì hoãn hành trình, mưa ngớt mới tiếp tục lên đường ra trạm dịch. Đoạn đầu một mạch rừng núi hoang vu không nhiều trạm gác, nhưng nếu sau đó phải đi ngang quán trọ thì cũng chưa nói trước được tình hình.
Ba người rong ruổi theo đường nhỏ, đường đi mỗi lúc một dốc, tiến vào triền núi hai bên đều là đất ẩm. Đêm qua mưa lớn, đá lở từ đỉnh núi lăn xuống không ít, lại thêm mấy hố nước nhìn chẳng rõ nông sâu.
Lý Nhiễm Cầu thấy địa thế bất lợi bèn lên tiếng nhắc nhở hai người phải cẩn thận đề phòng. Tô Tử không rành cưỡi ngựa, đi được một đoạn, thanh mã (ngựa ô) dưới thân đột nhiên nghiêng ngả, lảo đảo sụp xuống đám bùn. Công tử Hàm nhanh tay kéo Tô Tử lên, hắn không quên túm theo túi mầm cát cánh. Con ngựa sa lầy, bùn đất bắn lên nhuộm hai người một thân nhớp bẩn.
Lý Nhiễm Cầu xuống ngựa xem xét tình hình, giây lát ngẩng lên: “Ngựa gẫy chân rồi, không thể tiếp tục cưỡi.” Nói xong trừng mắt lườm Tô Tử.
Công tử Hàm thở dài: “Đường đi lầy lội xóc nảy, không nên trách A Tử. Con ngựa này cũng thật đáng tiếc.” Đoạn xốc Tô Tử lên ngựa với mình, “Ngươi vốn nhẹ, cưỡi chung với ta không vấn đề gì.”
Dứt lời liếc sang Lý Nhiễm Cầu, ra chiều đừng nói gì thêm. Ba người hai ngựa tiếp tục lên đường. Đi được hồi lâu, bỗng nghe đằng sau ngựa hí từng phiên, quay đầu nhìn lại, đúng là thanh mã bị thương đã ráng sức vùng lên khỏi hố, tập tễnh chạy theo một đoạn.
“Loài súc sanh cũng có lòng trung như vậy, thực làm người ta cảm động.” Nam nhân phía sau Tô Tử thở dài, “Nhưng đã như vậy còn cố đuổi theo, cuối cùng chỉ là gánh nặng thôi.”
Thiếu niên nghe y nói lời này, trong lòng đột nhiên thấp thỏm.
Công tử Hàm quay sang Lý Nhiễm Cầu, nhẹ giọng phẩy tay: “Đi. Cứ để nó chạy.”
.
Chú thích:
★ Chất tử: Chất 质 có nghĩa là cầm cố, thay thế. Chất tử hay Nhân chất là người được đem ra thế chấp, làm con tin. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, các nước chư hầu để tỏ lòng tín nhiệm nhau thường phái nhân vật trọng yếu của nước mình sang cư trú tại nước đối phương để làm vật thế. Người bị phái đi thông thường là con vua của nước chư hầu.
Nếu như trong hai nước một mạnh một yếu, thì nước yếu sẽ gửi Chất tử đến nước mạnh, còn nước mạnh không phải gửi người sang. Đó là trường hợp Tử Sở, cha của Tần Thủy Hoàng, sang làm con tin nước Triệu. Ở đây Tiễn mạnh, Chương yếu, Thế tử Hàm con của Chương Quốc Công phải sang Tiễn làm Chất tử.
★ Công tử : Ở thời kỳ này, con trưởng của vua chư hầu được gọi là Thế tử, con thứ được gọi là công tử. Về sau người ta cũng gọi con cái quan lại là công tử, rồi dần dần con nhà giàu có cũng gọi công tử nốt. Con gái những nhà này ban đầu gọi là “nữ công tử,” các bạn đừng ngạc nhiên:)) Ở đây danh xưng “công tử” của Hàm là để tránh dòm ngó trên đường bỏ trốn. Hàm là con trai duy nhất của Chương Quốc Công, vì thế ở Chương sẽ được gọi là Thế tử Hàm.
★ Thực khách: Các công tử gây uy tín và thanh thế bằng việc nuôi thực khách trong phủ. Số thực khách ăn ngủ có khi đông đến hàng ngàn. Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận Mạnh Thường Quân, Bình Nguyên Quân và Tín Lăng Quân đều có ba nghìn thực khách trong nhà. Họ đến ở nhờ một thời gian và có thể ra đi, không có sự ràng buộc như các thủ hạ dưới quyền các vị công tử này. Đối với các công tử, việc nuôi thực khách hoàn toàn tự nguyện và vô điều kiện, không hề đòi hỏi những người khách phải đáp ứng điều gì mới được đến ăn ở nhà mình. Thực khách trong nhà các công tử, cũng như các nhà quyền quý khác, có ăn ngon thì đến, không ăn ngon thì đi; hoặc chủ đắc sủng thì tới, chủ thất sủng thì bỏ.
Tuy nhiên không phải tất cả các thực khách đều sống ăn bám và bạc bẽo như vậy. Nhiều thực khách trở thành mạng lưới tình báo hữu hiệu cho các công tử Mạnh Thường Quân, Tín Lăng Quân. Người có nhiều thực khách ngưỡng vọng và trung thành hơn cả là Ngụy Vô Kỵ và Triệu Thắng. Không thấy sử chép những trường hợp thực khách bỏ các vị công tử này đi khi họ gặp khó khăn, thậm chí với Nguỵ Vô Kỵ, hàng ngàn thực khách còn khảng khái đầu quân ra mặt trận đánh Tần, liều chết báo đáp.
★ Kê minh cẩu đạo: Bắt chước tiếng gà gáy rồi giả làm chó vào ăn trộm. Môn khách của Mạnh Thường Quân giả làm chó lẻn vào trộm áo lông chồn đem tặng Yến phi, Yến phi cầu vua Tần thả Mạnh Thường Quân về Tề. Sợ vua đổi ý, Mạnh Thường Quân lập tức rời khỏi nước Tần, nhưng khi qua Hàm Cốc Quan thì gà còn chưa gáy sáng, cửa thành chưa mở. Một môn khách khác thấy vậy liền bắt chước tiếng gà gáy, lập tức gà ở xung quanh cũng vỗ cánh gáy theo. Cửa thành mở ra, Mạnh Thường Quân chạy thoát trước khi quân Tần Chiêu Vương đuổi kịp. Đời sau dùng thành ngữ này chỉ kỹ năng, hành vi thấp hèn.
★ Đăng hoa bất kham tiễn: Khi chưa có đèn dầu hỏa, người xưa dùng dầu phụng hoặc dầu lạc đổ vào một đĩa nhỏ sâu lòng, xoắn vải lại thành sợi dây thả vào làm tim đèn. Tim đèn gần như được nhúng hoàn toàn vào dầu, chỉ có một đầu gát trên vành đĩa. Đèn thắp lâu thì “tim lụn dầu hao,” lúc đĩa dầu cạn, nơi ngọn lửa cháy nở ra những chấm tròn đỏ quạch, xoay quanh tim đèn như đóa hoa mà người ta gọi là hoa đèn. Khi hết dầu, trước khi tắt, đèn phụt sáng rồi lụn hẳn.
Đăng hoa ở đây không phải đèn lồng mà chính là “hoa đèn.” Vương Chất đời Tống làm bài thơ họa đăng hoa, đại ý là bấc đèn sau khi cháy hết sẽ kết thành hình hoa, trên đời chỉ có “hoa” này không phụ thuộc quy luật tự nhiên. Trong đêm mưa giông gió giật, trăm hoa đã dập nát, riêng hoa đèn vẫn đem xuân sắc lưu lại nhân gian.
Đời Minh, Phùng Tiểu Thanh viết có câu: “Lộ yên tiệm sấu tiễn thanh tiểu.” Tiễn là cắt. Người xưa thắp đèn dầu, thỉnh thoảng dùng kéo cắt bấc đèn đã cháy cho đèn sáng. Ý câu thơ này là bấc đèn đã lụi nên tiếng kéo nghe không còn rõ nữa. Trong Lý Thương Ẩn cũng tự hỏi: “Hà đương cộng tiễn Tây song chúc?” – bao giờ mới được cùng nhau ngồi cắt hoa đèn dưới song Tây? Lý Thương Ẩn chong đèn kể chuyện, , tất cả đều ám chỉ kiếp phù sinh như mộng, ngày vui ngắn chẳng tày gang, phải nhờ đến đêm dài, tận dụng hết thời gian có thể.
Tô Tử ngồi cắt hoa đèn, sơ sơ là như thế. Còn tên truyện tại sao là Đăng hoa bất kham tiễn – hoa đèn không thể cắt, thì xin đợi đến Vĩ thanh.