“Thế gian nào có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng.” Đây mới là Tsangyang Gyatso thật sự, Tsangyang Gyatso rong chơi giữa cõi Phật và sông tình, lún sâu trong đó, không thể tự mình thoát ra.
Đại ái vô ngôn[1]. Phật dạy người buông xuống, khiến người hiểu được thương xót, học được khoan dung. Phóng sinh trong hồ mọc đầy hoa sen, tin rằng cầu nguyện kiếp này nhất định sẽ được trọn vẹn. Thắp sáng một ngọn đèn bơ trước Phật, tin rằng kiếp này lầm đường lạc lối cũng có thể tìm ra lối thoát. Xoay chuyển kinh luân trên đường cầu Phật, Tin rằng vận mệnh ba chìm bảy nổi sẽ mây nhạt gió nhẹ từ đây.
[1] Tình yêu lớn lao sâu sắc không cần trực tiếp bày tỏ bằng lời nói.
“Khi ta chưa sinh, ai là ta; khi sinh ta ra, ta là ai.” Mỗi người sinh tồn trên thế gian đều thường hay thốt ra lời cảm thán hoang mang như vậy. Không biết mình là ai, lại không biết ai là mình. Có lúc đi trên đường, luôn cảm thấy một vài người lướt qua dường như đã từng quen biết, nhưng chắc chắn rằng đời này chưa hề gặp gỡ. Lẽ nào kiếp trước từng gặp gỡ bên sông Vong Xuyên? Hoặc là từng lướt qua nhau trên cầu Nại Hà?
Đối với truyền thuyết thần thoại đẹp đẽ đó, nhiều người đều thấy nhung nhớ như số mệnh. Cũng giống như đá tam sinh, trên đá đã viết kiếp trước kiếp này của mình, bạn và tôi một thời đứng bên đá tam sinh, xem luân hồi đến rõ ràng xác thực. Cho rằng như vậy thì có thể ghi nhớ tất cả, không tái phạm lỗi lầm tương tự, không phụ bạc người không nên phụ bạc nữa. Ai hay vội vã qua cầu Nại Hà, vẫn phải uống chén canh Mạnh Bà nấu bằng nước mắt kiếp này của mình. Canh Mạnh Bà là nước quên tình, sau khi uống, liền quên hết tất cả, từ đó đi vào luân hồi với linh hồn sạch sẽ.
Sở dĩ nhiều vị Đạt Lai Lạt Ma trước khi chết dự đoán tung tích linh đồng chuyển thế của mình, là vì họ còn chưa viên tịch, còn chưa đi qua Vong Xuyên, chưa uống nước quên tình. Nếu uống vào, mọi thứ đời này sẽ thật sự trở thành mây khói thoáng qua. Những người được chọn làm linh đồng chuyển thế hoàn toàn không biết kiếp trước của mình, họ là vì lời tiên đoán của người khác và các kiểu suy đoán, mới vì linh hồn của kiếp trước, gánh vác trách nhiệm của kiếp này. Nhưng chúng ta nên tin rằng, Phật là viên mãn, sẽ không trừng phạt bất cứ ai, sẽ không vô duyên vô cớ làm phiền bất cứ ai. Do đó Đạt Lai Lạt Ma các đời, dù trải qua thăng trầm ra sao đều không có bất cứ oán trách nào. Vì mọi thứ của kiếp này, bén duyên ở kiếp trước, dù kiếp này là phúc hay là họa, chúng ta đều phải đối đãi và hóa giải bằng một tấm lòng từ bi mà bình thường.
Một đời của Tsangyang Gyatso quá đỗi mơ hồ, sống mơ hồ, chết mơ hồ, sau khi mất tích ở hồ Thanh Hải lại càng mơ hồ. Ngay cả linh đồng chuyển thế của Ngài cũng khiến người khó phân biệt. Tsangyang Gyatso rốt cuộc có phải là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5 hay không? Nếu không phải, vì sao muôn ngàn người lại cứ tìm kiếm Ngài? Nhưng đã là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5, thì vì sao lại có lòng dạ mềm yếu trăm mối như vậy, vì sao cứ cuốn vào trong cục diện chính trị hỗn loạn, làm con rối nhiều năm, cuối cùng còn gặp phải kiếp nạn phế truất? Đày đọa đến mức trên đường áp giải về kinh, khiến mình tung tích không rõ. Hồ Thanh Hải vì công chúa Văn Thành mà mỹ lệ, vì Tsangyang Gyatso mà ý vị sâu xa.
Tsangyang Gyatso bị người hiểu nhầm là Đạt Lai giả, nhưng trăm tín đồ Tây Tạng kính yêu Ngài, trước sau nhận định Ngài chính là Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, chưa từng thay đổi. Dù Ngài phạm phải lỗi lầm không thể bù đắp, ngồi trên ngai Phật cao ngất, lại tham luyến tình yêu nam nữ trên đời. Phóng đãng trong quán rượu nhỏ của thành Lhasa, lắc mình biến hóa, trở thành tình lang phong lưu tiêu sái trong mộng của nhiều cô gái. Biết bao người bị thơ tình của Ngài mê hoặc đến thần hồn điên đảo, mà quên Ngài là Phật, là một vị Phật sống định sẵn không thể có tình yêu. Sứ mệnh của Ngài chính là sống trong cung Potala, hoằng dương Phật pháp, độ hóa chúng sinh, ngoài ra không có gì khác.
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn không thể nhận định Tsangyang Gyatso rốt cuộc là bệnh chết, hay là mất tích ở hồ Thanh Hải. Cuộc đời Ngài chung quy nên có kết cuộc thế nào mới xem là tròn vẹn, hoặc giả đời người vốn dĩ không có vẹn toàn, hoặc giả bất cứ một kiểu kết cuộc nào cũng là vẹn toàn đối với Ngài. Chúng ta không cần so đo quá nhiều, vướng bận quá nhiều, cũng giống như năm xưa, không cần quan tâm Ngài là Tsangyang Gyatso của cung Potala, hay là Dangsang Wangpo của đường phố Lhasa, Ngài chính là Ngài, Ngài đa tình mà hiền lành. Ngài kết thúc cuộc đời của mình năm hai mươi lăm tuổi, hay sau khi trải qua nhiều truyền kỳ trong “Bí truyện” của Ngawang Lhundrup Daji mới tọa hóa, đã không quan trọng nữa. Vì lịch sử chìm nghỉm im ắng, chúng ta sớm đã không tìm ra được câu trả lời xác định, mọi truy vấn đều là uổng công.
Lại ví dụ, linh đồng chuyển thế của Tsangyang Gyatso rốt cuộc là ai? Là Kelzang Gyatso ở Litang theo lời tiên đoán trong thơ của Ngài chăng? Nếu hai mươi lăm tuổi chết đi ở hồ Thanh Hải, có lẽ linh đồng chuyển thế thật sự là Kelzang. Nếu sáu mươi tư tuổi chết đi, thì lại có khả năng là Ôn Đô Nhĩ Cát Căn do Ngawang Lhundrup Daji lựa chọn. Mà cũng có lẽ chẳng phải là ai, linh đồng chuyển thế của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 nhất đại tình tăng có lẽ chỉ là một nhận vật nhỏ lặng lẽ vô danh, hoặc có lẽ nấn ná bên Vong Xuyên, làm một cây hoa bên bờ, quên mất luân hồi.
Thật ra tôi chẳng thà Tsangyang Gyatso chết ở hồ Thanh Hải, chết vào năm hai mươi lăm tuổi, tôi chẳng hy vọng kiếp sau của Ngài có bao nhiêu thần thông và pháp lực. Đối với tôi, Tsangyang Gyatso là một vị Phật sống sống vì tình. Trong cung Potala, tuy Ngài không dùng hành vi thực tế tạo phúc trăm họ, nhưng thơ tình của Ngài, sự du ngoạn nhân gian của Ngài chính là độ hóa tốt nhất đối với trăm ngàn tín đồ. Mà điều khiến chúng ta ghi lòng tạc dạ, trước sau là vị Phật sống trẻ tuổi tuấn nhã đa tình ấy, là nhu tình phong hoa tuyết nguyệt của Ngài.
“Thế gian nào có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng.” Đây mới là Tsangyang Gyatso thật sự, Tsangyang Gyatso rong chơi giữa cõi Phật và sông tình, lún sâu trong đó, không thể tự mình thoát ra. Ngài đa tình như thế, khiến người đời yêu đến sâu sắc, yêu đến xốn xang. Ngài rốt cuộc là chấp mê, hay là đốn ngộ; là rời được, hay là không rời; là sở hữu, hay là buông xuôi, đều không quan trọng nữa. Đi qua Vong Xuyên, vào lại luân hồi, trở lại trên đời, lại là kiếp mới.
Kiếp này, dù Tsangyang Gyatso diễn vai trò nào, dẫu là người không quen biết gặp gỡ trên đường, vội vã lướt qua nhau cũng nhất định quay đầu vì Ngài. Quên đi thôi, cứ như vậy quên đi thôi. Lãng quên kiếp trước Ngài từng có, kiếp này, và cả kiếp sau. Tất cả đều là bụi trần, tất cả đều sẽ tan thành mây khói. Nếu thật sự không có vết tích, vì sao vẫn có nhiều người như thế trèo đèo lội suối đến Tây Tạng, biết rõ là người dưng yết kiến, lại vẫn si tâm không đổi tìm kiếm kiếp trước kiếp này của Ngài? Tôi nghĩ bởi vì Ngài là Phật của chúng ta, là trân trọng cả đời của chúng ta.
Tôi trồng nhân kiếp này, ai gặt quả kiếp sau. Gió lộng mênh mang chốn cao nguyên không lời, mây trắng đến đi vô tâm không lời, núi thần hồ thánh không lời. Chúng xưa nay đều như thế, vì một lời hứa giản đơn, có thể suốt đời suốt kiếp giữ kín như bưng. Hãy để chúng ta hướng về năm tháng ôn hậu khoan dung, khấn một lời nguyện lương thiện, chỉ nguyện mỗi một dòng sông trên thế gian này đều có thể trong vắt không bụi, mỗi một ngọn núi đều có thể ôn hòa trầm tĩnh, mỗi một vùng thảo nguyên đều có thể không chia đôi bờ. Nguyện non sông tươi đẹp, thời thịnh yên vui.
[] Gặp hay không gặp, Đào Bạch Liên dịch thơ.
Vào một mùa xuân mai nở, tôi viết một câu thế này trên chữ ký cá tính của mình: Biết bao phồn hoa thành mộng cũ, nhân gian hiện lại Bạch Lạc Mai. Bạn nói có cảm giác tái xuất giang hồ, tôi điềm đạm mỉm cười. Khi viết xong cuốn thi truyện này về Tsangyang Gyatso thì đã vào mùa đông lạnh lẽo, mùa đông này, Giang Nam nhiều tuyết. Khi tôi gác bút, khấn một tâm nguyện cuối cùng: nguyện non sông tươi đẹp, thời thịnh yên vui. Sau đó cứ luôn trầm mặc, mãi đến sau Tết, ngắm bên suối cỏ xanh mơn mởn, trong vườn hoa mai nở rộ, mới bừng tỉnh cảm thấy phải kịp thời tranh thủ lấy mùa xuân.
Khoảng thời gian này, tôi biết đến “Phi thành vật nhiễu II[]”, biết trong phim có một bé gái tên Xuyên Xuyên đã đọc một bài thơ - “Kiến dữ bất kiến”. Chính bài thơ này đã cảm động muôn ngàn người, biết bao người lệ rơi đầm đìa vì nó. Trước đó, nhiều người đều cho rằng “Kiến dữ bất kiến” là do Tsangyang Gyatso viết, và mải mê truyền xướng. Mãi đến sau này mới biết là bài thơ “Ban trát cổ lỗ bạch mã đích trầm mặc” do một nhà thơ nữ hiện đại tên Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa[] viết. Mà linh cảm của bài thơ này đến từ một câu nói vô cùng nổi tiếng của đại sư Liên Hoa Sinh: “Ta chưa từng rời bỏ những người tín ngưỡng ta, hay thậm chí người không tin ta, tuy họ không nhìn thấy ta, các con của ta, sẽ mãi mãi, mãi mãi được lòng từ bi của ta bảo vệ.”
[] Phi thành vật nhiễu II: phim điện ảnh của Trung Quốc, đạo diễn Phùng Tiểu Cương, biên kịch Vương Sóc, các diễn viên Cát Ưu, Thư Kỳ, Tôn Hồng Lôi, Diêu Thần, An Dĩ Hiên...
[] Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa (sinh năm ): tên thật Đàm Tiếu Tỉnh, nữ Phật tử người Quảng Đông, hiện tu hành ở Bodhgaya, Ấn Độ.
Còn khi tôi xem được một câu thế này của Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa viết, cũng cảm động sâu sắc. “Cho dù như thế, Đa-đa bằng lòng đem vinh dự quy về Tsangyang Gyatso.” Trương Ái Linh[] từng nói, bởi vì hiểu được, cho nên từ bi. Thứ chúng ta cứ luôn theo đuổi, chẳng phải chính là giữa người và người thêm một phần hiểu nhau, thêm một phần trân trọng, thêm một phần thương xót hay sao? Tin rằng Tsangyang Gyatso cũng sẽ không muốn đòi phần vinh dự này, với tài hoa của Ngài, khí độ của Ngài, tiêu sái của Ngài, há lại để ý cách nhìn của người đời ba trăm năm sau đối với Ngài hay sao?
[] Trương Ái Linh (-): nhà văn nữ của Trung Quốc. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm "Sắc, Giới" và "Chuyện tình giai nhân".
Tsangyang Gyatso từng có được sự tôn vinh cao nhất, được trăm ngàn tín đồ thành kính lễ bái, được nhiều cô gái xinh đẹp trong thành Lhasa kính yêu sâu sắc, đã viết vô số bài thơ tình đau khổ triền miên. Dù có bài thơ “Kiến dữ bất kiến” này hay không, Ngài vẫn là vị tình tăng tuyệt mỹ nhất trong lòng người đời, trên miền đất thần bí gọi là Tây Tạng ấy, trồng đầy hoa tình. Chỉ cần người đi ngang qua nơi ấy, thậm chí người từng đọc thơ tình của Ngài, đều sẽ trúng độc. Nhưng nhiều người biết rõ là độc, lại chẳng hỏi có thuốc giải hay không, uống ực xuống, không oán không hối. Chẳng biết, đây rốt cuộc là sức hấp dẫn của văn chương, hay là sức hấp dẫn của tình yêu, hoặc là trong tối tăm được tính Phật dẫn dắt, một khi chìm lún, khó tự rút ra.
Thật ra, cả đời này của Tsangyang Gyatso đều bị vận mệnh sắp đặt, không thể đi theo phương thức của mình. Vốn sinh ra ở một miền đất nhỏ tươi đẹp gọi là Monyu, có cô gái làng bên mơ xanh ngựa gỗ bầu bạn, vốn cho rằng có thể giữ gìn hạnh phúc bình dị này, yên ổn sống trọn đời. Tiếc rằng Ngài lại là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai Lạt Ma thứ Lobsang Gyatso, đời này phải trả cái giá mênh mang vì ước nợ của kiếp trước. Đệ Ba Sangye Gyatso vì tiếp tục lợi dụng quyền uy của Đạt Lai thứ quản lý chính vụ của Hoàng Giáo, giữ kín không phát tang mười lăm năm đối với cái chết của Lobsang Gyatso. Còn Tsangyang Gyatso cũng đã ẩn mình mười lăm năm, mãi đến khi Ngài vào ở trong cung Potala, tòa cung điện thần thánh này hoàn toàn không cho Ngài kết quả mong muốn.
Tsangyang Gyatso đã làm con cờ của Sangye Gyatso, giống một con chim bị giam cầm trong chiếc lồng hoa lệ, không có quyền lực cao nhất, mất đi vui vẻ tự do. Nếu không phải tìm được con đường thông đến thành Lhasa trong cung Potala, Tsangyang Gyatso cũng sẽ không sở hữu tình yêu ghi lòng tạc dạ ấy. Ở một quán rượu nhỏ tên Makye Ame, Phật sống Tsangyang Gyatso đã trở thành lãng tử Dangsang Wangpo, Ngài đã phải lòng cô gái Qonggyai xinh đẹp, mới bất lực hỏi Phật: Thế gian nào có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng.
Có lẽ chính vì Tsangyang Gyatso là một nhà sư, cho nên tình thâm của Ngài càng khiến người cảm động. Thế gian này có nhiều tình cảm phải gồng gánh quá nhiều bất lực, muốn yêu không thể, muốn thôi chẳng nỡ. Ai lại có thể ngồi yên trên mây, dửng dưng nhìn xuống khói lửa phàm trần mà bản thân không vương chút bụi nhỏ. Tương phùng đẹp đẽ chốn trần thế luôn khiến bạn và tôi tình khó cầm lòng, chỉ là xưa nay chẳng có tình duyên nào thật sự có thể gắn bó trọn đời. Nhưng chúng ta vẫn không hề quản ngại mà yêu, đón nhận luân hồi của gặp gỡ và ly biệt, đón nhận số mệnh nhân quả duyên đến duyên đi. Hôm nay tôi là chu sa trong lòng bạn, ngày mai trăn trở lại chân trời.
Từng có biết bao tình yêu ghi lòng tạc dạ, đều bị chúng ta nhất nhất quét xuống trần ai. Luôn có một số quá khứ sẽ trở thành hồi ức lâu dài, đồng thời không thể lãng quên. Chúng ta luôn muốn có một lẽ vĩnh hằng, nhưng lại có mấy ai bằng lòng tin tưởng vĩnh viễn. Rất nhiều người, không nề ngàn núi muôn sông, đến Tây Tạng, nhặt nhạnh dấu chân của Tsangyang Gyatso. Là vì họ muốn truy tìm một đáp án đã trầm mặc ba trăm năm chăng? Hay chỉ để tìm một bờ bên kia cho tình duyên không chốn đặt tên của mình? Có những người đã quên mất đường về, kiếp này ở lại hồ Thanh Hải, làm tri kỷ trọn đời với nước hồ, trao đổi tâm tính nhu tình với một ngọn cỏ lác. Càng có nhiều người, hối hả đi về, không kịp khấn một tâm nguyện, lại chìm vào trong biển người mênh mang.
Đời người như bèo trôi, tụ tán đôi đường mờ mịt. Lần này ra đi trải qua nhiều năm, muôn dặm núi Bồng, nào đã tham vọng còn sẽ có ngày gặp lại. Sở hữu, chẳng qua là tìm về thứ mình thất lạc, mất đi, cũng chỉ là hai tay dâng trả mọi thứ có được. Xem trời đất lâu dài đều là bèo nước gặp nhau; xem tình sâu ý nặng đều là gió nhẹ mây nhạt. Đến một ngày kia, có lẽ chúng ta sẽ đạt đến cảnh giới không mừng không lụy, không thêm không bớt, không lơi không siết. Chỉ là lúc ấy, ai còn cần một vòng tay ấm ấp, ngả xuống nghỉ ngơi linh hồn mệt mỏi? Ai lại muốn vào ở trong trái tim ai, bình lặng yêu nhau, âm thầm thương tưởng?
Ba trăm năm đã qua, Tsangyang Gyatso trải qua mấy lần luân hồi chuyển thế, Ngài đã tu luyện thành gì? Tôi tin rằng, người từ bi, nguyện đem bản thân héo rụng thành bùn, thiêu đốt thành tro, dù tản mát ở bất cứ ngóc ngách nào trên thế gian này, đều có thể thản nhiên đối diện. Một giấc phù du, chúng ta chẳng qua là ở trong mộng, đạo diễn bản thân, lại ở ngoài mộng, lạnh lùng nhìn nhau, cùng người trong mộng dường như người dưng nước lã.
Người mất như thế, ngàn gọi không về. Biển biếc dàu dàu, nương dâu nhợt nhạt. Đời người chìm nổi, cỏ cây cũng có tình cảm, khói bụi cũng biết ấm lạnh. Nhưng trái tim của chúng ta luôn không tìm được một chốn về bình yên, có thể yên thân gửi phận. Biết bao tâm tình cần nuôi dưỡng, biết bao lời hứa mong đợi thực hiện, còn có biết bao lỗi lầm khao khát làm lại từ đầu. Chỉ là không trở về được nữa, thời gian cuồn cuộn, như nước chảy về đông, chẳng thể quay đầu lại. Một mở một khép, một ly một hợp, một vui một buồn của ba trăm năm trước cũng chỉ là chớp mắt. Có những tình cảm rốt cuộc không thể thay thế, có những duyên phận định sẵn ngắn ngủi như vậy.
Tsangyang Gyatso từng quỳ trước Phật, thốt ra câu hỏi hoang mang mà tình sâu. Đại ái vô ngôn, không cầu mỗi người đều từ bi khoan dung như Phật, chỉ mong mỗi trái tim thêm một chút hiền lành, bớt một chút ý ác. Phải tin rằng, linh hồn của chúng ta rất đỗi yếu đuối, một bài tình ca, một đoạn câu từ, một lối gieo vần, đều có thể khiến nó bồi hồi xao xuyến. Đã là như thế, lại còn có điều gì không thể tha thứ, còn có điều gì không thể chịu đựng?
Hãy hết lòng trân trọng, trân trọng một cuộc tình duyên mà bạn và tôi sở hữu. Để núi thần hồ thánh làm chứng, nói với Tsangyang Gyatso, chúng ta cũng từng thu xếp hành tranh đến kiếp trước tìm Ngài, dù lưu lạc cùng khốn, vẫn vì Ngài dâng hiến trái tim ban sơ tinh khiết đẹp đẽ. Bất kể gặp gỡ hay không, chúng ta đều là những người từng được Ngài cứu rỗi. Đã yêu thích “Kiến dữ bất kiến” như thế, thì lấy bài thơ này làm kết cuộc, giống như khởi đầu của đoạn tình sâu ấy năm xưa.
Nàng gặp, hay không gặp ta
Ta vẫn ở đây
Không mừng, không lụy
Nàng nhớ, hay không nhớ ta
Tình vẫn ở đây
Không còn, không mất
Nàng yêu, hay không yêu ta
Yêu vẫn ở đây
Không thêm, không bớt
Nàng theo, hay không theo ta
Tay ta vẫn nơi nàng
Không lơi, không siết
Hãy ngả vào lòng ta
Hoặc là
Dành cho ta một chỗ trong trái tim nàng
Bình lặng yêu nhau
Âm thầm thương tưởng.
Bạch Lạc Mai
Tháng năm tại sơn trang Lạc Mai