Nếu mỗi người đều trồng một đóa hoa sen trong lòng, thế thì cũng chính là trồng xuống cả từ bi. Bạn chỉ cần dùng ánh nắng và mưa móc tưới thẫm cho nó, dùng tấm lòng lương thiện và tình cảm ấm áp nuôi dưỡng nó, thì sẽ bừng nở đóa hoa tinh khiết.
Chúng sinh vạn tướng, không chỉ là nói dung nhan của chúng sinh, mà còn cả tâm tính và tình cảm của chúng sinh. Quả thực, người trên đời này không có dung nhan giống nhau, cũng không có tính tình giống nhau. Dù có trùng hợp, cũng chỉ là tương tự và gần giống, mỗi người đều có điểm người khác không thể thay thế. Còn tính tình và hàm dưỡng của một người thì có thể quyết định dung nhan người đó là đẹp hay xấu.
Cái gọi là phúc hữu thi thư khí tự hoa[1], cũng là ý đó. Trong lòng có sách vở, khí chất tự nhiên trầm tĩnh ưu nhã; trong lòng chứa cỏ rơm, thì chỉ là hoang nguyên lổn nhổn. Mừng giận buồn vui, yêu hận tình thù của một người, cho dù không biểu đạt ra, cũng sẽ thông qua tâm tính bộc lộ trên mặt. Những người từng trải sóng gió cuộc đời, trên mặt họ lưu giữ vẻ tang thương. Còn người sống yên ổn, trên mặt biểu hiện dáng vẻ bình tĩnh và thư thái. Chúng ta đều biết, thời gian là lưỡi dao, tuổi tác lớn dần lên, nó sẽ từng nhát từng nhát khắc dấu vết xuống khuôn mặt một thời tuấn tú. Khi thấy tuổi tác già đi, lại không sức vãn hồi, chỉ có thể trách năm tháng vô tình, hay là con người vô tình. Năm tháng vẫn mãi xanh, chính bạn để nó trôi qua một cách vô ích.
[1] Bụng chứa sách vở tất mặt mày sáng sủa.
“Phật nói mọi việc có nhân quả, ma nói tất cả đều ở ta. Chúng sinh vạn tướng đều vô tướng, thành Phật thành ma đều là ta.” Trong mắt Phật, mọi việc đều có nhân quả, mọi thứ của hôm nay, là do tất cả của hôm qua, mọi thứ của hôm nay, lại sẽ kiểm chứng tương lai. Còn ma nói tất cả đều do tự mình, tranh với trời, tranh nhau với vận mệnh, nhưng cũng chỉ là từ ván cờ này nhảy vào ván cờ khác, nào đã từng có giải thoát thực sự. Chúng sinh vạn tướng, cũng là vô tướng, tôi vẫn là tôi đó, bạn vẫn là bạn đó, có điều ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay, vậy mà dung nhan hôm nay đã đổi thay.
Từ sau khi Kelzang Gyatso cử hành điển lễ tọa sàng ở cung Potala, cục diện chính trị Tây Tạng dần dần đi vào ổn định. Vị Phật sống trẻ tuổi này mỗi ngày học tâp nghiên cứu kinh văn, chẳng có bao nhiêu tạp niệm hồng trần. Sau khi tự mình chấp chính, chỉ muốn hoằng dương Phật pháp, không có lòng tranh đoạt quyền lực. Chính sự của địa phương Tây Tạng, chủ yếu do đại thần triều Thanh đóng ở Tây Tạng quản lý. Trận chiến tranh đoạt mấy mươi năm ấy dần dần bình lặng trong dòng chảy năm tháng. Người dân lương thiện cũng nhạt quên cuộc chiến máu tanh giữa Đệ Ba Sangye Gyatso và Lha-bzang Khan, lãng quên cái chết của Sangye Gyatso và Lha-bzang Khan. Nhưng họ trước giờ không thể quên Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, vì thơ tình của Ngài lưu truyền lại vẫn luôn vang vọng lâu dài trên bầu trời của thành Lhasa, thậm chí của cả cao nguyên Thanh Tạng.
Vì không quên được thơ tình của Tsangyang Gyatso, do đó cũng không quên được vị Phật sống này, không quên được mọi chuyện quá khứ của Ngài, cũng không quên được câu đố về sự mất tích của Ngài ở hồ Thanh Hải. Có lẽ trong những tín đồ ấy, có nhiều người đến chết vẫn kính yêu Tsangyang Gyatso, họ sẽ kiên trì truy tìm tung tích của Ngài. Nhưng tôi tin rằng, đa số mọi người sẽ hiểu được tùy duyên, chẳng thà trông nom gia viên của mình, vì Ngài cầu nguyện, cũng không muốn đi quấy nhiễu kiếp trước đời này của Ngài. Họ đã tin Kelzang Gyatso là linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso, thế thì họ nên thành tâm ủng hộ vị Phật sống mới, dùng điều đó để chứng thực tín ngưỡng không đổi của họ.
Tsangyang Gyatso gửi thân ở thảo nguyên Alxa, từ sau khi Lha-bzang Khan chết, cơn ác mộng của Ngài cũng đã kết thúc. Sau khi Kelzang Gyatso được xác lập làm Đạt Lai mới, Tsangyang Gyatso càng như trút bỏ gánh nặng, chỉ có cục thế an ổn, Ngài mới có thể an ổn. Vua Khang Hy nhà Thanh cũng không truy cứu tung tích của Ngài nữa. Đã lập Kelzang Gyatso làm Đạt Lai thứ 6, thì có nghĩa Tsangyang Gyatso đã qua đời, hoặc có thể nói Tsangyang Gyatso sớm đã bị nhà vua phế truất, hơn nữa Đệ Ba Sangye Gyatso và Lha-bzang Khan lần lượt chết đi, lại càng không rảnh chú ý đến câu đố về sự mất tích của Tsangyang Gyatso ở hồ Thanh Hải. Hiện nay Tsangyang Gyatso sống ở Alxa tự do tự tại, không cần lo lắng bị người đời phát giác ra lai lịch của Ngài mà đem đến phân tranh không cần thiết cho vùng đất bình yên này.
Những năm này, phần lớn thời gian của Tsangyang Gyatso đều dành cho Alxa, dành cho tất cả chúng sinh ở Alxa. Ngài từ bi độ lượng, hoằng dương Phật pháp, là Thượng Sư được người Alxa tin thờ kính yêu. Thảo nguyên Alxa đã lưu truyền quá nhiều câu chuyện đẹp đẽ thần kỳ về Tsangyang Gyatso, Ngài chính là một vị Phật có thần thông và pháp lực, vì chúng sinh mở rộng cửa Ban Nhược, dẫn đến thánh cảnh Bồ Đề. Do đó, những người tín ngưỡng Phật giáo ấy càng thêm tin tưởng sâu sắc tu vi Phật học cao thâm của Thượng Sư, cũng lẽ đương nhiên trở thành tín đồ kiên định không dời của Ngài. Sức cuốn hút của Tsangyang Gyatso ở Alxa, không mảy may thua kém lúc Ngài ở cung Potala. Họ tin Ngài như tin Phật tổ.
Tất cả mọi chuyện, đều lấy từ “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji, vị này tự xưng là cao đồ của Tsangyang Gyatso, vì sư phụ của mình ghi lại những sự tích truyền kỳ.
Đúng thế, dung nhan hôm nay đã thay đổi. Trong “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji, miêu tả dáng mạo của Tsangyang Gyatso, khiến người rất mực ngạc nhiên vui mừng. Nói Ngài dù đến hơn sáu mươi tuổi vẫn giữ được dung nhan tuấn mỹ, sáng chói hơn người. Dù Ngài quần áo lam lũ trà trộn trong đám ăn mày ở phố chợ, cũng có thể bị nhận ra. Mà những điều này không chỉ bởi vì dung mạo tuấn nhã phong lưu của Ngài, còn bởi vì thân thể Ngài có thể tỏa ra mùi hương lạ, mùi hương ấy giống như hương liệu cúng Phật, khiến lòng người thư thái trầm tĩnh. Miêu tả như thế là xuất phát từ lòng sùng bái và yêu quý của Ngawang Lhundrup Daji đối với sư phụ, cũng là vì si mê của các tín đồ thành kính đối với Tsangyang Gyatso.
Chúng ta nên tin Tsangyang Gyatso những năm cuối đời vẫn dung nhan tuấn mỹ, mặt như gió xuân, mắt chứa nước thu. Cái gọi là tiên phong đạo cốt, chính là nói khí chất của một người, dù trải qua bao nhiêu biến đổi, vẫn có thể ung dung điềm đạm, trầm tĩnh bình thản. Một người sáng suốt, thấu triệt, trên người sẽ vô ý bộc lộ ra khí độ siêu phàm thoát tục, cao quý mà ưu nhã, sâu sắc mà bình tĩnh.
Do đó bất kể sau khi Tsangyang Gyatso mất tích ở hồ Thanh Hải, lưu lạc bao nhiêu năm chốn giang hồ, chịu bao nhiêu mưa tuyết gió sương, nhưng với tu vi Phật học và tố dưỡng nội tâm của Ngài, dung nhan của Ngài sẽ không già nua quá sớm, ngược lại sẽ càng thêm trong trẻo sáng láng cùng với tu vi của Ngài. Vì lòng Ngài hiền lành từ bi, thông thấu độ lượng, ngày dài tháng rộng, những hào quang không che được ấy sẽ lộ ra trong dung mạo và khí chất. Ngài lúc đó, bất kể nội tâm hay vẻ ngoài, đều hẳn là tinh khiết đẹp đẽ.
Tôi tin rằng những người có tín ngưỡng, những người nội tâm từ bi lương thiện, dù dung nhan của họ có đẹp đẽ hay không, nhưng trong cốt cách của họ đều sẽ toát ra một vẻ đẹp tĩnh lặng gột hết phấn son. Vẻ đẹp ấy khiến tất cả những ai tiếp xúc đều có thể yên ổn mà bình tĩnh. Từ bi là một sức mạnh, có thể cứu rỗi nhiều người trầm luân trong tội ác, cũng sẽ cảm nhiễm nhiều người hoang mang trong trần thế. Nếu mỗi người đều trồng một đóa sen trong lòng, thế thì cũng chính là trồng xuống cả từ bi. Bạn chỉ cần dùng ánh nắng và mưa móc tưới thẫm cho nó, dùng tấm lòng lương thiện và tình cảm ấm áp nuôi dưỡng nó, thì sẽ bừng nở đóa hoa tinh khiết.
“Một ý nghĩ thành Phật, một ý nghĩ thành ma, giữa thiện và ác, nhân quả đời trước. Ngắm Phật tổ cầm hoa mỉm cười, chỉ than người đời mắt đục nhìn vật, nghe Phật pháp Đại Thừa[2] của Phật tổ, chỉ mong người đời lòng yên tịnh không sóng.” Đời người có quá nhiều chọn lựa, nhưng chúng ta cần kiên trì niềm tin và theo đuổi của mình, thành Phật thành ma, chỉ là giữa một ý nghĩ. Khi ngắm Phật tổ cầm hoa mỉm cười, lòng yên tịnh không gợn sóng, cần gì phải lo sợ năm tháng như lưỡi dao, vô tình gọt giũa dung nhan?
[2] Đại Thừa (mahāyāna) còn gọi là Đại Thặng tức là “cỗ xe lớn”, “bánh xe lớn”, là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật. Trường phái kia là Tiểu Thừa (hīnayāna) hay Tiểu Thặng, nghĩa là “cỗ xe nhỏ”, “bánh xe nhỏ”. Đại Thừa tập trung vào việc mở đường giác ngộ cho chúng sinh, Tiểu Thừa lấy sự giác ngộ bản thân làm trọng.
Duyên là gì? Duyên là gặp nhau nơi ngã tư đường, là nắm tay chốn hồng trần xa lạ; duyên là muôn đóa hoa xuân đồng loạt nở rộ, là hai phiến lá thu cùng nhau rụng xuống; duyên là đối thoại giữa non và nước, là mặt trời và mặt trăng đồng thời xuất hiện.
Duyên là gì? Duyên là gặp nhau nơi ngã tư đường, là nắm tay chốn hồng trần xa lạ; duyên là muôn đóa hoa xuân đồng loạt nở rộ, là hai phiến lá thu cùng nhau rụng xuống; duyên là đối thoại giữa non và nước, là mặt trời và mặt trăng đồng thời xuất hiện. Gặp nhau, quen nhau giữa biển người mênh mông chính là duyên, lưu lạc giữa hồng trần lại không lãng quên chính là duyên. Gặp gỡ, là một kiếp nạn hạnh phúc, cũng là một nét đẹp sai lầm. Quên nhau, là một sự khởi đầu hoang mang, cũng là sự kết thúc trong trẻo.
Chúng ta luôn nói, tin duyên tiếc duyên, không nên dễ dàng làm tổn thương người bên cạnh, không nên để tốt đẹp trở thành dĩ vãng. Nhưng vẫn sẽ nhiều lần nghe được một vài thanh âm đang than thở: “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến, hà sự thu phong bi họa phiến. Đẳng nhàn biến khước cố nhân tâm, khước đạo cố nhân tâm dịch biến[]”. Lòng người dễ đổi thay, bất cứ lúc nào cũng chẳng thể chắc chắn rằng cái cảm giác tốt đẹp ấy vẫn tươi mới như cũ, không bao giờ già đi. Do đó một số người chẳng thà biệt ly lâu dài, chứ không muốn bên nhau mãi mãi. Chỉ có biệt ly, có thể khiến con người trước sau ghi nhớ sự tốt đẹp đã từng có, thời gian bên nhau lâu rồi, thì sẽ nhìn thấy nhiều khuyết điểm của đôi bên, mà xem nhẹ nỗi niềm xao xuyến thuở mới gặp gỡ.
[] Thơ của Nạp Lan Dung Nhược, tạm dịch nghĩa: Đời người nếu chỉ như lần đầu gặp gỡ, thì sao có chuyện gió thu làm chiếc quạt đau lòng. Bỗng dưng cố nhân thay lòng, lại nói là tình người luôn dễ biến đổi.
Dịch thơ:
Giá như gặp gỡ lần đầu,
Gió thu sao nỡ giao sầu quạt tranh.
Người xưa quay ngoắt thật nhanh,
Lại than nhân thế đoạn đành đổi thay.
Sự quen biết của Tsangyang Gyatso và Ngawang Lhundrup Daji chính là duyên, nếu Tsangyang Gyatso không yêu thích thảo nguyên Alxa bình yên, Ngài và Ngawang Lhundrup Daji đời này chắc chắn sẽ đi lướt qua nhau. Khi Tsangyang Gyatso lần đầu đến Alxa, Ngawang Lhundrup Daji mới hai tuổi, còn quấn tã lót, chưa hiểu sự đời. Tsangyang Gyatso ẵm bé trong lòng, không biết mình sau này sẽ cùng bé kết nên mối duyên thầy trò sâu sắc, cũng không biết đứa bé này lại là linh đồng chuyển thế của Đệ Ba Sangye Gyatso, càng không biết bé sẽ vì Ngài viết một quyển “Bí truyện” ly kỳ, giải thích cuộc đời như hoa sen của Ngài.
Những “nhân” này trồng xuống vào lúc nào, Tsangyang Gyatso cũng không biết. Khi Ngài lần đầu tiên đến Alxa Nội Mông Cổ, đã biết mình và nơi này có duyên xưa rất sâu, do đó Ngài ngừng phiêu bạt, an thân nơi đây, gặp gỡ vương gia và vương phi A Bảo, thu nhận cao đồ Ngawang Lhundrup Daji, và bảo hộ tất cả sinh linh ở đây. Khi đến, Tsangyang Gyatso chỉ biết nơi này sẽ là quê hương thứ hai trong cuộc đời Ngài, nhưng chưa hề nghĩ, bản thân có một ngày lại giống như lá rụng, yên tĩnh chết nơi đây.
Sau khi Kelzang Gyatso tọa sàng ở cung Potala, Tsangyang Gyatso sống rất tự tại yên ổn Ở Alxa, Ngài ở nơi này hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh. Còn Ngawang Lhundrup Daji, đệ tử thủ tọa của Tsangyang Gyatso, cũng do Ngài một tay đào tạo. Ngài từng tự gom mười ngàn làng bạc ròng, cử Ngawang Lhundrup Daji đến Tây Tạng theo Ban Thiền học kinh. Sau khi Ngawang Lhundrup Daji tu nghiệp trở về Alxa, liền được Tsangyang Gyatso xác định là linh đồng chuyển thế của Đệ Ba Sangye Gyatso, do đó ông trở thành vị Phật sống chuyển thế đầu tiên sinh ra ở Alxa. Những thành tựu của Ngawang Lhundrup Daji, đều bắt nguồn từ ân sư Tsangyang Gyatso. Vì vậy, trong “Bí truyện” ông viết, đối với các sự tích của Tsangyang Gyatso, ông gần như là si mê.
Trong khoảng thời gian này, Tsangyang Gyatso từ Alxa dời đến Enjianle[] thuộc hồ Thanh Hải sống suốt chín năm. Mãi đến năm , Ngài mới từ Enjianle hồ Thanh Hải trở về Alxa. Tháng , Tsangyang Gyatso nhiễm bệnh, ngày tháng năm sau, Đạt Lai thứ Tsangyang Gyatso tọa hóa ở tu viện Chengqing[] của Alxa, hưởng thọ sáu mươi tư tuổi. Năm , nhục thân của Đạt Lai thứ Tsangyang Gyatso được dời đến bên hồ Gao’erlamu[] tu viện Zhaohua lập tháp thờ cúng. Ngawang Lhundrup Daji xác định con trai của Trấn Quốc Công Alxa là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ , và đích thân đảm nhiệm kinh sư giảng dạy giáo pháp. Khi Đạt Lai thứ tám tuổi, Ngawang Lhundrup Daji chủ trì nghi thức tọa sàng cho Ngài ở tu viện Zhaohua, lấy pháp danh Thubten Gyatso[], đó chính là Ôn Đô Nhĩ Cát Căn[] nổi tiếng của Alxa.
[] Ân Tiêm Lặc.
[] Chengqing (Thừa Khánh) và Zhaohua (Chiêu Hóa): hai trong tám chùa lớn của Alxa, Nội Mông Cổ.
[] Cáo Nhĩ Lạp Mộc.
[] Đồ Đăng Gia Mục Thố.
[] Ôn Đô Nhĩ: một họ của người Mãn Châu, Trung Quốc.
Chỉ một đoạn văn ngắn gọn đã kết thúc số mệnh mười năm sau của Tsangyang Gyatso, trực tiếp phán định cái chết của Ngài. Đó là vì tất cả truyền kỳ của Ngài kiếp trước đều đã trải qua hết, năm tháng sau này yên ổn tự nhiên, không có sóng gió, không có chìm nổi, bất cứ miêu tả nào cũng là lằng nhằng, cũng trở thành phiền toái. Có lúc, thậm chí cảm thấy câu chuyện sau hai mươi lăm tuổi của Ngài đều là dư thừa.
Tôi thậm chí rất khó tưởng tượng, hai mươi lăm tuổi đến sáu mươi tư tuổi, trong khoảng thời gian mấy mươi năm này, một vị tình tăng dựa vào cái gì để không còn vương vấn tình duyên ngày qua nữa? Lẽ nào thơ tình chính Ngài viết nên đều đã quên hết sao? Lẽ nào lời thề ước Ngài đã trao cho cô gái thuở mơ xanh ngựa gỗ đều quên hết sao? Lẽ nào lời thề non hẹn biển Ngài từng nói với cô gái Qonggyai cũng quên hết sao?
Nhiều câu thơ tình sâu ý nặng như thế, Ngài đều quên hết sao? Ngài làm sao có thể quên, trừ phi Ngài thật sự đã chết, trừ phi Tsangyang Gyatso dưới ngòi bút của Nagwang Lhundrup Daji là giả, là một thế thân mơ hồ. Nhưng chúng ta nên tin tưởng, đây không phải là một nhân vật hư cấu, vì trong văn của ông dù tràn đầy sự huyền ảo thần kỳ, nhưng cũng cho chúng ta chân thực và an ủi. Nếu không có quyển “Bí truyện” ấy, có lẽ cuộc đời của Tsangyang Gyatso thật sự đã vãn kịch vào hai mươi lăm tuổi, sau khi hạ màn, câu chuyện nào sẽ tiếp diễn?
Là mơ, thì nên tỉnh lại; là yêu, thì nên tiếp tục. Duyên khởi duyên diệt, xem như lâu dài, quay đầu cũng chỉ là vội vã. Tsangyang Gyatso hai mươi lăm tuổi không chết, sáu mươi tư tuổi rốt cuộc vẫn chết. Ngài tuy là Phật sống, có dung nhan không già đi, nhưng tuổi thọ lại có hạn. Tsangyang Gyatso không thể sống dần đến già nua như Bành Tổ[], lúc đó ngài có tồn tại hay không, đã không còn quá đỗi quan trọng. Tu luyện nhiều năm kiến Ngài sớm đã kết liễu tất cả nợ cũ nghiệt duyên, được dĩnh ngộ siêu thoát, đạt đến cảnh giới niết bàn.
[] Bành Tổ: một nhân vật trong truyền thuyết Trung Hoa được cho là sống lâu đến nghìn tuổi.
Tsangyang Gyatso không phải đã chết, mà là đã tọa hóa. Tọa hóa là người tu hành có căn cơ ngồi ngay ngắn an nhiên mà kết thúc sinh mệnh. Phật nói vạn vật do duyên mà sinh, do duyên mà diệt, thân thể hình hài đều là mộng huyễn bào ảnh[], người chết đi không cần giữ nó lại trên thế gian. Linh hồn của Ngài được siêu thoát, sự tồn tại của nhục thân đã chẳng còn mảy may ý nghĩa, chấp nhất với nhân gian, ngược lại trở thành gánh nặng.
[] Mộng ảo bọt bóng.
Ở Alxa có một tu viện được đông đảo mọi người biết đến, gọi là Nam Tự, còn gọi là tu viện Guangzong. Tu viện này quy mô không lớn lắm, nhưng danh tiếng lại đứng đầu trong tám tu viện lớn của Alxa. Nghe nói năm xưa linh tháp chứa nhục thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ Tsangyang Gyatso được đặt ở đây, mãi đến thời Cách mạng Văn hóa[] tu viện Guangzong bị hủy, sư trong chùa và tín đồ mới âm thầm trộm nhục thân Phật sống trong linh tháp đem ra ngoài đốt, và giữ lại hài cốt cùng xá lợi tử của Tsangyang Gyatso, xây một tòa tháp màu vàng - tháp Đồ Tì[] Đạt Lai Lạt Ma thứ , dùng để đặt tro cốt của Ngài.
[] Cách mạng Văn hóa là một giai đoạn xã hội hỗn loạn và tình trạng vô chính phủ ở Trung Quốc diễn ra trong mười năm -, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội.
[] Đồ Tì: dịch âm tiếng Phạn, nghĩa gốc là đốt cháy, thông thường chỉ hỏa táng.
Năm , Ngawang Lhundrup Daji, đệ tử của Tsangyang Gyatso, hoàn thành “Bí truyện”. Còn Đạt Lai thứ Kelzang Gyatso viên tịch ở cung Potala, đã kết thúc cuộc đời huyền diệu mà lại bình thường của mình. Cùng năm, tu viện Guangzong trong núi Hạ Lan[] xây dựng xong, Tsangyang Gyatso được tôn làm Thượng Sư. Trong tu viện thờ cúng tháp chứa nhục thân của Đạt Lai thứ , mãi đến năm vẫn còn.
[] Núi Hạ Lan: nằm ở giao giới Ninh Hạ và Nội Mông Cổ, Trung Quốc, dài khoảng km, đỉnh núi cao nhất .m.
“Nhất trần thổ, vạn thiên cốt, do lai tương tư thôi nhân khổ. Linh lung tâm, hàn băng chú, chích vi đạm mạc vô tình vật. Khả liên tuế nguyệt, mỹ mộng hư độ, vô tận tang thương vô tận lộ, mộng tỉnh lai thời nhân hà xứ?[]” Tình cờ đọc được bài từ này, cảm giác tâm linh đôi chút xao động. Nhưng không biết là ai viết, chỉ cảm thấy người viết bài từ này chắc là một người hiện đại. Câu chữ không hẳn là tuyệt đẹp, nhưng tình cảnh trong bài từ chẳng hiểu vì sao lại thu hút tôi. Nếu bài từ này dùng với cao tăng khác, đương nhiên không hợp ý cảnh, nhưng dùng với nhất đại tình tăng Tsangyang Gyatso, dường như đã thỏa mãn tâm linh. Tuy nói cái chết của cao tăng là Niết bàn, là siêu thoát, nhưng tôi luôn cảm thấy sự ra đi của Tsangyang Gyatso mang một vẻ đẹp buồn khó nói thành lời, và một nỗi tiếc nuối không thể nào hơn.
[] Tạm dịch: Một mảnh đất bụi chứa muôn ngàn xương cốt, xưa nay tương tư khiến người khổ sở. Trái tim hoạt bát đúc thành băng lạnh, chỉ là một vật lạnh nhạt vô tình. Nuối tiếc năm tháng, mộng đẹp uổng phí, tang thương vô tận đường dài vô tận, khi tỉnh mộng người ở nơi nào?
Người nói Tsangyang Gyatso đa tình, đa thiện, không có quá nhiều mùi vị bi lệ. Tình cảnh trong bài từ này không thích hợp với Ngài, huống chi là sau khi Ngài trải qua biển biếc nương dâu, đạt đến cõi Niết bàn Tịnh độ? Chỉ là sinh mệnh vốn dĩ cũng như đất bụi, đi qua hành trình dằng dặc, ai người có thể không tang thương? Ai lại có thể không tỉnh mộng? Không phải năm tháng vô tình, cũng chẳng phải bạn và tôi sống uổng, duyên đến duyên đi, chết sống có nhau, chẳng qua cũng là như thế.