Edit: Càfé Sáng
Tin tức Thiệu Trọng chuyển đến viện cách vách quả thật đã khiến trên dưới Lư gia vui mừng một trận. Danh tiếng của y ở kinh thành rất lớn, cùng với thân thế bi thảm, tình cảnh thê lương, ngoại hình “xinh đẹp”, tài hoa hơn người, thế nhưng lại là “người mù”, nên tự nhiên sẽ khiến nhóm tiểu thư thái thái trong kinh đồng tình thương cảm rồi ùn ùn kéo đến.
Đơn giản chỉ cần nhìn vào thái độ của Lão thái thái với anh ta, thì Thất Nương cũng đủ biết trong kinh anh ta được hoan nghênh đến mức nào rồi.
Ngay cả Thái Lam tình tình thận trọng, khi nghe Thiệu Trọng chuyển đến cách vách cũng hưng phấn hồi lâu, mấy ngày liên tục đều nói về chuyện này, bộ dáng biểu cảm, thật sự có vài phần bóng dáng Thái Bình trong đó.
Vui vẻ nhất là Lư Thụy và Lư Dập, hai cậu nhóc và Thiệu Trọng mặc dù không phải sư trò, nhưng nghĩa sư trò vẫn có, hai cậu lại đang còn nhỏ, tuổi này dễ dàng sinh ra cảm giác sùng bái với người khác nhất. Thiệu Trọng trẻ tuổi, ngoại hình tuấn tú, thái độ thân thiện dễ gần, quan trọng nhất là, thi từ ca phú vô cùng tinh thông, thu thập hai cậu nhóc này là chuyện hết sức dễ dàng.
Chỉ cần để ý quan sát Lư Thụy, thì sẽ có thể nhìn ra, cậu nhóc bị Thiệu Trọng mê hoặc không biết trời đất, cứ mỗi lần đến gặp Thất Nương, thì trong miệng thể nào cũng có vài câu “Thiệu tiên sinh”, không phải là anh ta làm bài thơ này, thì cũng làm bài văn nọ, thậm chí là đàn một khúc nhạc, Lư Thụy cũng phải hết lời khen ngợi hồi lâu.
Đương nhiên, Thiệu Trọng sống cũng chẳng thoải mái gì. Từ lúc chuyển đến cách vách Lư phủ đến nay, tuy rằng giáp mặt với Thất Nương được hai lần, nhưng trước mặt bao người, “kẻ mù” như y làm sao có thể nhìn chằm chằm vào cô nương nhà người ta được? Ngoài ra, hai thằng nhóc Lư gia đến viện của y dạo quanh một vòng, sau đó lại đưa ra một đống vấn đề quá sức tưởng tượng, làm hại Thiệu Trọng mấy ngày trời không ngủ yên thân, suốt ngày chăm chăm trong thư phòng xem sách, e là so với bọn tú tài đi thi còn vất vả hơn.
Lương Khang thì cứ nhắc đến vị Nhị sư tỷ đã rời khỏi kinh thành thì tinh thần vẫn luôn uể oải, cũng chẳng hơi đâu mà đi trào phúng chế giễu Thiệu Trọng, cả ngày ngồi trong viện nhìn trời ngắm mây thẫn thờ.
Thiệu Trọng thật sự không nhìn nổi nữa, dứt khoát xách hắn lên mắng: “Muốn ăn trộm lại không có gan của thằng ăn trộm, nếu đệ là huynh thì đã đuổi theo Nhị sư tỷ từ đời kiếp nào rồi. Suốt ngày chui lủi trong xó nhà thì làm được cái rắm gì!? Sơ sẩy….không cẩn thận một cái, Nhị sư tỷ bị thằng khác nó lừa đi, lúc đó tìm ai mà khóc đây hả?”
“Không đến mức đó chứ.” Vẻ mặt Lương Khang đau khổ nói. Suy nghĩ một chút, mới cảm thấy lời Thiệu Trọng không phải là không có khả năng. Nhị sư tỷ hành y khắp nơi, gặp được nhiều người, khó tránh khỏi bị thằng khác để ý, nếu thằng đó lại mặt dày như Thiệu Trọng, không phải Nhị sư tỷ sẽ bị thằng đó rinh mất hay sao? Nghĩ đến đây, Lương Khang lập tức khẩn trương, tim đập dồn như trống trận, cứ như là Nhị sư tỷ đã bị chúng rinh đi mất rồi vậy.
“Huynh phải đuổi theo ngay mới được!”Lương Khang chà chà tay, khẽ cắn môi, rồi xoay qua nói năng khép nép với Thiệu Trọng: “Trọng ca nhi này, trước kia huynh nói năng không ý tứ, còn chế giễu đệ, là huynh không đúng. Đệ đừng để bụng nhé —”
Thiệu Trọng lườm đến trắng mắt, “Được rồi, nghe huynh nói mà rợn cả người. Dù sao thì huynh phải nhớ kỷ, muốn chộp được vợ phải ghi nhớ hai điều: mặt phải dày, tim phải nhỏ. Nhị sư tỷ không giống với nàng dâu của đệ, tỷ ấy hơi ngốc, huynh muốn cái gì phải nói thẳng, nói rõ ràng với tỷ ấy, nếu không nhất định tỷ ấy sẽ không hiểu được đâu.”
“Nàng có ngốc đâu.” Lương Khang còn muốn biện bạch thay Nhị sư tỷ, nhưng lời vừa nói ra, lại bỗng dưng cảm thấy Thiệu Trọng nói không sai. Nếu không, hắn thích nàng ấy nhiều năm như vậy, sao nàng lại không nhận ra cơ chứ. Nhưng vị Đại tiểu thư Lư gia kia, thông minh đến mức làm người ta đau đầu — cũng chỉ có Thiệu Trọng mới thích cô nương như vậy thôi, quá khó đối phó.
Lương Khang nói đi là đi, lập tức quay về phòng thu dọn đồ đạc, lúc ra cửa, thì hơi ngượng ngùng nhìn Thiệu Trọng xin lỗi: “Ừm….huynh đi rồi, đệ ở đây lại chẳng ai giúp đỡ. Nếu không, để huynh nói Đại sư huynh cho hạ nhân đến đây hầu hạ đệ nhé?”
Thiệu Trọng xua tay với hắn, “Bên ngoài không phải còn có Thường An sao? Nếu Đại sư huynh thực sự cho người đến, viện này của đệ cũng chả đủ chỗ ở. Hơn nữa, bí mật khó giữ nếu nhiều người biết, một khi…bị lộ ra ngoài, thì phiền phức lắm.”
Lương Khang ngẫm nghĩ thấy cũng đúng, lại cẩn thận dặn dò một hổi, mới mang theo hành lý rời đi. Vừa ra đến cửa, Thiệu Trọng đã giữ hắn lại: “Lúc trở về, nhớ bảo là đã tìm được đại phu chữa mắt cho đệ rồi nhé.”
“Hả?” Lương Khang nghiêm túc hỏi lại: “Đệ nghĩ kỹ chưa?”
Thiệu Trọng gật đầu: “Chung quy nàng dâu của đệ cũng không thể gả cho kẻ mù được. Dựa theo gia thế Lư gia bây giờ, vị hôn phu của Đại tiểu thư Lư gia, đương nhiên không thể quá kém.” Về phần nàng dâu của y có nguyện ý hay không, Thiệu Trọng tự tin khẳng định rằng, nàng nhất định thích y.
Lương Khang đi rồi, viện của Thiệu Trọng lập tức trở nên quạnh quẽ.
Lão thái thái nghe được tin thị vệ của Thiệu Trọng ra khỏi thành tìm đại phu chữa mắt cho y thì cảm thán một phen, lại lo lắng Thiệu Trọng bên kia không người chăm sóc, quả thật hận sao không thể lập tức sai nha hoàn của mình sang đó chăm nom. Cũng may Hồ thị ra mặt ngăn cản, bà nói: “Mẫu thân ngài cũng biết rồi đó, bên người Đại không tử làm gì có nha hoàn. Nếu ngài thật sự đem Thúy Ngọc đưa qua, ngược lại là quấy rầy thanh tịnh của cậu ấy.”
“Vậy chẳng lẽ để thằng bé cô đơn một mình bên đó?” Lão thái thái thật sự lo lắng, “Ngay cả một người hầu hạ bên cạnh cũng không có, e là ngay cả cơm nước cũng khó khăn.”
“Dập ca nhi và Thụy ca nhi đã qua thăm viện của cậu ấy rồi, ngoài Lương thị vệ ra, trong viện vẫn còn hai ba người hầu hạ, không đến mức không lo được cơm nước đâu ạ. Hơn nữa, nếu thật không có người hầu hạ, không phải còn có Hàn gia đó sao? Đó mới đúng đắn là nhà cậu của cậu ấy, mấy năm nay vẫn luôn quan hệ thân thiết, không giống những kẻ trong phủ Quốc Công đâu ạ.”
Lão thái thái thả lòng hơn một chút, “Vậy thì được rồi.” Bà ngẫm nghĩ, lại khó hiểu nói: “Tân Nha con nói xem, Trọng ca nhi đang yên lành sống ở ngõ Kim Ngư, sao bỗng dưng lại chuyển nhà nhỉ? Có phải bọn người trong phủ Quốc Công đến ngõ Kim Ngư gây rối không? Nương nghe đâu, hiện giờ trong phủ Quốc Công loạn lắm. Không nói đến Khang thị độc ác âm hiểm, hình như trong phủ còn có ả thiếp thất không biết trên dưới nữa thì phải….”
Hồ thị thở dài, lắc đầu trả lời: “Hình như vậy ạ. Đại công tử oan ức dọn ra, Thiệu đại nhân chẳng những không có ý an ủi, mấy năm nay cũng chưa từng đến thăm lần nào. Không những vậy, Đại công tử muốn hồi phủ thăm Lão Thái gia, còn bị người ngăn lại không cho vào, tặng gì cũng bị ném ra nữa ấy chứ. Nói trắng ra, cũng chỉ là vì tước vị cả, Lão Thái gia trước kia vẫn muốn để Đại công tử thừa tước…”
Lão thái thái nghe vậy thì tức giận vô cùng, giậm chân cả giận nói: “Hổ dữ còn không ăn thịt con, Thiệu gia quả thật quá đáng lắm rồi. Cũng may Thiệu ca nhi sớm dọn ra khỏi phủ, còn không, một đứa trẻ như thằng bé, ở trong cái đầm rồng hang sói đó, có lẽ cả mệnh cũng chẳng còn đâu. Ông trời thật không có mắt mà!”
“Lão thái thái bớt giận ạ.” Hồ thị vội vàng chạy đến thuận khí giúp bà, an ủi nói: “Nay Đại công tử cũng tốt lắm. Mẫu thân cậu để lại không ít đồ cưới, điền trang cửa hàng đều có, thị tỳ các phòng cũng có khả năng, việc làm ăn và thôn trang đều xử lý gọn gàng ngăn nắp. Đại công tử lại có tài, nghe nói Phúc Vương gia rất tán thưởng cậu, nếu sau này hai mắt được chữa khỏi, nhất định tiền đồ sẽ vô lượng thôi.”
Lão thái thái nghe vậy thì nhẹ nhõm thở ra, lại căn dặn Hồ thị để ý chăm sóc Thiệu Trọng một chút. Hồ thị cười đáp: “Mẫu thân yên tâm, con sẽ để ý ạ.”
Chằng bao lâu sau thì đối thoại của hai bà đã truyền đến tai Thất Nương, Thái Lam và Thái Bình hết sức cảm thán, đồng thời cũng mắng mỏ phủ Quốc Công hết lời. Thất Nương chỉ im lặng nghe các nàng nói chuyện, cũng không xen vào. Không phải vì lòng dạ nàng sắt đá, chỉ là Thất Nương đã nhìn thấy được bộ dạng lưu manh xấu bụng của Thiệu Trọng, nên chẳng thể nào liên hệ y với kẻ có số phận đau khổ bi thảm nhất thiên hạ trong truyền thuyết kia được. Tên lưu manh như anh ta, dễ gì chịu để yên cho người khác làm nhục kia chứ? Nói không chừng ngay cả việc này cũng là do anh ta tự khuấy cho đục lên thì có! Nếu không, tại sao mọi chuyện lớn nhỏ trong phủ Quốc Công, mãn kinh thành không người nào không biết?
Thái Lam đã quen bộ dáng như vậy của nàng rồi, nên thấy không sao, nhưng Thái Bình lẫm liệt chính nghĩa, thấy nàng như vậy thì không nhịn được hỏi: “Sao Đại tiểu thư có thể ngồi yên như vậy được ạ? Nô tỳ giận muốn chết luôn đây này!”
Thất Nương cười đáp: “Đại công tử còn chưa nói gì, các cô nặng đầu làm chi? Rốt cuộc vẫn là chuyện nhà người ta, người ngoài như chúng ta không thể xen mồm. Nói không chừng Đại công tử lại thích tự do, còn ước gì được rời nhà ấy chứ.”
Thái Bình kiên quyết lắc đầu, cứ như chính bản thân nàng ta nhìn thấy cảnh Thiệu Trọng bị đuổi ra khỏi phủ Quốc Công vậy, nàng ta buồn bã nói: “Chỉ cần tưởng tượng đến việc chính mình bị phụ thân ruột thịt đối xử tuyệt tình như vậy, nhất định Đại công tử đã mất hết can đảm, sống không bằng chết. Nhiều năm như vậy, cô đơn lạnh lùng thui thủi ngày đêm….”
Lúc này, không chỉ Thất Nương, đến Thái Lam cũng lặng im không nói.
Buổi trưa, nhân lúc Thất Nương nằm trong phòng nghỉ ngơi một chút, Thái Lam đến chỗ những tỷ muội nha hoàn ngày xưa chơi, trước khi đi nàng dặn dò bọn nha hoàn trong viện canh giữ trước cửa phòng.
Trước giờ Thất Nương đều ngủ không sâu, ngay cả buổi tối cũng dễ dàng thức giấc, huống chi là ngủ ban ngày. Vậy nên, khi cửa sổ vừa vang lên những tiếng lách cách khe khẽ, nàng đã lập tức mở mắt ra.
“Ai? Ai ở bên ngoài vậy?” Cũng không biết tại sao, nàng lại bất giác đè thấp giọng nói, sợ bọn nha hoàn ngoài cửa nghe được.
Cửa sổ bị đẩy ra, có cái gì đó được ném vội vào phòng, bay đến trên giường Thất Nương, nàng còn chưa kịp đứng dậy, người nọ đã vụt chạy đi rồi.
Là Thiệu Trọng!
Anh ta lại giở trò này nữa! Thất Nương cũng không rõ bản thân là đang tức giận hay đang buồn bực, có lẽ còn có cả thẹn thùng xấu hổ. Tên vô sỉ này! Lần sau mình nhất định phải —nhất định phải — Thất Nương suy nghĩ hồi lâu, rốt cục vẫn không biết phải làm thế nào. Nàng không thể không thừa nhận rằng, ngoài việc vạch mặt anh ta, nàng chẳng biết làm gì tên vô sỉ chết tiệt này nữa.
Tên chết tiệt ấy còn dám chuyển đến cách vách nhà nàng nữa chứ!
Thất Nương vung tay ném thư của y vào lò xông hương. Lò xông hương bốc lên làn khói nhè nhẹ, chẳng mấy chốc bùng lên ngọn lửa xanh lam, bức thư cũng nhanh chóng bị ngọn lửa nuốt lấy, Thất Nương đột ngột đứng phắt dậy, vội vàng lấy bức thư ra, ném xuống đất rồi giậm chân lên dập lửa, sau đó cắn răng, mở thư ra.
Nếu anh ta đã dám tặng, cớ gì nàng lại không dám xem?!
Thật bất ngờ, bức thư cũng không phải viết những lời nhạc phóng đãng không đứng đắn, cũng không phải những lời thơ sướt mướt triền miên, trên đó chỉ có một khúc nhạc phổ, chính là bài nhạc hôm trước Thiệu Trọng thổi lên bằng sáo.
Đó là khúc nhạc duy nhất Thất Nương biết đàn, lại đàn không tốt. Lúc bé nàng chỉ học đàn chơi chơi, không phải thật sự nghiêm túc học, chỉ ngẫu nhiên đàn vài lần, ngay cả khúc phổ cũng không nhớ được đầy đủ, nên tự nhiên là đàn không tốt.
Không thể không nói, tên Thiệu Trọng khốn kiếp kia tuy rằng to gan lớn mật một chút, nhưng khi tặng quà thì lại thật sự tri kỷ, Thất Nương nhìn khúc nhạc trước mắt, bắt đầu do dự. Trong đầu vang lên giọng nói nghiêm khắc: “Thế này là tự tiện trao nhận, lén lút giao tiếp, vứt ngay đi!”, nhưng rất nhanh, lại có một giọng nói khác nhẹ nhàng nói: “Cũng chẳng phải là cái gì xấu xa, nhận lấy đi, nhận lấy đi.”
Thất Nương thật phiền não.
Nàng mài mực, cẩn thận chép lại khúc nhạc phổ, sau đó vò bức thư lại, ở giữa nhét vào một cục đá, mở cửa sổ, nhắm về phía viện của Thiệu Trọng ném mạnh qua….
Ai mà thèm đồ của anh ta chứ!
“Ối—” một tiếng thét vọng sang, Thất Nương nghe thấy tiếng gào của Thiệu Trọng “Ai ném ông vậy—”
Nàng không nhịn được cười, vừa mới nhếch môi, thì phía bờ tường xuất hiện một cái đầu, Thiệu Trọng làm ra vẻ mặt đáng thương vô tội nhìn nàng. Thất Nương lập tức che miệng, vội vã đóng cửa sổ lại.
Tin tức Thiệu Trọng chuyển đến viện cách vách quả thật đã khiến trên dưới Lư gia vui mừng một trận. Danh tiếng của y ở kinh thành rất lớn, cùng với thân thế bi thảm, tình cảnh thê lương, ngoại hình “xinh đẹp”, tài hoa hơn người, thế nhưng lại là “người mù”, nên tự nhiên sẽ khiến nhóm tiểu thư thái thái trong kinh đồng tình thương cảm rồi ùn ùn kéo đến.
Đơn giản chỉ cần nhìn vào thái độ của Lão thái thái với anh ta, thì Thất Nương cũng đủ biết trong kinh anh ta được hoan nghênh đến mức nào rồi.
Ngay cả Thái Lam tình tình thận trọng, khi nghe Thiệu Trọng chuyển đến cách vách cũng hưng phấn hồi lâu, mấy ngày liên tục đều nói về chuyện này, bộ dáng biểu cảm, thật sự có vài phần bóng dáng Thái Bình trong đó.
Vui vẻ nhất là Lư Thụy và Lư Dập, hai cậu nhóc và Thiệu Trọng mặc dù không phải sư trò, nhưng nghĩa sư trò vẫn có, hai cậu lại đang còn nhỏ, tuổi này dễ dàng sinh ra cảm giác sùng bái với người khác nhất. Thiệu Trọng trẻ tuổi, ngoại hình tuấn tú, thái độ thân thiện dễ gần, quan trọng nhất là, thi từ ca phú vô cùng tinh thông, thu thập hai cậu nhóc này là chuyện hết sức dễ dàng.
Chỉ cần để ý quan sát Lư Thụy, thì sẽ có thể nhìn ra, cậu nhóc bị Thiệu Trọng mê hoặc không biết trời đất, cứ mỗi lần đến gặp Thất Nương, thì trong miệng thể nào cũng có vài câu “Thiệu tiên sinh”, không phải là anh ta làm bài thơ này, thì cũng làm bài văn nọ, thậm chí là đàn một khúc nhạc, Lư Thụy cũng phải hết lời khen ngợi hồi lâu.
Đương nhiên, Thiệu Trọng sống cũng chẳng thoải mái gì. Từ lúc chuyển đến cách vách Lư phủ đến nay, tuy rằng giáp mặt với Thất Nương được hai lần, nhưng trước mặt bao người, “kẻ mù” như y làm sao có thể nhìn chằm chằm vào cô nương nhà người ta được? Ngoài ra, hai thằng nhóc Lư gia đến viện của y dạo quanh một vòng, sau đó lại đưa ra một đống vấn đề quá sức tưởng tượng, làm hại Thiệu Trọng mấy ngày trời không ngủ yên thân, suốt ngày chăm chăm trong thư phòng xem sách, e là so với bọn tú tài đi thi còn vất vả hơn.
Lương Khang thì cứ nhắc đến vị Nhị sư tỷ đã rời khỏi kinh thành thì tinh thần vẫn luôn uể oải, cũng chẳng hơi đâu mà đi trào phúng chế giễu Thiệu Trọng, cả ngày ngồi trong viện nhìn trời ngắm mây thẫn thờ.
Thiệu Trọng thật sự không nhìn nổi nữa, dứt khoát xách hắn lên mắng: “Muốn ăn trộm lại không có gan của thằng ăn trộm, nếu đệ là huynh thì đã đuổi theo Nhị sư tỷ từ đời kiếp nào rồi. Suốt ngày chui lủi trong xó nhà thì làm được cái rắm gì!? Sơ sẩy….không cẩn thận một cái, Nhị sư tỷ bị thằng khác nó lừa đi, lúc đó tìm ai mà khóc đây hả?”
“Không đến mức đó chứ.” Vẻ mặt Lương Khang đau khổ nói. Suy nghĩ một chút, mới cảm thấy lời Thiệu Trọng không phải là không có khả năng. Nhị sư tỷ hành y khắp nơi, gặp được nhiều người, khó tránh khỏi bị thằng khác để ý, nếu thằng đó lại mặt dày như Thiệu Trọng, không phải Nhị sư tỷ sẽ bị thằng đó rinh mất hay sao? Nghĩ đến đây, Lương Khang lập tức khẩn trương, tim đập dồn như trống trận, cứ như là Nhị sư tỷ đã bị chúng rinh đi mất rồi vậy.
“Huynh phải đuổi theo ngay mới được!”Lương Khang chà chà tay, khẽ cắn môi, rồi xoay qua nói năng khép nép với Thiệu Trọng: “Trọng ca nhi này, trước kia huynh nói năng không ý tứ, còn chế giễu đệ, là huynh không đúng. Đệ đừng để bụng nhé —”
Thiệu Trọng lườm đến trắng mắt, “Được rồi, nghe huynh nói mà rợn cả người. Dù sao thì huynh phải nhớ kỷ, muốn chộp được vợ phải ghi nhớ hai điều: mặt phải dày, tim phải nhỏ. Nhị sư tỷ không giống với nàng dâu của đệ, tỷ ấy hơi ngốc, huynh muốn cái gì phải nói thẳng, nói rõ ràng với tỷ ấy, nếu không nhất định tỷ ấy sẽ không hiểu được đâu.”
“Nàng có ngốc đâu.” Lương Khang còn muốn biện bạch thay Nhị sư tỷ, nhưng lời vừa nói ra, lại bỗng dưng cảm thấy Thiệu Trọng nói không sai. Nếu không, hắn thích nàng ấy nhiều năm như vậy, sao nàng lại không nhận ra cơ chứ. Nhưng vị Đại tiểu thư Lư gia kia, thông minh đến mức làm người ta đau đầu — cũng chỉ có Thiệu Trọng mới thích cô nương như vậy thôi, quá khó đối phó.
Lương Khang nói đi là đi, lập tức quay về phòng thu dọn đồ đạc, lúc ra cửa, thì hơi ngượng ngùng nhìn Thiệu Trọng xin lỗi: “Ừm….huynh đi rồi, đệ ở đây lại chẳng ai giúp đỡ. Nếu không, để huynh nói Đại sư huynh cho hạ nhân đến đây hầu hạ đệ nhé?”
Thiệu Trọng xua tay với hắn, “Bên ngoài không phải còn có Thường An sao? Nếu Đại sư huynh thực sự cho người đến, viện này của đệ cũng chả đủ chỗ ở. Hơn nữa, bí mật khó giữ nếu nhiều người biết, một khi…bị lộ ra ngoài, thì phiền phức lắm.”
Lương Khang ngẫm nghĩ thấy cũng đúng, lại cẩn thận dặn dò một hổi, mới mang theo hành lý rời đi. Vừa ra đến cửa, Thiệu Trọng đã giữ hắn lại: “Lúc trở về, nhớ bảo là đã tìm được đại phu chữa mắt cho đệ rồi nhé.”
“Hả?” Lương Khang nghiêm túc hỏi lại: “Đệ nghĩ kỹ chưa?”
Thiệu Trọng gật đầu: “Chung quy nàng dâu của đệ cũng không thể gả cho kẻ mù được. Dựa theo gia thế Lư gia bây giờ, vị hôn phu của Đại tiểu thư Lư gia, đương nhiên không thể quá kém.” Về phần nàng dâu của y có nguyện ý hay không, Thiệu Trọng tự tin khẳng định rằng, nàng nhất định thích y.
Lương Khang đi rồi, viện của Thiệu Trọng lập tức trở nên quạnh quẽ.
Lão thái thái nghe được tin thị vệ của Thiệu Trọng ra khỏi thành tìm đại phu chữa mắt cho y thì cảm thán một phen, lại lo lắng Thiệu Trọng bên kia không người chăm sóc, quả thật hận sao không thể lập tức sai nha hoàn của mình sang đó chăm nom. Cũng may Hồ thị ra mặt ngăn cản, bà nói: “Mẫu thân ngài cũng biết rồi đó, bên người Đại không tử làm gì có nha hoàn. Nếu ngài thật sự đem Thúy Ngọc đưa qua, ngược lại là quấy rầy thanh tịnh của cậu ấy.”
“Vậy chẳng lẽ để thằng bé cô đơn một mình bên đó?” Lão thái thái thật sự lo lắng, “Ngay cả một người hầu hạ bên cạnh cũng không có, e là ngay cả cơm nước cũng khó khăn.”
“Dập ca nhi và Thụy ca nhi đã qua thăm viện của cậu ấy rồi, ngoài Lương thị vệ ra, trong viện vẫn còn hai ba người hầu hạ, không đến mức không lo được cơm nước đâu ạ. Hơn nữa, nếu thật không có người hầu hạ, không phải còn có Hàn gia đó sao? Đó mới đúng đắn là nhà cậu của cậu ấy, mấy năm nay vẫn luôn quan hệ thân thiết, không giống những kẻ trong phủ Quốc Công đâu ạ.”
Lão thái thái thả lòng hơn một chút, “Vậy thì được rồi.” Bà ngẫm nghĩ, lại khó hiểu nói: “Tân Nha con nói xem, Trọng ca nhi đang yên lành sống ở ngõ Kim Ngư, sao bỗng dưng lại chuyển nhà nhỉ? Có phải bọn người trong phủ Quốc Công đến ngõ Kim Ngư gây rối không? Nương nghe đâu, hiện giờ trong phủ Quốc Công loạn lắm. Không nói đến Khang thị độc ác âm hiểm, hình như trong phủ còn có ả thiếp thất không biết trên dưới nữa thì phải….”
Hồ thị thở dài, lắc đầu trả lời: “Hình như vậy ạ. Đại công tử oan ức dọn ra, Thiệu đại nhân chẳng những không có ý an ủi, mấy năm nay cũng chưa từng đến thăm lần nào. Không những vậy, Đại công tử muốn hồi phủ thăm Lão Thái gia, còn bị người ngăn lại không cho vào, tặng gì cũng bị ném ra nữa ấy chứ. Nói trắng ra, cũng chỉ là vì tước vị cả, Lão Thái gia trước kia vẫn muốn để Đại công tử thừa tước…”
Lão thái thái nghe vậy thì tức giận vô cùng, giậm chân cả giận nói: “Hổ dữ còn không ăn thịt con, Thiệu gia quả thật quá đáng lắm rồi. Cũng may Thiệu ca nhi sớm dọn ra khỏi phủ, còn không, một đứa trẻ như thằng bé, ở trong cái đầm rồng hang sói đó, có lẽ cả mệnh cũng chẳng còn đâu. Ông trời thật không có mắt mà!”
“Lão thái thái bớt giận ạ.” Hồ thị vội vàng chạy đến thuận khí giúp bà, an ủi nói: “Nay Đại công tử cũng tốt lắm. Mẫu thân cậu để lại không ít đồ cưới, điền trang cửa hàng đều có, thị tỳ các phòng cũng có khả năng, việc làm ăn và thôn trang đều xử lý gọn gàng ngăn nắp. Đại công tử lại có tài, nghe nói Phúc Vương gia rất tán thưởng cậu, nếu sau này hai mắt được chữa khỏi, nhất định tiền đồ sẽ vô lượng thôi.”
Lão thái thái nghe vậy thì nhẹ nhõm thở ra, lại căn dặn Hồ thị để ý chăm sóc Thiệu Trọng một chút. Hồ thị cười đáp: “Mẫu thân yên tâm, con sẽ để ý ạ.”
Chằng bao lâu sau thì đối thoại của hai bà đã truyền đến tai Thất Nương, Thái Lam và Thái Bình hết sức cảm thán, đồng thời cũng mắng mỏ phủ Quốc Công hết lời. Thất Nương chỉ im lặng nghe các nàng nói chuyện, cũng không xen vào. Không phải vì lòng dạ nàng sắt đá, chỉ là Thất Nương đã nhìn thấy được bộ dạng lưu manh xấu bụng của Thiệu Trọng, nên chẳng thể nào liên hệ y với kẻ có số phận đau khổ bi thảm nhất thiên hạ trong truyền thuyết kia được. Tên lưu manh như anh ta, dễ gì chịu để yên cho người khác làm nhục kia chứ? Nói không chừng ngay cả việc này cũng là do anh ta tự khuấy cho đục lên thì có! Nếu không, tại sao mọi chuyện lớn nhỏ trong phủ Quốc Công, mãn kinh thành không người nào không biết?
Thái Lam đã quen bộ dáng như vậy của nàng rồi, nên thấy không sao, nhưng Thái Bình lẫm liệt chính nghĩa, thấy nàng như vậy thì không nhịn được hỏi: “Sao Đại tiểu thư có thể ngồi yên như vậy được ạ? Nô tỳ giận muốn chết luôn đây này!”
Thất Nương cười đáp: “Đại công tử còn chưa nói gì, các cô nặng đầu làm chi? Rốt cuộc vẫn là chuyện nhà người ta, người ngoài như chúng ta không thể xen mồm. Nói không chừng Đại công tử lại thích tự do, còn ước gì được rời nhà ấy chứ.”
Thái Bình kiên quyết lắc đầu, cứ như chính bản thân nàng ta nhìn thấy cảnh Thiệu Trọng bị đuổi ra khỏi phủ Quốc Công vậy, nàng ta buồn bã nói: “Chỉ cần tưởng tượng đến việc chính mình bị phụ thân ruột thịt đối xử tuyệt tình như vậy, nhất định Đại công tử đã mất hết can đảm, sống không bằng chết. Nhiều năm như vậy, cô đơn lạnh lùng thui thủi ngày đêm….”
Lúc này, không chỉ Thất Nương, đến Thái Lam cũng lặng im không nói.
Buổi trưa, nhân lúc Thất Nương nằm trong phòng nghỉ ngơi một chút, Thái Lam đến chỗ những tỷ muội nha hoàn ngày xưa chơi, trước khi đi nàng dặn dò bọn nha hoàn trong viện canh giữ trước cửa phòng.
Trước giờ Thất Nương đều ngủ không sâu, ngay cả buổi tối cũng dễ dàng thức giấc, huống chi là ngủ ban ngày. Vậy nên, khi cửa sổ vừa vang lên những tiếng lách cách khe khẽ, nàng đã lập tức mở mắt ra.
“Ai? Ai ở bên ngoài vậy?” Cũng không biết tại sao, nàng lại bất giác đè thấp giọng nói, sợ bọn nha hoàn ngoài cửa nghe được.
Cửa sổ bị đẩy ra, có cái gì đó được ném vội vào phòng, bay đến trên giường Thất Nương, nàng còn chưa kịp đứng dậy, người nọ đã vụt chạy đi rồi.
Là Thiệu Trọng!
Anh ta lại giở trò này nữa! Thất Nương cũng không rõ bản thân là đang tức giận hay đang buồn bực, có lẽ còn có cả thẹn thùng xấu hổ. Tên vô sỉ này! Lần sau mình nhất định phải —nhất định phải — Thất Nương suy nghĩ hồi lâu, rốt cục vẫn không biết phải làm thế nào. Nàng không thể không thừa nhận rằng, ngoài việc vạch mặt anh ta, nàng chẳng biết làm gì tên vô sỉ chết tiệt này nữa.
Tên chết tiệt ấy còn dám chuyển đến cách vách nhà nàng nữa chứ!
Thất Nương vung tay ném thư của y vào lò xông hương. Lò xông hương bốc lên làn khói nhè nhẹ, chẳng mấy chốc bùng lên ngọn lửa xanh lam, bức thư cũng nhanh chóng bị ngọn lửa nuốt lấy, Thất Nương đột ngột đứng phắt dậy, vội vàng lấy bức thư ra, ném xuống đất rồi giậm chân lên dập lửa, sau đó cắn răng, mở thư ra.
Nếu anh ta đã dám tặng, cớ gì nàng lại không dám xem?!
Thật bất ngờ, bức thư cũng không phải viết những lời nhạc phóng đãng không đứng đắn, cũng không phải những lời thơ sướt mướt triền miên, trên đó chỉ có một khúc nhạc phổ, chính là bài nhạc hôm trước Thiệu Trọng thổi lên bằng sáo.
Đó là khúc nhạc duy nhất Thất Nương biết đàn, lại đàn không tốt. Lúc bé nàng chỉ học đàn chơi chơi, không phải thật sự nghiêm túc học, chỉ ngẫu nhiên đàn vài lần, ngay cả khúc phổ cũng không nhớ được đầy đủ, nên tự nhiên là đàn không tốt.
Không thể không nói, tên Thiệu Trọng khốn kiếp kia tuy rằng to gan lớn mật một chút, nhưng khi tặng quà thì lại thật sự tri kỷ, Thất Nương nhìn khúc nhạc trước mắt, bắt đầu do dự. Trong đầu vang lên giọng nói nghiêm khắc: “Thế này là tự tiện trao nhận, lén lút giao tiếp, vứt ngay đi!”, nhưng rất nhanh, lại có một giọng nói khác nhẹ nhàng nói: “Cũng chẳng phải là cái gì xấu xa, nhận lấy đi, nhận lấy đi.”
Thất Nương thật phiền não.
Nàng mài mực, cẩn thận chép lại khúc nhạc phổ, sau đó vò bức thư lại, ở giữa nhét vào một cục đá, mở cửa sổ, nhắm về phía viện của Thiệu Trọng ném mạnh qua….
Ai mà thèm đồ của anh ta chứ!
“Ối—” một tiếng thét vọng sang, Thất Nương nghe thấy tiếng gào của Thiệu Trọng “Ai ném ông vậy—”
Nàng không nhịn được cười, vừa mới nhếch môi, thì phía bờ tường xuất hiện một cái đầu, Thiệu Trọng làm ra vẻ mặt đáng thương vô tội nhìn nàng. Thất Nương lập tức che miệng, vội vã đóng cửa sổ lại.