Đời người thịnh suy đã định, năm tháng ảo diệt khôn lường. Có lẽ Ngài sống chỉ là vì mơ trọn giấc mơ nửa đời trước, thành toàn một câu chuyện không có kết cuộc. Những nguyên nhân khác đều không phải.
Đời người chính là một chuyến du lịch, dù đeo tay nải mải miết phiêu bạt trên đường, hay có chỗ ở yên thân, đều là đang nhàn du. Thời gian xưa nay đều không dừng lại, dẫu chúng ta nấp ở một chốn thế ngoại đào nguyên không có rối ren, cũng vẫn phải xem hết hoa xuân trăng thu, phải trải qua sinh lão bệnh tử. Một ngày kia, phồn hoa cuối cùng sẽ trôi xa, một ngày kia, chúng ta đều sẽ cô độc già đi. Ngắm xong mùa xuân muôn hồng ngàn tía cuối cùng trong sinh mệnh, hạt bụi trần nhỏ bé này nên trở về chốn nào?
Biển người trôi nổi, ngày ngày đều có nhiều cuộc gặp gỡ và tương phùng như thế, vì sao người đi lướt qua nhau lại là bạn và tôi? Ngày ngày đều có nhiều duyên phận ước hẹn như thế, vì sao người chờ đợi ngày này qua ngày nọ vẫn là bạn và tôi. Chúng ta luôn mong mỏi người khác đến cứu rỗi, lại không biết con người chỉ có tự cứu mình rồi mới có thể cứu người. Chúng ta luôn ở trong biển biếc của mình, kể chuyện nương dâu của người ta, lại không biết có một ngày, nương dâu của mình vừa khéo là biển biếc của người khác. Ván cờ nhân sinh này, nếu cố chấp phải đi tiếp theo cách nghĩ của mình, kết quả sẽ là cả ván đều thua, non sông đều mất.
Khi phiêu bạt, tôi thường nhớ đến Tsangyang Gyatso. Trước giờ tôi không mong mỏi vị tình tăng nhu nhược này có thể cứu rỗi tôi từ hồng trần, vượt qua sông nước mênh mang của đời người, cập bến bờ bên kia sen nở. Vì tôi biết, Ngài và chúng ta không có khác biệt. Từ sau khi Ngài rơi vào phàm trần, chọn lựa tình yêu, tôi đã biết Ngài không quay về được nữa. Trong thơ ca thắm thiết cảm động lòng người của Ngài, tôi đã đọc ra kiếp trước đời này của Ngài, một người vì Phật mà say mê hông trần, lại định sẵn phải gìn giữ trọn đời vì tình yêu. Ngài là Phật sống, ai có thể phê duyệt số mệnh cho Ngài, nói với Ngài đến cuối cùng phải chọn lựa tư thế nào mới sống được thật tốt chốn nhân gian khói lửa?
Nếu nói quãng thời gian trước mười lăm tuổi của Tsangyang Gyatso là kiếp trước của Ngài, thế thì quãng thời gian Ngài vào trong cung Potala chính là kiếp này, còn trong “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji là kiếp sau của Ngài. Ngài của kiếp trước chỉ là một thiếu niên làng quê lặng lẽ không ai hay biết, chẳng có bao nhiêu ham muốn, nhàn nhã tự tại. Ngài của kiếp này thì có mấy kiểu cực đoan, từ thiếu niên vô danh lắc mình biến thành Phật sống. Ngài đã sở hữu quyền lực cao nhất, tình yêu đẹp nhất, cũng mất đi tự do của người bình thường. Có người nói, là vì kiếp này Ngài phung phí bằng hết mọi thứ tốt đẹp, do đó mới có kiếp sau lưu lạc cùng khốn.
Có lẽ trong lòng mỗi người đều có một tâm trạng hoài niệm, phảng phất gặp gỡ ban sơ mãi mãi đều là đẹp nhất. Dù già đi bao nhiêu tuổi, điều chúng ta có thể nhớ được vẫn chỉ là ngày hôm qua ố vàng. Có lúc, lật mở một cuốn sách, nhìn thấy trong trang bìa kẹp một phiến lá rụng ta sẽ vui mừng khôn xiết, vì trên gân lá chạm khắc dấu ấn của tháng năm, cũng lưu giữ những tình cảm ấm áp của ngày xưa. Đi qua chặng đường nhân sinh dài dằng dặc, cuối cùng thứ hoài tưởng vẫn là những dĩ vãng xanh rì ấy. Kỳ thực thuở ban đầu chưa chắc đã là tốt đẹp nhất, nhưng tính cố chấp sẽ khiến bạn và tôi luôn chẳng quên được sự tốt đẹp của ngày hôm qua.
Tsangyang Gyatso lưu lạc ở dân gian, cũng từng vô số lần không thể tự chủ hoài niệm quá khứ. Dù Ngài tự nhủ, hồ Thanh Hải là khởi điểm cuộc đời của Ngài, thành Lhasa là cố hương Ngài không về được. Nhưng nhiều ngày lênh đênh không nương tựa, nhiều lần nửa đêm nằm mơ, Ngài vẫn sẽ nhớ nhung quán rượu nhỏ Makye Ame, sẽ tưởng nhớ người đẹp Qonggyai Dawa Dolma của Ngài, thậm chí không quên được con chó vàng già trung thành của cung Potala. Nhưng Ngài không viết được thơ tình nữa, tình ca buồn thương trăm mối ngày xưa, nay đọc lên, thật là ngôn từ lộn xộn. Có những cảm giác, một khi mất đi thì chẳng bao giờ tìm lại được nữa.
Những năm này, Tsangyang gyatso là một hành giả cô độc, nếm đủ chua xót và bất lực. Nhưng dọc đường Ngài đều giúp đời cứu người, thực hiện lời hứa của bản thân. Lại chưa từng dùng thân phận thật sự trước mọi người, nếu có ai hỏi đến cùng chỉ giả vờ không biết. Chỉ nói với người khác, mình từ nhỏ lưu lạc, không biết quê cũ ở đâu, cũng không biết cha mẹ là ai. Người dân hiền lành chất phác, xưa nay không hỏi nhiều, chỉ xem Ngài là khách qua đường phiêu bạt giang hồ như họ, vì miếng cơm manh áo, ăn mày chốn nhân gian. Cũng có người hiểu chuyện biết Ngài không phải là người phàm, nhưng chúng sinh vạn tướng, ai mà có thể chú ý đến nhiều như thế.
Năm 1709, Tsangyang Gyatso đã lưu vong bốn năm, từ Litang đi qua Batang[1], bí mật trở về Lhasa. Lhasa, đối với Tsangyang Gyatso, là một tòa thành số mệnh, một tòa thành đời này kiếp này đều chẳng thể lãng quên. Tòa thành này đã ban cho Ngài thân phận Thần Phật, cũng cho Ngài gặp gỡ người con gái định mệnh.
[1] Litang (Lý Đường), Batang (Ba Đường): hai huyện thuộc châu tự trị dân tộc Tạng Garzê (Cam Tư), tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Tòa thành này, khiến Ngài sở hữu tất cả, cũng hủy diệt tất cả của Ngài. Lần đó từ biệt cùng chúng sinh và cỏ cây trong thành, cho rằng suốt đời này không có duyên trở lại nữa, nhưng không ngờ Ngài lại chân thực đứng trong thành Lhasa, nhìn dòng người phàm trần hối hả lại qua.
Tòa thành này không mảy may biến đổi vì sự ra đi của Ngài. Từng cho rằng, Ngài thân là thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, trong một ngày lưu lạc làm tên tù dưới thềm, tòa thành này sẽ có những thay đổi long trời lở đất. Thế nhưng biến động ngày ấy không hề có nghĩa tương lai sẽ gió mây biến ảo. Có lẽ các tín đồ trước giờ chưa hề quên Ngài, nhưng họ rốt cuộc cũng chỉ là người dân bình thường, chỉ hy vọng gìn giữ một phần năm tháng tĩnh lặng, sống cuộc sống bình dị nhất. Xưa nay triều đại thay đổi, chỉ thay đổi vua chúa trên ngai báu, còn non sông muôn dặm vẫn trước sau như một, nào đã có nửa phần thay đổi. Có lẽ trên đời này, chẳng ai nên xem bản thân quá quan trọng. Vì bất cứ ai ra đi đều không thể khiến đất trời đổi sắc, nhật nguyệt mất màu, núi xanh vẫn còn đó, nước biếc vẫn chảy về đông.
Tsangyang Gyatso trở về thành Lhasa không dám phô trương qua phố, Ngài ẩn giấu thân phận của mình, gặp gỡ Thượng Sư của tu viện Drepung và tu viện Sera[2], trăm nỗi cảm xúc, vui mừng khôn tả. Họ cùng nhau bế quan tu luyện Phật pháp, không còn chàng lãng tử vì tình đêm khuya lẻn đi năm xưa nữa. Bế quan một năm, sau khi xuất quan, cuối cùng do thân phận đặc thù của Tsangyang Gyatso, không tiện ở lâu trong thành Lhasa. Bởi chỉ cần đôi chút sơ sẩy là có thể bị tai mắt của Lha-bzang Khan phát giác, đem đến cho Ngài tai nạn cực lớn lần nữa.
[2] Tu viện Sera (Sắc Lạp): cách Lhasa khoảng 5km về phía bắc, được xây năm 1419 bởi một đệ tử của Tsongkhapa.
Gặp lại thành Lhasa lần này giống như cách biệt một đời, chỉ đến lúc ly biệt, Tsangyang Gyatso mới biết hóa ra mình quyến luyến tòa thành này thế nào. Ngài không nỡ rời một nhành cây ngọn cỏ, từng mái bếp, nếp nhà trong thành, càng không quên được đoạn tình dang dở của kiếp này. Vấn vương hơn nữa cuối cùng cũng phải biệt ly, Ngài một mình đi trên đường phố Lhasa, vì ăn mặc giản dị mà không ai nhận ra Ngài là chàng Dangsang Wangpo phong lưu tiêu sái năm xưa. Ngắm một thoáng quán rượu nhỏ Makye Ame, một ngôi nhà nhỏ màu vàng rất đỗi bắt mắt. Bên trong vẫn khách khứa nườm nượp, họ vẫn là giang hồ của hôm qua, duy chỉ có Ngài không quay về được biển biếc năm đó.
Rời khỏi Lhasa, Tsangyang Gyatso tiếp tục lênh đênh biển trần, bốn bể là nhà. Năm 1712, Tsangyang Gyatso ba mươi tuổi, đã đến Kathmandu[3] của Nepal, ở đây chiêm ngưỡng biểu tượng Linga[4] của thần Shiva. Sau đó, lại theo quốc vương Nepal đến Ấn Độ hành hương. Tháng tư năm sau, Tsangyang Gyatso đã leo lên núi Linh Thứu[5], đây là nơi năm xưa Thích Ca Mâu Ni giảng kinh. Ở vùng tịnh thổ núi thiêng, chuyên tâm tu luyện một ngày mà đã hơn tu luyện ở đất Tạng một năm. Tsangyang Gyatso lúc đó một lòng hướng Phật, cũng đã có lĩnh ngộ sâu sắc đối với Phật pháp bao la tinh thâm. Ra khỏi núi Linh Thứu, Tsangyang Gyatso còn gặp được voi trắng trăm năm mới xuất hiện một lần của Ấn Độ.
[3] Kathmandu: thủ đô Nepal
[4] Linga là một biểu tượng thờ phụng của vị thần Ấn Độ giáo Shiva. Phái Shiva của Ấn Độ giáo coi Shiva là vị Thượng đế tối cao. Trong phái Smarta, Shiva là một trong năm hình thức nguyên sơ của Thượng đế. Trong một số trường phái Ấn Độ giáo khác, Brahma, Vishnu và Shiva đại diện cho ba khía cạnh thần thánh của Ấn Độ giáo và hợp chung thành bộ tam thần Trimurti: Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ, còn Shiva là đấng hủy diệt hoặc biến đổi.
[5] Núi Linh Thứu (Gijjhakūta): nằm ở Rajgir, Bihar, Ấn Độ.
Năm 1714, Tsangyang Gyatso ba mươi hai tuổi, lần nữa trở về Lhoka, tu hành ở tu viện Tabu thuộc huyện Nang[6], Lhoka, được người bản địa tôn xưng là Đại su Tabu. Trong “Bí truyện”, Tsangyang Gyatso đã thực sự trở thành một vị cao tăng đắc đạo vân du bốn phương, đủ loại kỳ ngộ mà mọi người không sao tưởng tượng nổi. Dường như chỉ có như thế mới xứng với thân phận Phật sống của Ngài, chỉ có như thế, mới có thể viết tiếp truyền kỳ đời sau của Ngài.
[6] Nang: trước là một huyện của địa khu Lhoka. Năm 1982 địa khu Nyingchi thành lập, huyện Nang cắt về Nyingchi quản lý cho đến nay. “Nang” tiếng Tạng nghĩa là hiển hiện, tưởng tượng.
Đời người thịnh suy đã định, năm tháng ảo diệt không lời. Có lẽ Ngài sống chỉ là để mơ trọn giấc mơ nửa đời trước, thành toàn một câu chuyện không có kết cuộc. Những nguyên nhân khác đều không phải. Có lẽ Ngài đã dâng cho Phật tổ thời gian quãng đời còn lại, nhưng rốt cuộc vẫn phải bội bạc giai nhân. Kỳ thực chuyện của đời trước, đi qua cầu Nại Hà là đã quên sạch sành sanh, không rõ vì sao còn có nhiều nợ cũ khó hết, giục giã hoàn trả.
Chúng ta dường như nhìn thấy một Tsangyang Gyatso hoàn toàn mới, Ngài sớm đã thoát thai hoán cốt, tựa một đóa sen, khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống, Ngài cũng tìm được quả cuối cùng cho mình.
Tin rằng tất cả mọi người đều từng xao xuyến bởi một bài hát, vì giai điệu của nó, vì lời ca nào đó, hoặc chẳng có nguyên do, chỉ là cảm động đơn thuần. Nhớ nhung một người, hay hoài tưởng một người, luôn không nhịn được tự hỏi, rốt cuộc phải lúc nào mới có thể biển người gặp gỡ? Đúng vậy, biển người mênh mang, chúng ta sơ ý lạc mất nhau, một ngày kia đôi bên mưa gió quay về, phải chăng dung nhan đã thay đổi? Phải chăng vẫn có thể nắm được tay nhau?
Đêm nay tình cờ nghe được bài hát “Hóa ra anh cũng ở đây” của Lưu Nhược Anh[], vì sự trùng hợp của một câu ca mà khiến tôi cảm động không thôi. “Gặp nhau trong biển người ngàn núi muôn sông, hóa ra anh cũng ở đây.” Tôi biết không nhiều về Lưu Nhược Anh, nhưng từng nghe nói, cô là một cô gái cảm tính, đã viết nhiều câu văn cảm tính. Sau đó xem phim “Dòng chảy thời gian” về Ô Trấn, bị nó lay động sâu sắc. Chỉ cảm thấy cô có một vẻ đẹp gột hết phấn son, giống Như cổ trấn vùng sông nước đó, bình tĩnh một cách từ tốn dưới mặt trời lặn.
[] Lưu Nhược Anh (Rene Liu, sinh năm ): diễn viên, ca sĩ Đài Loan.
Cho em lắng đọng bụi trần,
Chôn vùi dĩ vãng âm thầm ngày xưa.
Từ biển, dãi gió dầm mưa,
Đến nơi sa mạc thớt thưa bóng người.
Ẩn tình đã rõ mười mươi,
Muôn ngàn ngôn ngữ không lời nói ra.
Yêu là trời đất bao la,
Hóa ra anh ở bên ta chốn này.
Người xưa giờ ở đâu đây,
Phải chăng chỉ có sum vầy trong mơ.
Tận sức liễu yếu đào tơ,
Đổi về hồi ức bâng quơ nửa đời.
Mắt anh khát vọng ngời ngời,
Tâm tình cứu rỗi em thời trông mong.
Biển người ngàn núi muôn sông,
Hóa ra lại gặp anh trong chốn này.
Có lẽ nhiều người sẽ hỏi, lời bài hát này và Đạt Lai thứ Tsangyang Gyatso có liên quan gì hay sao? Đúng, có liên quan. Kỳ thực vạn vật trên đời đều có liên quan, tình cảm con người cũng tương thông. Chẳng qua là yêu hận tình thù, tụ tan ly hợp, ngoài ra, còn có thứ gì? Nhưng có lúc, lại cảm thấy giữa người và người vốn chẳng chút dây mơ rễ má, bạn có tiền nhân của bạn, hắn có quả báo của hắn. Ai cũng không thể thay thế cuộc đời của ai, ai cũng không thể thay đổi số mệnh của ai.
Tsangyang Gyatso thần bí mất tích tại hồ Thanh Hải, cũng được xem là bụi trần lắng đọng, dùng trầm mặc chôn vùi tất cả quá khứ. Nếu không phải xuất phát từ tưởng tượng hư ảo, không phải vì một quyển “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji, ai biết Tsangyang Gyatso phải chăng vẫn còn ở chốn nhân gian, ai biết Ngài cuối cùng ẩn tích đến nơi nào? Hoặc ẩn cư ở chốn núi rừng hoang dã tịnh không khói bếp nào đó, hoặc đã bắt đầu một chặng hành trình nhân sinh chẳng có mục đích. Còn cái tên này, sẽ mãi mãi tồn tại trong cảnh mộng của chúng ta, từ đây không rời không bỏ.
Bao nhiêu người truy tìm, khao khát gặp gỡ Tsangyang Gyatso giữa biển người, khao khát được Ngài cứu rỗi. Lại không biết, rời khỏi cung Potala, Ngài không còn là vị Phật sống chí cao vô thượng, phóng khoáng giang hồ, thậm chí Ngài còn không thể giải cứu bản thân, làm sao cứu rỗi được bạn và tôi. Trong “Bí truyện” viết Tsangyang Gyatso lưu lạc dân gian, trải qua đủ loại cảnh ngộ lưu lạc cùng khốn, cũng sắp xếp cho Ngài vô số truyền kỳ siêu việt khác thường. Kiếp sống lưu lạc đã trở thành thử thách của cao xanh đối với Ngài, trong hành trình gian nan này, Ngài trước sau không quên tu luyện Phật pháp, không quên giúp đời cứu người.
Chúng ta dường như nhìn thấy một Tsangyang Gyatso hoàn toàn mới, Ngài sớm đã thoát thai hoán cốt, tựa một đóa sen, khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống, Ngài cũng tìm được quả cuối cùng cho mình. Duy có nếm hết khói lửa nhân gian, mới hiểu rõ gió sương tình đời, mới biết chúng sinh cần gì, biết ruốt cuộc phải làm thế nào, họ mới có thể hưởng hạnh phúc chân chính. Phiêu bạt ở thế gian, Tsangyang Gyatso vừa đi, vừa nghỉ, vừa nhặt nhạnh, cũng vừa đánh mất. Số mệnh đột nhiên biến đổi, khiến ngài từ trong chìm nổi dần dần học được bình tĩnh, từ đó đã có lòng dạ rộng rãi như Phật, đã có vẻ ung dung và điềm đạm của Phật.
Năm , Tsangyang Gyatso ba mươi ba tuổi lần nữa bí mật trở về Lhasa, rốt cuộc có thứ gì mà Ngài không buông xuống được? Tòa thành này đã chẳng còn non sông thuộc về Ngài, chẳng còn cô gái Ngài yêu thương, nhưng Ngài trước sau vẫn nhung nhớ không quên mảnh đất này. Còn người đã thay thế địa vị Phật sống của Ngài sống trong cung Potala kia, chẳng có chút dây mơ rễ má với Ngài. Đạt Lai thứ Yeshey Gyatso[], một cái tên xa lạ, chẳng qua là con rối Lha-bzang Khan tìm đến, vai trò giữa họ cũng như Đệ Ba Sangye Gyatso và Tsangyang Gyatso năm xưa. Càng buồn cười là, Yeshey Gyasto đã là Đạt Lai thứ , thế thì Yeshey cũng chính là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ chăng? So với Tsangyang Gyatso, Yeshey mới là một Đạt Lai giả hoàn toàn.
[] Yeshey Gyatso (Y Hi Gia Mục Thố): Đạt Lai Lạt Ma thứ không chính thức do Lha-bzang Khan lập nên vào năm .
Lại ngắm thành Lhasa, nghe nói năm xưa khi Ngài rời đi, nhiều cô gái thầm yêu trộm nhớ Ngài đã sơn phòng mình thành màu vàng, giờ đây những phòng ốc ấy lại được tô trát một màu sơn mới. Không ai si ngốc chờ đợi một tình cảm vô vọng, không ai sẽ tưởng nhớ cả đời một người chẳng quen biết mình. Đạt Lai thứ Tsangyang Gyatso chẳng qua chỉ là một truyền kỳ thất lạc của thành Lhasa, điều nên quên cuối cùng vẫn phải quên. Duy có tình ca của Ngài vẫn như khói lửa bảng lảng, quanh quẩn trên bầu trời của thành Lhasa. Nếu nói còn có điều gì đáng để người hoài niệm, có lẽ cũng chỉ còn lại mấy bài thơ tình ấy.
Phiêu bạt chân trời gần mười năm, Tsangyang Gyatso cảm thấy mình đã xem khắp tình đời, cũng cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Ngài hy vọng tìm một nơi thích hợp để dừng chân, tịnh tâm ngồi thiền, đồng thời bắt đầu xây dựng xứ Phật lý tưởng của Ngài, truyền dương Phật pháp tinh thâm, phổ độ chúng sinh. Quá trình rong ruổi, xác thực đã cho Tsangyang Gyatso sự từng trải và rèn luyện trước đó chưa từng có. Ngài thâm nhập hồng trần, lĩnh ngộ cảnh giới bồ đề, hiểu được đời người duyên khởi duyên diệt không thể cưỡng cầu. Do đó mới vứt bỏ tình yêu, không cầm bút viết bài thơ khiến bản thân đau lòng, khiến người xem rơi lệ nữa.
Mãi đến một hôm, khi Tsangyang Gyatso dẫn mười sáu nhà sư của tu viện Mulu Lhasa từ Lhasa qua Thanh Hải đến Alxa, Ngài bị vùng đất rộng lớn mà yên bình này thu hút sâu sắc. Gặp gỡ giữa người và người là do duyên phận, gặp gỡ giữa người và phong cảnh cũng là do duyên phận, Tsangyang Gyatso lần đầu tiên đến Alxa, liền hiểu rõ duyên xưa của mình với nơi đây rất sâu đậm. Chốn này sắc núi tươi đẹp, thảo nguyên bao la, mây lành quấn quýt, khiến tâm linh Ngài tìm được một chốn về bình yên.
Alxa nằm ở đầu cực Tây khu tự trị Nội Mông Cổ, cách xa Lhasa, sự tranh đấu thế lực, loại trừ lẫn nhau của Tây Tạng không liên quan đến nơi này. Chính trị của Alxa ổn định, phong tục dân gian chất phác, lãnh thổ rộng lớn, giống như một vùng thế ngoại đào nguyên cách xa phân tranh. Vương gia A Bảo, người thống trị cao nhất đời thứ hai của miền đất này có chiến công lớn lao, được Khang Hy chọn làm ngạch phò[], rất được nhà vua sủng hạnh, càng có thể khẳng định nơi này bình yên hơn những nơi khác. Hơn nữa mấy năm nay, Lha-Bzang Khan tuy đã chiến thắng Đệ Ba Sangye Gyatso, đuổi được Tsangyang Gyatso đi, nhưng Đạt Lai thứ Yeshey Gyatso do y lập lên trước giờ không được tín đồ Tây Tạng khẳng định. Lha-bzang Khan đã đánh mất lòng người, bị các bộ lạc liên kết đối kháng, y không rảnh rỗi để ý đến khu vực Alxa. Do đó, Tsangyang Gyatso ở đây là an toàn nhất, không cần lo lắng và e sợ gì cả, Ngài có thể an cư ở đây, hoằng dương Phật pháp, mưu cầu hạnh phúc cho chúng sinh.
[] Thời nhà Thanh, chồng của công chúa gọi là “ngạch phò”, tương đương với “phò mã” các thời trước.
Tsangyang Gyatso ba mươi tư tuổi cuối cùng đã kết thúc hành trình gió mưa mười năm của Ngài, dừng chân ở vùng đất tươi đẹp Alxa, và lưu lại đây suốt ba mươi năm. Tuy trong khoảng thời gian đó cũng có nhiều lần rời đi, nhưng cuối cùng vẫn trở về chốn này, Alxa đã trở thành quê hương kiếp sau của Tsangyang Gyatso. Monyu và Lhasa đều đã là kiếp trước của Ngài. Ngài lưu luyến mảnh đất này, là vì Ngài từ đầu đến cuối đều hướng đến hòa bình và yên ổn, mà Alxa đã cho Ngài một cảm giác có thể yên thân gửi phận. Cuối cùng Tsangyang Gyatso tọa hóa và được chôn cất ở nơi này, đến nay ở Alxa vẫn lưu truyền thánh tích và công đức về Đạt Lai thứ Tsangyang Gyatso.
Lần đầu đến Alxa, Tsangyang Gyatso dừng chân ở nhà Banzier Zhabu[] quý tộc Alxa. Banzier Zhabu chính là cha của Ngawang Lhundrup Daji, tình duyên thầy trò giữa Tsangyang Gyatso và Ngawang Lhundrup Daji chính là kết nên ở đây. Lúc đó Ngawang Lhundrup Daji mới hai tuổi, từ nhỏ theo Tsangyang Gyatso xuất gia làm sư, dốc lòng học tập kinh Phật, sau đó đến Tây Tạng chuyên tu, trình độ cao thâm. Về sau lại được Tsangyang Gyatso xác định là linh đồng chuyển thế của Đệ Ba Sangye Gyatso, chỗ huyền diệu trong đó, nhiều người không thể lý giải.
[] Ban Tử Nhĩ Trát Bố.
Chuyện trên đời luôn không tách rời nhân quả luân hồi. Lúc xưa Đệ Ba Sangye Gyatso gần như nắm giữ cuộc đời hai mươi lăm năm của Tsangyang Gyatso, nhưng không lường trước được Ngawang Lhundrup Daji, linh đồng chuyển thế của y về sau sẽ trở thành đệ tử thủ tọa của Tsangyang Gyatso. Duyên phận đan xen phức tạp như thế, rốt cuộc nên xem là nghiệt duyên hay là thiện duyên? Cũng chính Ngawang Lhundrup Daji, vị cao tăng đầu tiên người Alxa Mông Cổ này, vì ân sư Tsangyang Gyatso của mình mà viết nên quyển “Tsangyang Gyatso bí truyện”, chỉ dẫn phương hướng cho những người tìm kiếm Tsangyang Gyatso trong màn sương dày đặc. Nhưng sách của ông chứa đựng quá nhiều điều thần kỳ, đã cho người đọc ảo tưởng vô tận, nhiều câu chuyện khiến người khó phân thật giả.
Dòng sông lịch sử dài mênh mông không bờ bến, sâu không thể dò, trừ phi chính mình là người đích thân trải qua, nếu không chẳng ai có thể kể lại chính xác cuộc đời của ai. Tsangyang Gyatso thực sự từng tồn tại trong lịch sử, Ngawang Lhundrup Daji cũng vậy, nhưng trong lịch sử lại ghi chép Tsangyang Gyatso hai mươi lăm tuổi đã qua đời. Nếu Ngài không chết, sư phụ của Ngawang Lhundrup Daji thật sự là Tsangyang Gyatso ư? Nếu Ngài quả thật chết bên hồ Thanh Hải, thế thì sư phụ của Ngawang Lhundrup Daji lại là người nào? Chẳng lẽ Ngawang Lhundrup Daji vì viết một quyển “Bí truyện” mà hư cấu sư phụ của mình thành Tsangyang Gyatso sao?
Chuyện đời mênh mang, còn chúng ta từ khi sinh ra đã mang một câu đố, đi lại trong cõi mênh mang đó. Biết bao truyền kỳ phong nhã hào hoa đều tan thành mây khói, biết bao vua chúa, đại thần văn võ đều biến mất không còn tăm tích. Mỗi một ngọn núi xanh, mỗi một dòng sông chảy, đều có câu chuyện không thể nói thành lời; mỗi một ngọn cỏ gốc cây, mỗi một hòn đá đều có câu đố không thể giải đáp. Chúng ta còn có thể dựa vào những vết tích vụn vặt năm tháng để lại, tìm được những gì? Nói cách khác, non sông không ngừng dời đổi này còn có thể lưu lại những gì cho chúng ta?
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Đời người thịnh suy đã định, năm tháng ảo diệt khôn lường. Có lẽ Ngài sống chỉ là vì mơ trọn giấc mơ nửa đời trước, thành toàn một câu chuyện không có kết cuộc. Những nguyên nhân khác đều không phải.
Đời người chính là một chuyến du lịch, dù đeo tay nải mải miết phiêu bạt trên đường, hay có chỗ ở yên thân, đều là đang nhàn du. Thời gian xưa nay đều không dừng lại, dẫu chúng ta nấp ở một chốn thế ngoại đào nguyên không có rối ren, cũng vẫn phải xem hết hoa xuân trăng thu, phải trải qua sinh lão bệnh tử. Một ngày kia, phồn hoa cuối cùng sẽ trôi xa, một ngày kia, chúng ta đều sẽ cô độc già đi. Ngắm xong mùa xuân muôn hồng ngàn tía cuối cùng trong sinh mệnh, hạt bụi trần nhỏ bé này nên trở về chốn nào?
Biển người trôi nổi, ngày ngày đều có nhiều cuộc gặp gỡ và tương phùng như thế, vì sao người đi lướt qua nhau lại là bạn và tôi? Ngày ngày đều có nhiều duyên phận ước hẹn như thế, vì sao người chờ đợi ngày này qua ngày nọ vẫn là bạn và tôi. Chúng ta luôn mong mỏi người khác đến cứu rỗi, lại không biết con người chỉ có tự cứu mình rồi mới có thể cứu người. Chúng ta luôn ở trong biển biếc của mình, kể chuyện nương dâu của người ta, lại không biết có một ngày, nương dâu của mình vừa khéo là biển biếc của người khác. Ván cờ nhân sinh này, nếu cố chấp phải đi tiếp theo cách nghĩ của mình, kết quả sẽ là cả ván đều thua, non sông đều mất.
Khi phiêu bạt, tôi thường nhớ đến Tsangyang Gyatso. Trước giờ tôi không mong mỏi vị tình tăng nhu nhược này có thể cứu rỗi tôi từ hồng trần, vượt qua sông nước mênh mang của đời người, cập bến bờ bên kia sen nở. Vì tôi biết, Ngài và chúng ta không có khác biệt. Từ sau khi Ngài rơi vào phàm trần, chọn lựa tình yêu, tôi đã biết Ngài không quay về được nữa. Trong thơ ca thắm thiết cảm động lòng người của Ngài, tôi đã đọc ra kiếp trước đời này của Ngài, một người vì Phật mà say mê hông trần, lại định sẵn phải gìn giữ trọn đời vì tình yêu. Ngài là Phật sống, ai có thể phê duyệt số mệnh cho Ngài, nói với Ngài đến cuối cùng phải chọn lựa tư thế nào mới sống được thật tốt chốn nhân gian khói lửa?
Nếu nói quãng thời gian trước mười lăm tuổi của Tsangyang Gyatso là kiếp trước của Ngài, thế thì quãng thời gian Ngài vào trong cung Potala chính là kiếp này, còn trong “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji là kiếp sau của Ngài. Ngài của kiếp trước chỉ là một thiếu niên làng quê lặng lẽ không ai hay biết, chẳng có bao nhiêu ham muốn, nhàn nhã tự tại. Ngài của kiếp này thì có mấy kiểu cực đoan, từ thiếu niên vô danh lắc mình biến thành Phật sống. Ngài đã sở hữu quyền lực cao nhất, tình yêu đẹp nhất, cũng mất đi tự do của người bình thường. Có người nói, là vì kiếp này Ngài phung phí bằng hết mọi thứ tốt đẹp, do đó mới có kiếp sau lưu lạc cùng khốn.
Có lẽ trong lòng mỗi người đều có một tâm trạng hoài niệm, phảng phất gặp gỡ ban sơ mãi mãi đều là đẹp nhất. Dù già đi bao nhiêu tuổi, điều chúng ta có thể nhớ được vẫn chỉ là ngày hôm qua ố vàng. Có lúc, lật mở một cuốn sách, nhìn thấy trong trang bìa kẹp một phiến lá rụng ta sẽ vui mừng khôn xiết, vì trên gân lá chạm khắc dấu ấn của tháng năm, cũng lưu giữ những tình cảm ấm áp của ngày xưa. Đi qua chặng đường nhân sinh dài dằng dặc, cuối cùng thứ hoài tưởng vẫn là những dĩ vãng xanh rì ấy. Kỳ thực thuở ban đầu chưa chắc đã là tốt đẹp nhất, nhưng tính cố chấp sẽ khiến bạn và tôi luôn chẳng quên được sự tốt đẹp của ngày hôm qua.
Tsangyang Gyatso lưu lạc ở dân gian, cũng từng vô số lần không thể tự chủ hoài niệm quá khứ. Dù Ngài tự nhủ, hồ Thanh Hải là khởi điểm cuộc đời của Ngài, thành Lhasa là cố hương Ngài không về được. Nhưng nhiều ngày lênh đênh không nương tựa, nhiều lần nửa đêm nằm mơ, Ngài vẫn sẽ nhớ nhung quán rượu nhỏ Makye Ame, sẽ tưởng nhớ người đẹp Qonggyai Dawa Dolma của Ngài, thậm chí không quên được con chó vàng già trung thành của cung Potala. Nhưng Ngài không viết được thơ tình nữa, tình ca buồn thương trăm mối ngày xưa, nay đọc lên, thật là ngôn từ lộn xộn. Có những cảm giác, một khi mất đi thì chẳng bao giờ tìm lại được nữa.
Những năm này, Tsangyang gyatso là một hành giả cô độc, nếm đủ chua xót và bất lực. Nhưng dọc đường Ngài đều giúp đời cứu người, thực hiện lời hứa của bản thân. Lại chưa từng dùng thân phận thật sự trước mọi người, nếu có ai hỏi đến cùng chỉ giả vờ không biết. Chỉ nói với người khác, mình từ nhỏ lưu lạc, không biết quê cũ ở đâu, cũng không biết cha mẹ là ai. Người dân hiền lành chất phác, xưa nay không hỏi nhiều, chỉ xem Ngài là khách qua đường phiêu bạt giang hồ như họ, vì miếng cơm manh áo, ăn mày chốn nhân gian. Cũng có người hiểu chuyện biết Ngài không phải là người phàm, nhưng chúng sinh vạn tướng, ai mà có thể chú ý đến nhiều như thế.
Năm 1709, Tsangyang Gyatso đã lưu vong bốn năm, từ Litang đi qua Batang[1], bí mật trở về Lhasa. Lhasa, đối với Tsangyang Gyatso, là một tòa thành số mệnh, một tòa thành đời này kiếp này đều chẳng thể lãng quên. Tòa thành này đã ban cho Ngài thân phận Thần Phật, cũng cho Ngài gặp gỡ người con gái định mệnh.
[1] Litang (Lý Đường), Batang (Ba Đường): hai huyện thuộc châu tự trị dân tộc Tạng Garzê (Cam Tư), tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Tòa thành này, khiến Ngài sở hữu tất cả, cũng hủy diệt tất cả của Ngài. Lần đó từ biệt cùng chúng sinh và cỏ cây trong thành, cho rằng suốt đời này không có duyên trở lại nữa, nhưng không ngờ Ngài lại chân thực đứng trong thành Lhasa, nhìn dòng người phàm trần hối hả lại qua.
Tòa thành này không mảy may biến đổi vì sự ra đi của Ngài. Từng cho rằng, Ngài thân là thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, trong một ngày lưu lạc làm tên tù dưới thềm, tòa thành này sẽ có những thay đổi long trời lở đất. Thế nhưng biến động ngày ấy không hề có nghĩa tương lai sẽ gió mây biến ảo. Có lẽ các tín đồ trước giờ chưa hề quên Ngài, nhưng họ rốt cuộc cũng chỉ là người dân bình thường, chỉ hy vọng gìn giữ một phần năm tháng tĩnh lặng, sống cuộc sống bình dị nhất. Xưa nay triều đại thay đổi, chỉ thay đổi vua chúa trên ngai báu, còn non sông muôn dặm vẫn trước sau như một, nào đã có nửa phần thay đổi. Có lẽ trên đời này, chẳng ai nên xem bản thân quá quan trọng. Vì bất cứ ai ra đi đều không thể khiến đất trời đổi sắc, nhật nguyệt mất màu, núi xanh vẫn còn đó, nước biếc vẫn chảy về đông.
Tsangyang Gyatso trở về thành Lhasa không dám phô trương qua phố, Ngài ẩn giấu thân phận của mình, gặp gỡ Thượng Sư của tu viện Drepung và tu viện Sera[2], trăm nỗi cảm xúc, vui mừng khôn tả. Họ cùng nhau bế quan tu luyện Phật pháp, không còn chàng lãng tử vì tình đêm khuya lẻn đi năm xưa nữa. Bế quan một năm, sau khi xuất quan, cuối cùng do thân phận đặc thù của Tsangyang Gyatso, không tiện ở lâu trong thành Lhasa. Bởi chỉ cần đôi chút sơ sẩy là có thể bị tai mắt của Lha-bzang Khan phát giác, đem đến cho Ngài tai nạn cực lớn lần nữa.
[2] Tu viện Sera (Sắc Lạp): cách Lhasa khoảng 5km về phía bắc, được xây năm 1419 bởi một đệ tử của Tsongkhapa.
Gặp lại thành Lhasa lần này giống như cách biệt một đời, chỉ đến lúc ly biệt, Tsangyang Gyatso mới biết hóa ra mình quyến luyến tòa thành này thế nào. Ngài không nỡ rời một nhành cây ngọn cỏ, từng mái bếp, nếp nhà trong thành, càng không quên được đoạn tình dang dở của kiếp này. Vấn vương hơn nữa cuối cùng cũng phải biệt ly, Ngài một mình đi trên đường phố Lhasa, vì ăn mặc giản dị mà không ai nhận ra Ngài là chàng Dangsang Wangpo phong lưu tiêu sái năm xưa. Ngắm một thoáng quán rượu nhỏ Makye Ame, một ngôi nhà nhỏ màu vàng rất đỗi bắt mắt. Bên trong vẫn khách khứa nườm nượp, họ vẫn là giang hồ của hôm qua, duy chỉ có Ngài không quay về được biển biếc năm đó.
Rời khỏi Lhasa, Tsangyang Gyatso tiếp tục lênh đênh biển trần, bốn bể là nhà. Năm 1712, Tsangyang Gyatso ba mươi tuổi, đã đến Kathmandu[3] của Nepal, ở đây chiêm ngưỡng biểu tượng Linga[4] của thần Shiva. Sau đó, lại theo quốc vương Nepal đến Ấn Độ hành hương. Tháng tư năm sau, Tsangyang Gyatso đã leo lên núi Linh Thứu[5], đây là nơi năm xưa Thích Ca Mâu Ni giảng kinh. Ở vùng tịnh thổ núi thiêng, chuyên tâm tu luyện một ngày mà đã hơn tu luyện ở đất Tạng một năm. Tsangyang Gyatso lúc đó một lòng hướng Phật, cũng đã có lĩnh ngộ sâu sắc đối với Phật pháp bao la tinh thâm. Ra khỏi núi Linh Thứu, Tsangyang Gyatso còn gặp được voi trắng trăm năm mới xuất hiện một lần của Ấn Độ.
[3] Kathmandu: thủ đô Nepal
[4] Linga là một biểu tượng thờ phụng của vị thần Ấn Độ giáo Shiva. Phái Shiva của Ấn Độ giáo coi Shiva là vị Thượng đế tối cao. Trong phái Smarta, Shiva là một trong năm hình thức nguyên sơ của Thượng đế. Trong một số trường phái Ấn Độ giáo khác, Brahma, Vishnu và Shiva đại diện cho ba khía cạnh thần thánh của Ấn Độ giáo và hợp chung thành bộ tam thần Trimurti: Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ, còn Shiva là đấng hủy diệt hoặc biến đổi.
[5] Núi Linh Thứu (Gijjhakūta): nằm ở Rajgir, Bihar, Ấn Độ.
Năm 1714, Tsangyang Gyatso ba mươi hai tuổi, lần nữa trở về Lhoka, tu hành ở tu viện Tabu thuộc huyện Nang[6], Lhoka, được người bản địa tôn xưng là Đại su Tabu. Trong “Bí truyện”, Tsangyang Gyatso đã thực sự trở thành một vị cao tăng đắc đạo vân du bốn phương, đủ loại kỳ ngộ mà mọi người không sao tưởng tượng nổi. Dường như chỉ có như thế mới xứng với thân phận Phật sống của Ngài, chỉ có như thế, mới có thể viết tiếp truyền kỳ đời sau của Ngài.
[6] Nang: trước là một huyện của địa khu Lhoka. Năm 1982 địa khu Nyingchi thành lập, huyện Nang cắt về Nyingchi quản lý cho đến nay. “Nang” tiếng Tạng nghĩa là hiển hiện, tưởng tượng.
Đời người thịnh suy đã định, năm tháng ảo diệt không lời. Có lẽ Ngài sống chỉ là để mơ trọn giấc mơ nửa đời trước, thành toàn một câu chuyện không có kết cuộc. Những nguyên nhân khác đều không phải. Có lẽ Ngài đã dâng cho Phật tổ thời gian quãng đời còn lại, nhưng rốt cuộc vẫn phải bội bạc giai nhân. Kỳ thực chuyện của đời trước, đi qua cầu Nại Hà là đã quên sạch sành sanh, không rõ vì sao còn có nhiều nợ cũ khó hết, giục giã hoàn trả.