Quán Cocktail Holiday nằm trên đường St. Mark trong khu Làng Đông lúc nào cũng là Giáng Sinh, những ngọn đèn mở áo nhấp nháy được thắp sáng quanh năm cũng như những đồ trang trí lấp lánh kim tuyến được treo đầy rìa của quầy thanh toán và một cái cây trông đến là vui mắt ở phía sau quầy. Quán Cocktail Holiday - như người ta thường gọi là một trụ sở ở New York. Quán đã từng là nơi bán rượu lậu trong thời kỳ cấm Rượu và khách hàng quen thuộc của nó có thể kể đến nhà thơ W.H. Auden - người sống kế cạnh quán Cocktail Holiday và Trotsky - bên kia con phố. Không ai có thể hiểu tại sao quán Cocktail Holiday này có thể tồn tại lâu đến thế. Việc quán này lúc nào cũng đông đúc, sôi nổi là chuyện rất bất thường trong một thành phố - nơi những dải lụa buộc trên những chiếc chai sâm banh hàng nghìn đô la đã trở thành một chuẩn mực. Có thể đó là do những cốc cocktail theo đúng sở thích khách hàng - nhân viên pha chế của quán có vẻ như luôn biết được là bạn muốn uống gì - hoặc có thể do cái không khí ấm cúng, cảm giác yên tĩnh của nơi đây như gọi mời mỗi khi ai đó bước ngang qua cửa quán. Mà cũng có thể đó là do tiếng hát của nhóm Rolling Stones vang vang từ cái máy hát cũ, từ mọi trái tim và từ những khát khao, mong mỏi. Thời gian không chỉ ngừng trôi ở quán Holiday, mà nó còn đứng yên, đông đặc lại như hổ phách, đặc quánh giống như loại whiskey tự pha chế của quán.
Cũng khá thú vị. Suốt một khoảng thời gian tồn tại lâu như thế, quán này chưa từng bị đột kích, còn lượng khách quen cứ tăng dần của nó cũng không bao giờ bị bắt áp tai lên những chiếc xe chở hàng và tống vào trại giam. Trong khi những cửa hàng kế bên thường xuyên bị thu giấy phép kinh doanh thì quán Holiday lại tồn tại đến tận giờ, không những thế còn phát đạt, ăn lên làm ra. Nó vẫn tiếp tục phục vụ những khách hàng trung tâm như: giới trẻ vui nhộn, lớp già mệt mỏi, những nhà báo dày dạn kinh nghiệm trong thành phố, đến từ những tờ báo lá cải đối lập nhau rồi cả hàng đoàn khách du lịch đang kiếm tìm một trải nghiệm “thực tế” tại New York.
Đã cuối tháng mười một nên chỉ vài tuần nữa thôi thì mấy thứ đồ trang trí quanh năm của quán Holiday sẽ trở nên thích hợp. Trong suốt mùa Giáng Sinh chủ quán thích cho thêm những đồ trang trí mới - một vòng hoa xanh treo trên cửa, những tấm thảm đầy màu sắc có hình đặc trưng là ông già Noel và mấy chú yêu tinh nhỏ cùng một cây đàn thanh nhã treo bên khung cửa sổ.
Lúc Oliver Hazard-Perry bước vào quán mơi là năm rưỡi chiều, thế nhưng trong quán đã đông kín người. Oliver bắt đầu tới quán này kể từ hồi cậu kiếm được cái chứng minh thư giả lúc cậu mười bốn tuổi. Cậu bẻ cao cổ áo rồi lê bước vào quán, đi ngang qua đám đàn ông quen thuộc với nhưng cái mặt chảy dài, giọng nói hạ thấp, vừa chầm chậm nhấm nháp đồ uống của mình vừa than thở về nhưng thất bại họ gặp phải.
Oliver tới chỗ ghế cuối cũng còn lại ở quầy bar, tránh xa tụi học sinh ồn ào đã đến sớm chiếm chỗ và đang lóng ngóng chơi phóng phi tiêu. Quán Holiday chẳng có gì hấp dẫn đối với mấy người lắm tiền thích khoe khoang thẻ American Express màu đen cả. (Trong bất cứ hoàn cảnh nào thì quán cũng chỉ chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt). Holiday là bến cảng trong cơn bão cho những ai đang kiếm tìm một mái che, bất kể chuyện gì xảy ra bên ngoài cửa của nó - phá sản, khải huyền, sụt giá - thì người ta vẫn có thể thấy được an ủi và thấy thoái mái với một ly rượu của quán.
Đó chính xác là điều đã làm Oliver tiếp tục tới quán này. Không biết sao chỉ cần ở trong quán Holiday cũng làm cho cậu cảm thấy tốt hơn rồi.
- Vẫn như thường lệ chứ? - Nhân viên pha chế hỏi.
Oliver gật đầu, thấy vừa cảm kích vừa có chút hãnh diện vì đã được nhận ra. điều này trước đây chưa từng xảy ra cho đến một tuần trước.
Người pha chế đẩy cốc whiskey - loại rượu nổi tiếng của quán tới trước mặt Oliver. Cậu nốc một hơi hết một cốc rồi cốc nữa, cốc nữa. Uống whiskey nhắc cậu nhớ về việc Schuyler đã báo cậu whiskey có vị gần với vị máu của cậu như thế nào. Giống như lửa và muối. Nỗi buồn sầu là thứ gì đó mà cậu có thể chạm vào, giống như vảy của vết thương sắp lành trên cổ cậu. Cậu thích gãi chúng cho đến khi vết thương chảy máu ra mới thôi, để thấy mình có thể làm cho chúng tệ hại hơn đến mức nào. Cậu thực sự là nên thôi không uống whiskey nữa. Nó nhắc cậu nhớ quá nhiều về Schuyler. Nhưng tất cả mọi thứ trong cái thành phố chết tiệt này đều nhắc cậu nhớ về cô mà.
Không thể thoát được. Không có cách nào để thoát khỏi nỗi nhớ ấy. Ban đêm cậu mơ thấy cô, mơ về khoảng thời gian họ đã ở bên nhau, về việc họ ngủ như thế nào, lưng tựa lưng ra sao. Rồi cậu nhớ tới hương thơm trên tóc cô sau khi tắm, cái cách mắt cô nheo lại mỗi khi cô cười. Rồi khi sáng thức dậy cậu sẽ bơ phờ, căng thẳng như một người đang sống dở chết dở. Cô ấy đã đi từ tháng trước rồi và sẽ không quay lại. Ít nhất thì cũng không quay lại với cậu, cậu đã hiểu ra điều đó. Gần như cậu đã để cô đi, không phải vì cô là của cậu mà cậu cho đi mà là cô sẽ không bao giờ bỏ đi. Cậu hiểu rõ mức độ trung thành của cô bởi vì chính nó cũng đã thấm sâu trong máu cậu.
Cậu đã làm đúng - cậu biết điều đó - nhưng dù sao thì nó cũng vẫn đau lắm. Nó làm cậu đau vì cậu biết cô ấy yêu mình, cô ấy đã nói rất nhiều lần với cậu. Nhưng nó chỉ là... chỉ là thế vẫn chưa đủ, chỉ là không giống như cái cách cô yêu người khác. Oliver không muốn mình là người thứ hai, không muốn nhận một phần thưởng an ủi; cậu không mong chờ lòng trung thành hay tình bạn. Cậu muốn có cả trái tim của cô và cậu biết mình sẽ không bao giờ có được nó. Đó là một thách thức, khó mà vượt qua.
Giá như cậu có thể quên được cô ấy. Nhưng từng mạch máu trong người đều đang khát khao cô, khát khao được đôi môi mềm mại của cô hôn lên cổ, khát khao cảm thấy răng nanh của cô khi chúng đâm xuyên qua da mình rồi làm cậu tràn ngập cảm giác thỏa mãn. Bây giờ thì toàn bộ cơ thể cậu đều đã cảm thấy sự mất mát ấy. Cơ thể ấy đang cùng đau buồn, than khóc với tâm hồn cậu. Cậu giơ một ngón tay lên ra hiệu thêm cốc nữa.
- Bình tĩnh nào anh chàng cao bồi - nữ nhân viên pha chế vừa mỉm cười vừa bảo - Xem nào, cốc thứ tư rồi phải không? Còn chưa tới sáu giờ mà.
- Tôi cần uống - Oliver lầm bầm.
- Để làm gì?
Cậu lắc đầu, còn người pha chế liền quay sang hướng khác để săn sóc các hành khách phía đó.
Oliver lấy ngón tay mân mê tấm thẻ trong túi, lần theo những con chữ khắc bên trên. Đó là tên của một nơi bí mật dùng để phục vụ những người giống như cậu - những Máu Đỏ đã bị ma cà rồng của mình bỏ rơi - những thân cận con người đang đau đớn vì nhu cầu không được thỏa mãn. Cậu nhớ lại sự dũng cảm của mình lúc nói với Mimi vào cái đêm họ tới nơi đó lần đầu - sự dũng cảm giả tạo cậu cố tạo ra. Tất cả đều là dối trá. Cậu thừa biết rồi mình cũng sớm kết thúc cuộc đời ở cái nơi đó thôi. Cậu cần được chữa trị - chỉ cần một miếng cắn mà thôi - bây giờ việc Schuyler không phải là người thực hiện nó cũng chẳng còn quan trọng nữa. Cậu chỉ muốn cảm thấy được thỏa mãn hoàn toàn một lần nữa thôi. Cậu muốn có ai đó làm cho nỗi đau này mất đi, để giúp cậu quên đi. Tất nhiên là cậu cũng hiểu như thế sẽ nguy hiểm thế nào - tâm thần phân liệt, nhiễm trùng, nghiện ngập và khả năng là chỉ sau một đêm thôi cậu sẽ không muốn rời đó mà đi nữa. Nhưng cậu phải tới đó. Bất cứ thứ gì xảy đến cũng sẽ tốt hơn việc phải sống chung với nỗi cô đơn kinh khủng này. Cậu nốc cạn một hơi cốc rượu với vẻ đầy thù hằn, dằn mạnh chiếc cốc xuống mặt bàn rồi ra hiệu cho nhân viên pha chế lần nữa.
- Cậu có nghĩ là cậu cần nó cho bất cứ điều gì đi nữa thì có lẽ cậu cũng không nên làm thế - Cô phục vụ bảo khi vừa lau bàn vừa đưa cho cậu một ly khác. Người pha chế này đã làm việc ở quán Holiday từ hồi cậu bắt đầu lén đi vào quán khi mới đang học lớp tám và cậu nhận ra cô ấy có vẻ không bao giờ già đi cả. Trông cô ấy giống y như ngày cậu mới gặp lần đầu, chưa qua tuổi mười tám dù chỉ một ngày, mái tóc xoăn dài và đôi mắt xanh có hồn, đầy thu hút. Chiếc áo trắng cắt khép của cô chỉ dể lộ dấu hiệu về một làn da rám nắng và chiếc bụng phẳng.
Oliver cũng vẫn luôn có chút cảm tình với cô nhưng cậu quá e dè để làm bất cứ điều gì ngoài việc để lại tiền boa một cách hào phóng. Không phải vì đó là việc không hy vọng gì mà nó giống như việc bị một ngôi sao điện ảnh thu hút vậy – khả năng được người ta đáp lại là rất thấp, thậm chí là zero.
Cậu ngạc nhiên khi thấy cô có vẻ quan tâm.
- Tôi là Freya - cô nói và đưa tay ra.
- Oliver - Cậu chào lại rồi bắt tay cô. Làn da tay cô mềm mại như vải lụa cashmere. Cậu cố giữ cho mặt mình không đỏ ửng lên.
- Tôi biết. Anh chàng với chứng minh giả đến từ Hawaii - Cô vừa đáp lời vừa cười lớn - Tại sao lúc nào cũng là Hawaii nhỉ? Có phải vì nó dễ để copy không? Chắc là thế rồi. À mà đừng có vẻ ngạc nhiên như thế chớ. Tôi biết từ lâu rồi.
- Quán các cô không bị đột kích à?
- Cứ để bọn họ thử xem - Freya nháy mắt - Mà này, tôi không thấy cậu đến quán khoảng một năm rồi đấy. Giờ thì tối nào cũng thấy. Có chuyện gì vậy?
Cậu lắc đầu.
- Cô bạn nhỏ của cậu đâu rồi? Lúc nào cũng thấy các cậu tới đây cùng nhau mà.
- Cô ấy đi rồi.
- À - Freya gật đầu - Thế là cô ấy thiệt rồi.
Oliver phá lên cười một cách trống rỗng.
- Ay. Đúng thế - Cô ấy thiệt. Cậu không nghi ngờ chuyện Schuyler nhớ mình, tất nhiên là cô ấy nhớ rồi. Nhưng cậu biết lúc này Schuyler đang hạnh phúc hơn nhiều vì được ở bên Jack. Thiệt thòi, mất mát chỉ thuộc về phần cậu mà thôi. Cậu đưa tay lấy ví rồi rút ra vài tờ hai mươi đô la.
Cô phục vụ xinh đẹp xua tay từ chối.
- Tối nay tiền của cậu không thích hợp chút nào. Chỉ cần giúp tôi một chuyện thôi. Dù cậu có định làm bất cứ điều gì thì cũng đừng làm thế. Vì nó sẽ chẳng giúp gì cho cậu cả.
Cậu lắc đầu rồi đặt mấy tờ tiền lên quầy coi như tiền boa.
- Cám ơn vì mấy ly rượu. Nhưng tôi không hiểu cô đang nói về chuyện gì - Oliver lầm bầm mà không nhìn vào mắt cô gái. Cô ấy biết gì về chuyện cậu đang định làm chứ? Cô ấy quan tâm tới cái gì chứ?
Oliver ra khỏi quán, bước vào không gian với bầu trời đêm New York không chút mây. Cách đây không lâu, cũng những đêm như thế này cậu và Schuyler vẫn thơ thẩn dạo chơi quanh thành phố một cách tùy hứng. Sẽ chẳng còn những đêm khuya ngồi uống cappuccino ở quán Café Reggio nữa. Chẳng còn những lần lẻn vào mấy quán rượu bé xíu ngồi nghe các ca sĩ đồng quê đang được ưa chuộng hát. Không còn những buổi tạm biệt trời đêm để đón chào bình minh với một bữa sáng ngon lành ở Yaffa. Sẽ chẳng còn những thứ như thế nữa. Không còn lần nào nữa. Không bao giờ được như thế nữa.
Mà thôi, mặc kệ. Chiếc xe và tài xế của cậu đang ngồi chờ cậu bên đường kia rồi. Cậu đưa cho người tài xế địa chỉ đến. Sau đêm nay cậu sẽ quên tất cả, kể cả tên của cô ấy. Nếu may mắn cậu còn có thể quên cả tên của chính mình nữa.
Quán Cocktail Holiday nằm trên đường St. Mark trong khu Làng Đông lúc nào cũng là Giáng Sinh, những ngọn đèn mở áo nhấp nháy được thắp sáng quanh năm cũng như những đồ trang trí lấp lánh kim tuyến được treo đầy rìa của quầy thanh toán và một cái cây trông đến là vui mắt ở phía sau quầy. Quán Cocktail Holiday - như người ta thường gọi là một trụ sở ở New York. Quán đã từng là nơi bán rượu lậu trong thời kỳ cấm Rượu và khách hàng quen thuộc của nó có thể kể đến nhà thơ W.H. Auden - người sống kế cạnh quán Cocktail Holiday và Trotsky - bên kia con phố. Không ai có thể hiểu tại sao quán Cocktail Holiday này có thể tồn tại lâu đến thế. Việc quán này lúc nào cũng đông đúc, sôi nổi là chuyện rất bất thường trong một thành phố - nơi những dải lụa buộc trên những chiếc chai sâm banh hàng nghìn đô la đã trở thành một chuẩn mực. Có thể đó là do những cốc cocktail theo đúng sở thích khách hàng - nhân viên pha chế của quán có vẻ như luôn biết được là bạn muốn uống gì - hoặc có thể do cái không khí ấm cúng, cảm giác yên tĩnh của nơi đây như gọi mời mỗi khi ai đó bước ngang qua cửa quán. Mà cũng có thể đó là do tiếng hát của nhóm Rolling Stones vang vang từ cái máy hát cũ, từ mọi trái tim và từ những khát khao, mong mỏi. Thời gian không chỉ ngừng trôi ở quán Holiday, mà nó còn đứng yên, đông đặc lại như hổ phách, đặc quánh giống như loại whiskey tự pha chế của quán.
Cũng khá thú vị. Suốt một khoảng thời gian tồn tại lâu như thế, quán này chưa từng bị đột kích, còn lượng khách quen cứ tăng dần của nó cũng không bao giờ bị bắt áp tai lên những chiếc xe chở hàng và tống vào trại giam. Trong khi những cửa hàng kế bên thường xuyên bị thu giấy phép kinh doanh thì quán Holiday lại tồn tại đến tận giờ, không những thế còn phát đạt, ăn lên làm ra. Nó vẫn tiếp tục phục vụ những khách hàng trung tâm như: giới trẻ vui nhộn, lớp già mệt mỏi, những nhà báo dày dạn kinh nghiệm trong thành phố, đến từ những tờ báo lá cải đối lập nhau rồi cả hàng đoàn khách du lịch đang kiếm tìm một trải nghiệm “thực tế” tại New York.
Đã cuối tháng mười một nên chỉ vài tuần nữa thôi thì mấy thứ đồ trang trí quanh năm của quán Holiday sẽ trở nên thích hợp. Trong suốt mùa Giáng Sinh chủ quán thích cho thêm những đồ trang trí mới - một vòng hoa xanh treo trên cửa, những tấm thảm đầy màu sắc có hình đặc trưng là ông già Noel và mấy chú yêu tinh nhỏ cùng một cây đàn thanh nhã treo bên khung cửa sổ.
Lúc Oliver Hazard-Perry bước vào quán mơi là năm rưỡi chiều, thế nhưng trong quán đã đông kín người. Oliver bắt đầu tới quán này kể từ hồi cậu kiếm được cái chứng minh thư giả lúc cậu mười bốn tuổi. Cậu bẻ cao cổ áo rồi lê bước vào quán, đi ngang qua đám đàn ông quen thuộc với nhưng cái mặt chảy dài, giọng nói hạ thấp, vừa chầm chậm nhấm nháp đồ uống của mình vừa than thở về nhưng thất bại họ gặp phải.
Oliver tới chỗ ghế cuối cũng còn lại ở quầy bar, tránh xa tụi học sinh ồn ào đã đến sớm chiếm chỗ và đang lóng ngóng chơi phóng phi tiêu. Quán Holiday chẳng có gì hấp dẫn đối với mấy người lắm tiền thích khoe khoang thẻ American Express màu đen cả. (Trong bất cứ hoàn cảnh nào thì quán cũng chỉ chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt). Holiday là bến cảng trong cơn bão cho những ai đang kiếm tìm một mái che, bất kể chuyện gì xảy ra bên ngoài cửa của nó - phá sản, khải huyền, sụt giá - thì người ta vẫn có thể thấy được an ủi và thấy thoái mái với một ly rượu của quán.
Đó chính xác là điều đã làm Oliver tiếp tục tới quán này. Không biết sao chỉ cần ở trong quán Holiday cũng làm cho cậu cảm thấy tốt hơn rồi.
- Vẫn như thường lệ chứ? - Nhân viên pha chế hỏi.
Oliver gật đầu, thấy vừa cảm kích vừa có chút hãnh diện vì đã được nhận ra. điều này trước đây chưa từng xảy ra cho đến một tuần trước.
Người pha chế đẩy cốc whiskey - loại rượu nổi tiếng của quán tới trước mặt Oliver. Cậu nốc một hơi hết một cốc rồi cốc nữa, cốc nữa. Uống whiskey nhắc cậu nhớ về việc Schuyler đã báo cậu whiskey có vị gần với vị máu của cậu như thế nào. Giống như lửa và muối. Nỗi buồn sầu là thứ gì đó mà cậu có thể chạm vào, giống như vảy của vết thương sắp lành trên cổ cậu. Cậu thích gãi chúng cho đến khi vết thương chảy máu ra mới thôi, để thấy mình có thể làm cho chúng tệ hại hơn đến mức nào. Cậu thực sự là nên thôi không uống whiskey nữa. Nó nhắc cậu nhớ quá nhiều về Schuyler. Nhưng tất cả mọi thứ trong cái thành phố chết tiệt này đều nhắc cậu nhớ về cô mà.
Không thể thoát được. Không có cách nào để thoát khỏi nỗi nhớ ấy. Ban đêm cậu mơ thấy cô, mơ về khoảng thời gian họ đã ở bên nhau, về việc họ ngủ như thế nào, lưng tựa lưng ra sao. Rồi cậu nhớ tới hương thơm trên tóc cô sau khi tắm, cái cách mắt cô nheo lại mỗi khi cô cười. Rồi khi sáng thức dậy cậu sẽ bơ phờ, căng thẳng như một người đang sống dở chết dở. Cô ấy đã đi từ tháng trước rồi và sẽ không quay lại. Ít nhất thì cũng không quay lại với cậu, cậu đã hiểu ra điều đó. Gần như cậu đã để cô đi, không phải vì cô là của cậu mà cậu cho đi mà là cô sẽ không bao giờ bỏ đi. Cậu hiểu rõ mức độ trung thành của cô bởi vì chính nó cũng đã thấm sâu trong máu cậu.
Cậu đã làm đúng - cậu biết điều đó - nhưng dù sao thì nó cũng vẫn đau lắm. Nó làm cậu đau vì cậu biết cô ấy yêu mình, cô ấy đã nói rất nhiều lần với cậu. Nhưng nó chỉ là... chỉ là thế vẫn chưa đủ, chỉ là không giống như cái cách cô yêu người khác. Oliver không muốn mình là người thứ hai, không muốn nhận một phần thưởng an ủi; cậu không mong chờ lòng trung thành hay tình bạn. Cậu muốn có cả trái tim của cô và cậu biết mình sẽ không bao giờ có được nó. Đó là một thách thức, khó mà vượt qua.
Giá như cậu có thể quên được cô ấy. Nhưng từng mạch máu trong người đều đang khát khao cô, khát khao được đôi môi mềm mại của cô hôn lên cổ, khát khao cảm thấy răng nanh của cô khi chúng đâm xuyên qua da mình rồi làm cậu tràn ngập cảm giác thỏa mãn. Bây giờ thì toàn bộ cơ thể cậu đều đã cảm thấy sự mất mát ấy. Cơ thể ấy đang cùng đau buồn, than khóc với tâm hồn cậu. Cậu giơ một ngón tay lên ra hiệu thêm cốc nữa.
- Bình tĩnh nào anh chàng cao bồi - nữ nhân viên pha chế vừa mỉm cười vừa bảo - Xem nào, cốc thứ tư rồi phải không? Còn chưa tới sáu giờ mà.
- Tôi cần uống - Oliver lầm bầm.
- Để làm gì?
Cậu lắc đầu, còn người pha chế liền quay sang hướng khác để săn sóc các hành khách phía đó.
Oliver lấy ngón tay mân mê tấm thẻ trong túi, lần theo những con chữ khắc bên trên. Đó là tên của một nơi bí mật dùng để phục vụ những người giống như cậu - những Máu Đỏ đã bị ma cà rồng của mình bỏ rơi - những thân cận con người đang đau đớn vì nhu cầu không được thỏa mãn. Cậu nhớ lại sự dũng cảm của mình lúc nói với Mimi vào cái đêm họ tới nơi đó lần đầu - sự dũng cảm giả tạo cậu cố tạo ra. Tất cả đều là dối trá. Cậu thừa biết rồi mình cũng sớm kết thúc cuộc đời ở cái nơi đó thôi. Cậu cần được chữa trị - chỉ cần một miếng cắn mà thôi - bây giờ việc Schuyler không phải là người thực hiện nó cũng chẳng còn quan trọng nữa. Cậu chỉ muốn cảm thấy được thỏa mãn hoàn toàn một lần nữa thôi. Cậu muốn có ai đó làm cho nỗi đau này mất đi, để giúp cậu quên đi. Tất nhiên là cậu cũng hiểu như thế sẽ nguy hiểm thế nào - tâm thần phân liệt, nhiễm trùng, nghiện ngập và khả năng là chỉ sau một đêm thôi cậu sẽ không muốn rời đó mà đi nữa. Nhưng cậu phải tới đó. Bất cứ thứ gì xảy đến cũng sẽ tốt hơn việc phải sống chung với nỗi cô đơn kinh khủng này. Cậu nốc cạn một hơi cốc rượu với vẻ đầy thù hằn, dằn mạnh chiếc cốc xuống mặt bàn rồi ra hiệu cho nhân viên pha chế lần nữa.
- Cậu có nghĩ là cậu cần nó cho bất cứ điều gì đi nữa thì có lẽ cậu cũng không nên làm thế - Cô phục vụ bảo khi vừa lau bàn vừa đưa cho cậu một ly khác. Người pha chế này đã làm việc ở quán Holiday từ hồi cậu bắt đầu lén đi vào quán khi mới đang học lớp tám và cậu nhận ra cô ấy có vẻ không bao giờ già đi cả. Trông cô ấy giống y như ngày cậu mới gặp lần đầu, chưa qua tuổi mười tám dù chỉ một ngày, mái tóc xoăn dài và đôi mắt xanh có hồn, đầy thu hút. Chiếc áo trắng cắt khép của cô chỉ dể lộ dấu hiệu về một làn da rám nắng và chiếc bụng phẳng.
Oliver cũng vẫn luôn có chút cảm tình với cô nhưng cậu quá e dè để làm bất cứ điều gì ngoài việc để lại tiền boa một cách hào phóng. Không phải vì đó là việc không hy vọng gì mà nó giống như việc bị một ngôi sao điện ảnh thu hút vậy – khả năng được người ta đáp lại là rất thấp, thậm chí là zero.
Cậu ngạc nhiên khi thấy cô có vẻ quan tâm.
- Tôi là Freya - cô nói và đưa tay ra.
- Oliver - Cậu chào lại rồi bắt tay cô. Làn da tay cô mềm mại như vải lụa cashmere. Cậu cố giữ cho mặt mình không đỏ ửng lên.
- Tôi biết. Anh chàng với chứng minh giả đến từ Hawaii - Cô vừa đáp lời vừa cười lớn - Tại sao lúc nào cũng là Hawaii nhỉ? Có phải vì nó dễ để copy không? Chắc là thế rồi. À mà đừng có vẻ ngạc nhiên như thế chớ. Tôi biết từ lâu rồi.
- Quán các cô không bị đột kích à?
- Cứ để bọn họ thử xem - Freya nháy mắt - Mà này, tôi không thấy cậu đến quán khoảng một năm rồi đấy. Giờ thì tối nào cũng thấy. Có chuyện gì vậy?
Cậu lắc đầu.
- Cô bạn nhỏ của cậu đâu rồi? Lúc nào cũng thấy các cậu tới đây cùng nhau mà.
- Cô ấy đi rồi.
- À - Freya gật đầu - Thế là cô ấy thiệt rồi.
Oliver phá lên cười một cách trống rỗng.
- Ay. Đúng thế - Cô ấy thiệt. Cậu không nghi ngờ chuyện Schuyler nhớ mình, tất nhiên là cô ấy nhớ rồi. Nhưng cậu biết lúc này Schuyler đang hạnh phúc hơn nhiều vì được ở bên Jack. Thiệt thòi, mất mát chỉ thuộc về phần cậu mà thôi. Cậu đưa tay lấy ví rồi rút ra vài tờ hai mươi đô la.
Cô phục vụ xinh đẹp xua tay từ chối.
- Tối nay tiền của cậu không thích hợp chút nào. Chỉ cần giúp tôi một chuyện thôi. Dù cậu có định làm bất cứ điều gì thì cũng đừng làm thế. Vì nó sẽ chẳng giúp gì cho cậu cả.
Cậu lắc đầu rồi đặt mấy tờ tiền lên quầy coi như tiền boa.
- Cám ơn vì mấy ly rượu. Nhưng tôi không hiểu cô đang nói về chuyện gì - Oliver lầm bầm mà không nhìn vào mắt cô gái. Cô ấy biết gì về chuyện cậu đang định làm chứ? Cô ấy quan tâm tới cái gì chứ?
Oliver ra khỏi quán, bước vào không gian với bầu trời đêm New York không chút mây. Cách đây không lâu, cũng những đêm như thế này cậu và Schuyler vẫn thơ thẩn dạo chơi quanh thành phố một cách tùy hứng. Sẽ chẳng còn những đêm khuya ngồi uống cappuccino ở quán Café Reggio nữa. Chẳng còn những lần lẻn vào mấy quán rượu bé xíu ngồi nghe các ca sĩ đồng quê đang được ưa chuộng hát. Không còn những buổi tạm biệt trời đêm để đón chào bình minh với một bữa sáng ngon lành ở Yaffa. Sẽ chẳng còn những thứ như thế nữa. Không còn lần nào nữa. Không bao giờ được như thế nữa.
Mà thôi, mặc kệ. Chiếc xe và tài xế của cậu đang ngồi chờ cậu bên đường kia rồi. Cậu đưa cho người tài xế địa chỉ đến. Sau đêm nay cậu sẽ quên tất cả, kể cả tên của cô ấy. Nếu may mắn cậu còn có thể quên cả tên của chính mình nữa.