Bệ hạ nổi cơn thịnh nộ, kẻ làm thần tử, đương nhiên chỉ có thể câm như hến.
Buổi tiệc vốn dĩ còn đang ăn uống linh đình, mọi người ai nấy bắt chuyện bàn tán kính rượu, náo nhiệt gì đâu, nhưng lại bị cơn giận bừng bừng của hoàng đế mà kinh hãi, thiếu chút nữa là bất nhã vãi cả rượu ra đất. Buổi tiệc nhất thời chỉ còn lại sự im lặng.
Minh Trọng Mưu mải lo tức giận, nên cũng không nghĩ tới chuyện an ủi trái tim đang hoảng loạn của các thần tử.
Bảo vị Thừa tướng đại nhân cao ngạo tự kiêu mang theo bức tranh yêu quý của mình đến cho các vị đại thần, và đặc biệt là đối thủ chính trị của hắn là Hầu Thiết Tranh cùng thưởng ngoạn, thì chỉ sợ rằng tên cáo “già” này tức đến ngay cả mũi cũng phải xì ra khói cũng nên?
Nghĩ đến đây, khóe miệng Minh Trọng Mưu không nhịn được liền nhếch lên.
Quần thần nhìn thấy nụ cười kỳ dị của thánh thượng, không biết là đang nghĩ gì, trong lòng đều không kìm được liền nảy sinh cảm giác kỳ quặc —— Không phải bệ hạ bị lây bệnh của Thừa tướng đấy chứ, sao nụ cười lại khiến người ta thấy ớn lạnh thế?
Cuối cùng lại là đại tướng quân Hầu Thiết Tranh phá vỡ sự im lặng, bảo một tỳ nữ bên cạnh rót đầy rượu, cười lớn nói: “Thần thường xuyên đóng quân ngoài biên tái, rượu uống đều là những loại rượu mạnh, cũng là những loại không ngon, một khi uống xuống dưới yết hầu rồi rất dễ bị tắc dạ dày, mạnh thì đúng là mạnh thật, nhưng lại không có danh tiếng gì, duy chỉ có loại rượu ngon bệ hạ ban cho thần, uống xuống họng hương thơm nồng đậm cả khoang miệng, dư vị vô cùng, xứng đáng là rượu thượng hạng, đa tạ bệ hạ đã ban thưởng.”
Minh Trọng Mưu lúc ấy mới tỉnh táo lại, cũng cười nói:
“Xem ra Hầu tướng quân thực sự rất am hiểu về rượu, không biết Hầu tướng quân có thẩm được loại rượu này là loại nào không?”.
Hầu Thiết Tranh nhớ lại hương vị nói:
“Tương cốc khê xuân ủ trong mười tám năm, thần ngửi mùi, là đã nhận ra được ngay.”
Hoàng đế bệ hạ nghe xong, lập tức long nhan vui vẻ hẳn lên,
“Giỏi, giỏi, giỏi lắm, Hầu Thiết Tranh quả thật là người am hiểu về rượu, không hổ là Trấn Viễn Uy Võ đại tướng quân của triều đình ta.”
Nói đoạn, cũng bảo tỳ nữ rót rượu thật đầy, uống cạn một hơi đầu tiên, quần thần thấy bệ hạ trực tiếp uống cạn như thế, đều vội vàng nối theo sau, nhất thời khiến âm thanh mọi người rót rượu cho nhau vang lên ồn ào không dứt, những người không có tỳ nữ tới rót rượu giúp, thì đơn giản là tự mình nhấc vò rượu, rót vào bát của mình, nhanh chóng uống cạn.
Từ nhỏ lòng dạ Minh Trọng Mưu đã hướng về sa trường, luyện võ, đọc binh thư, đều là vì muốn trở thành danh tướng một thời. Hắn cũng kính trọng ngưỡng mộ các danh tướng nhất, đây là lần đầu tiên hắn được nhìn thấy binh mã đại nguyên soái của nước Đại Sở, lần đầu tiên gặp Hầu Thiết Tranh, nên đương nhiên trong lòng rất vui, lửa giận đối với Tạ Lâm lúc vừa nãy, không hiểu vì sao cũng vơi đi khá nhiều.
Lúc này, lại nghe Hầu Thiết Tranh chậm rãi nói:
“Mấy năm nay thần trấn giữ ngoài biên tái, nghe được tin tức chấn động triều đình, Vĩnh Lưu bệ hạ tạ thế, tiên hoàng băng hà, hôm nay, tận mắt nhìn thấy bệ hạ, thấy cử chỉ người anh minh quyết đoán, thần cảm nhận sâu sắc rằng cái ngày mà Đại Sở nhất định sẽ lớn mạnh thẳng tiến về phía trước hơn nữa, triều đình rửa sạch được nỗi nhục ngày trước, uy chấn khắp thiên hạ sẽ không còn xa nữa.”
Minh Trọng Mưu nghe thấy những lời này, liền đặt chén rượu xuống. Hiện giờ triều chính của Đại Sở do Tạ Lâm nắm quyền, thời gian Minh Trọng Mưu tự mình chấp chính vẫn còn ngắn, giờ Hầu Thiết Tranh nói những lời ấy, hiển nhiên là vẫn còn quá sớm. Hầu Thiết Tranh nhằm vào ai, muốn thể hiện suy nghĩ gì, đương nhiên là trong lòng Minh Trọng Mưu hiểu rất rõ.
Gian thần Tạ Lâm, thân ngồi ở vị trí Thừa tướng, chức vụ giám quốc, nhưng lại tham ô hối lộ, họa loạn triều chính, tham lam vượt quyền, nắm giữ ngọc tỷ phê duyệt tấu chương, quả thực là lòng lang dạ thú. Minh Trọng Mưu tuy là hoàng đế, nhưng người nắm quyền thực sự của Đại Sở, lại là Tạ Lâm. Những lời này của Hầu Thiết Tranh, hiển nhiên là đang nói bệ hạ nên là bệ hạ, không bao giờ được để thần không ra thần, vua không ra vua, hỗn loạn quân thần triều cương.
Nhưng, Minh Trọng Mưu cũng biết rằng, hiện giờ vẫn chưa phải là thời cơ để loại trừ tên gian thần này.
Thời gian bản thân hắn chấp chính còn ngắn, vẫn cần có Tạ Lâm dìu dắt dạy bảo, mà đại đa số triều thần đều dựa vào Tạ Lâm, thế lực vây cánh của hắn cực kỳ lớn, khó trừ khó diệt, lại càng khó nắm chắc, rút dây động rừng, nếu như không cẩn thận, sẽ khiến căn cơ Đại Sở bất ổn, bản thân sợ rằng sẽ thành tội nhân thiên cổ của Đại Sở mất.
Vì thế kế sách hiện giờ, chỉ có kiềm chế. Đó cúng là một trong những nguyên nhân hắn không đợi ý kiến phúc đáp của Tạ Lâm, đã trực tiếp đề bạt Úy Trì Chính.
Hơn nữa là…….
Bản thân hắn vẫn còn nhớ tới ngày hôm đó, Tạ Lâm nắm lấy tay hắn, giúp hắn vẽ tranh công bút. Lông mi của Tạ Lâm rất dài, lúc rèm mi khẽ khàng rủ xuống, vừa vặn che kín đôi mắt ấy, tạo thành một bóng râm. Minh Trọng Mưu hơi hơi cử động ngón tay, giây phút ấy, hắn vẫn còn nhớ nhiệt độ ấm áp của ngón tay Tạ Lâm.
Nếu Tạ Lâm thất bại, không chỉ thế lực nghiêng ngả, mà ngay cả tính mạng, sợ là cũng không giữ được. Kiểu người như vậy, e rằng có muốn cũng chẳng thể gặp.
Hoàng đế Vạn Triệu nắm chặt chén rượu, cố gắng phớt lờ cảm giác trống rỗng như lồng ngực vừa bị nạo khoét.
Đột nhiên nghe thấy giọng nói chói tai của tên thái giám từ xa truyền tới, “Thừa tướng Tạ Lâm đến……”
Mỗi lần có yến tiệc như tiệc mừng công chẳng hạn, Đại Sở đều yêu cầu thái giám phải báo danh tính chức quan của các vị đại thần, để hoàng đế bệ hạ và quần thần được biết, ngày thường thì việc này đã thành quen từ lâu, nhưng trong giờ phút này lại như sấm đánh bên tai, chấn động đến mức trong lòng mọi người tựa như có tiếng nổ tung cực to vừa vang lên.
Lại nhìn thấy cách đó không xa, có sáu người đi tới, bốn người đang khiêng một cái bàn, trong tay một người nữa dường như đang cầm một trục cuốn tranh (1), người cuối cùng bước chân chậm rãi khoan thai, áo bào thêu chỉ vàng, nền đỏ làm nổi bật lên chức vụ giám quốc tôn quý, nam tử trẻ tuổi với mái tóc đen bóng hơi rối thả xuống hai bên vai, khuôn mặt tuấn mĩ nghiêm túc cung kính khác hẳn với trước kia, hiển nhiên chính là Thừa tướng Tạ Lâm.
Bốn người khiêng chiếc bàn, không đợi được gọi, đã đi vào trong đại điện, đặt xuống ngay chính giữa, bụi đất rơi đầy sàn. Mọi người đều kinh ngạc bật dậy, vội vàng phủi hết bụi trên y phục. Hầu Thiết Tranh trơ mắt nhìn đám bụi đất dày rơi vào trong chén và vò rượu, rượu đã dính toàn đất thế này, sợ rằng cũng chẳng thể uống tiếp được nữa, chỉ tiếc cho thứ rượu ngon vậy mà.
Mắt thấy buổi yến tiệc không thể tiếp tục được nữa, đương kim thánh thượng giận đến tím mặt: “Tạ Lâm, khanh đang làm gì vậy hả?”,
Tạ Lâm sải bước đến trước điện, bảo người hầu bên cạnh đặt trục cuốn tranh trong tay xuống mặt bàn, tay vừa vung lên, trục cuốn tranh liền trải ra.
“Không phải bệ hạ muốn các vị đại thần đều được ngắm kỹ thuật tả ý của thần ư? Thần đành phải mang tranh của mình tới khoe vụng, để các vị được vui vẻ một phen.”
Nói xong, bức tranh đã được trải ra, phủ lên chiếc bàn dài, chiếm một khoảng rất lớn.
Quần thần nghe xong, thì ra là hoàng đế bệ hạ để chúng thần tới thưởng thức, bức tranh của Thừa tướng, đương nhiên là sẽ rất đẹp. Nhìn trục cuốn tranh cả nửa ngày mới mở trải ra được, có thể thấy bức tranh không nhỏ, nhắc đến tả ý, tất nhiên sẽ là nói đến tranh sơn thủy. Vì thế mọi người đều ôm theo cảm giác tôn kính đến mức ngưỡng mộ, nhìn về phía bức tranh, rồi lập tức trợn mắt há hốc mồm ra, kinh ngạc thở dốc.
Hầu Thiết Tranh vuốt vuốt chòm râu,
“Bức tranh này của Tạ đại nhân, quả nhiên là rất có thâm ý.”
Lời vừa nói ra, quần thần giống như đột nhiên ngộ ra, đều gật đầu nói:
“Bức tranh của Thừa tướng đại nhân, đúng thật là rất có thâm ý.”
Mấy vị đại thần, quả thực có người có suy nghĩ ấy, cũng có người là vỗ mông ngựa vị Thừa tướng quyền khuynh triều dã kia, lại cũng có người là vỗ mông ngựa của Hầu Thiết Tranh đối thủ chính trị của Tạ Lâm.
Vì thế ngày hôm đó văn võ khắp triều hiếm khi có được ý kiến thống nhất như vậy.
Còn Binh bộ Thượng thư Úy Trì Chính đứng ở bên cạnh thì lại đang cau mày, hắn vẫn chưa phát biểu ý kiến, nên quần thần cũng coi như hắn đồng lòng với người từng là thượng cấp của mình, cho rằng bức tranh này rất có thâm ý.
Minh Trọng Mưu nghe các đại thần đều nói vậy, thầm nhủ lẽ nào kỹ thuật của bức tranh ấy thật sự lại cao siêu, thế gian hiếm có đến thế? Hắn cũng lập tức bước đến, trong lòng mang theo sự chờ mong thưởng thức nhìn nhìn bức tranh, sau đó khuôn mặt liền biến sắc,
“Tạ Lâm, đây là cái gì?”.
Chỉ thấy trên bức tranh, từng nét bút mực rất lớn, rất lớn được vẩy lên, một mảng màu đen, lại hòa thêm nước, nối tiếp nhau không ngừng, giống như là bị loang lổ, nhưng giữa một khoảng đen một khoảng xám một khoảng trắng, lại chỉ nhìn thấy nét bút lông loằng ngoằng lung tung, quấn lấy nhau, chiếm một diện tích lớn trên tờ giấy Tuyên. Giống như là người vẽ ra bức tranh này căn bản là muốn bôi đen toàn bộ tờ giấy Tuyên, nhưng vì thời gian không đủ, nên vẫn chưa hoàn thành.
Khóe miệng Minh Trọng Mưu co giật, hỏi Tạ Lâm: “Bức tranh này xong chưa?”.
Tạ Lâm cung kính đáp: “Bẩm bệ hạ, vẫn chưa ạ.”
“……”
Quả nhiên là như thế.
Minh Trọng Mưu nhìn năm người đứng bên cạnh do Tạ Lâm dẫn tới, ai mà ngờ được khí thế lớn vậy, nhưng lại chỉ mang đến một bức tranh như thế.
Hắn hít vào một hơi thật sâu, “Vậy xin hỏi Tạ khanh, hàm ý của bức họa này là gì?”.
Tạ Lâm cũng cung kính trả lời:
“Bức tranh này chẳng có ý gì cả, căn bản là thần muốn bôi đen tờ giấy vẽ này mà thôi, mấy ngày gần đây thần đang phiền lòng vì mấy chuyện vặt vãnh, nên chỉ muốn vẽ một bức tranh vớ vẩn để giải tỏa tâm tình nôn nóng của bản thân, nhưng không ngờ bệ hạ lại bảo thần mang bức tranh này ra khoe, vì thế thần đành phải khoe xấu vậy, còn chưa bôi xong, thì đã mang tới cho các vị đại nhân xem rồi.”
Bức tranh trên bàn, vết mực lem nhem loang lổ, bút pháp vụng về rối mắt, thực sự hiếm thấy trên thế gian, quả đúng là “khoe xấu”.
Minh Trọng Mưu gọi Lại Xương ở bên cạnh tới, “Lúc ngươi nhìn Tạ thừa tướng, hắn đang vẽ bức tranh này à?”.
Lại Xương cẩn thận tỉ mỉ nhìn ngắm bức tranh trên bàn, trả lời đâu ra đấy:
“Lúc ấy những gì nô tài trông thấy không nhiều mực như thế, e là Thừa tướng vẫn chưa hoàn thành, nhưng nhìn rất giống bức tranh vẩy mực này, trái tim nô tài có cảm giác rộng mở, cho nên có lẽ chính là bức tranh đây.”
Minh Trọng Mưu nhất thời cảm thấy vô cùng bất lực, xua xua tay, cho hắn lui xuống.
“Được rồi, vậy Tạ khanh lát nữa quay về hoàn thành nốt bức tranh này đi, thu tranh lại, dọn bàn đi…… rượu cũng đổi, buổi tiệc chưa kết thúc, trẫm vẫn còn muốn vui vẻ uống thỏa thích với Hầu tướng quân nữa.”
Tạ Lâm mím mím môi, cung kính đứng nguyên chỗ đó, mãi cho đến khi bàn được dọn đi, tranh được thu lại, mới nói cơ thể mình không thoải mái, không tiện ở lại lâu, xin cáo lui về nhà.
Lúc Tạ Lâm sắp đi, lướt ngang qua bên cạnh Úy Trì Chính, lại nghe thấy Úy Trì Chính khẽ nói:
“Động tác cầm bút nét chuyển ngoặt rất có lực, chúng tỏ kỹ năng vẽ tranh cực kỳ cao siêu, ta không tin người có kỹ năng vẽ tranh như vậy, mà chỉ có thể bôi xóa vẽ lung tung. Ta lại càng không tin bức họa này của ngài giống như không có thâm ý gì. Không biết đại nhân có đồng ý nói cho ta biết không?”.
Tạ Lâm hừ lạnh một tiếng,
“Vậy thì phải khiến cho ngài thất vọng rồi.”
Bức tranh này chả có tí thâm ý nào hết.
Nói đoạn, Tạ Lâm liền sải bước ra ngoài, sống lưng thẳng tắp, như thể dù có bất cứ chuyện gì, cũng không thể khiến lưng của hắn cong xuống được.
Trải qua giờ khắc ấy, quần thần trong triều đều biết rằng kỹ năng vẽ tranh của Thừa tướng đại nhân rất buồn cười, không mảy may có chút hàm ý và cảnh giới nào đáng nói, bút pháp vụng về. Ngay cả một bức tranh cũng vẽ không nên hồn, quả đúng là gian nịnh.
Mặc dù sau lưng nhiều lời đồn đại lung lung, nhưng e ngại quyền thế ngút trời của Tạ Lâm, nên không dám nói thẳng trước mặt.
Lúc truyền đến tai bệ hạ, Lại Xương cẩn thận chu đáo hỏi bệ hạ:
“Có cần ép tin đồn xuống không ạ? Thừa tướng tài nhân rõ ràng là tài nghệ vượt trội, chỉ dựa vào một bức tranh ấy, mà các vị đại nhân khác đã nhận định như vậy, không khỏi có phần không công bằng.”
Ngày hôm đó, bệ hạ đã nhìn thấy bức tranh mỹ nữ do Tạ Lâm vẽ trước đó, ngây người ra đến thất thần.
Nghe thấy những lời của Lại Xương, bệ hạ chỉ nói:
“Dựa vào tài năng của hắn, nếu muốn dẹp đi những lời đồn này, thì có gì khó?”.
Nhưng lời đồn càng lúc càng ghê gớm, nhưng Tạ Lâm lại giống như mặc kệ không đoái hoài gì đến, ngoại trừ lúc thượng triều, thì ngày thường cửa lớn không ra cửa nhỏ không bước, chỉ thỉnh thoảng dạy bệ hạ đôi điều khi tự mình chấp chính, còn những chuyện khác hoàn toàn không màng. Đôi lúc bệ hạ sợ hắn quên mất, vô tình nhắc đến chuyện này, nhưng lại bị Tạ Lâm hỏi ngược lại:
“Bệ hạ, mọi việc khi làm phải có “mức”, việc phải tự mình làm lấy đúng thì đúng thật, nhưng việc gì cũng muốn quản, lẽ nào bệ hạ muốn bắt chước Bà Dương đế của tiền triều sao?”.
Bà Dương đế của tiền triều, việc gì cũng cũng muốn quản, cuối cùng mệt mỏi lâu ngày rồi sinh bệnh, hơn ba mươi tuổi đang trong lúc trai tráng thì đã qua đời.
Đã mấy ngày nay Tạ Lâm luôn lấy ví dụ mất nước của tiền triều ra, giảng giải cho Minh Trọng Mưu nghe, lấy những thất bại thành công có trong sử sách làm gương soi, biết được cái sai của người đi trước, mà sửa đổi bản thân mình. Nên chuyện Bà Dương đế vất vả quá sức mà chết đương nhiên cũng sẽ biết.
Vì thế bệ hạ cũng không nhắc nhỏm gì đến chuyện này nữa.
Bệ hạ nổi cơn thịnh nộ, kẻ làm thần tử, đương nhiên chỉ có thể câm như hến.
Buổi tiệc vốn dĩ còn đang ăn uống linh đình, mọi người ai nấy bắt chuyện bàn tán kính rượu, náo nhiệt gì đâu, nhưng lại bị cơn giận bừng bừng của hoàng đế mà kinh hãi, thiếu chút nữa là bất nhã vãi cả rượu ra đất. Buổi tiệc nhất thời chỉ còn lại sự im lặng.
Minh Trọng Mưu mải lo tức giận, nên cũng không nghĩ tới chuyện an ủi trái tim đang hoảng loạn của các thần tử.
Bảo vị Thừa tướng đại nhân cao ngạo tự kiêu mang theo bức tranh yêu quý của mình đến cho các vị đại thần, và đặc biệt là đối thủ chính trị của hắn là Hầu Thiết Tranh cùng thưởng ngoạn, thì chỉ sợ rằng tên cáo “già” này tức đến ngay cả mũi cũng phải xì ra khói cũng nên?
Nghĩ đến đây, khóe miệng Minh Trọng Mưu không nhịn được liền nhếch lên.
Quần thần nhìn thấy nụ cười kỳ dị của thánh thượng, không biết là đang nghĩ gì, trong lòng đều không kìm được liền nảy sinh cảm giác kỳ quặc —— Không phải bệ hạ bị lây bệnh của Thừa tướng đấy chứ, sao nụ cười lại khiến người ta thấy ớn lạnh thế?
Cuối cùng lại là đại tướng quân Hầu Thiết Tranh phá vỡ sự im lặng, bảo một tỳ nữ bên cạnh rót đầy rượu, cười lớn nói: “Thần thường xuyên đóng quân ngoài biên tái, rượu uống đều là những loại rượu mạnh, cũng là những loại không ngon, một khi uống xuống dưới yết hầu rồi rất dễ bị tắc dạ dày, mạnh thì đúng là mạnh thật, nhưng lại không có danh tiếng gì, duy chỉ có loại rượu ngon bệ hạ ban cho thần, uống xuống họng hương thơm nồng đậm cả khoang miệng, dư vị vô cùng, xứng đáng là rượu thượng hạng, đa tạ bệ hạ đã ban thưởng.”
Minh Trọng Mưu lúc ấy mới tỉnh táo lại, cũng cười nói:
“Xem ra Hầu tướng quân thực sự rất am hiểu về rượu, không biết Hầu tướng quân có thẩm được loại rượu này là loại nào không?”.
Hầu Thiết Tranh nhớ lại hương vị nói:
“Tương cốc khê xuân ủ trong mười tám năm, thần ngửi mùi, là đã nhận ra được ngay.”
Hoàng đế bệ hạ nghe xong, lập tức long nhan vui vẻ hẳn lên,
“Giỏi, giỏi, giỏi lắm, Hầu Thiết Tranh quả thật là người am hiểu về rượu, không hổ là Trấn Viễn Uy Võ đại tướng quân của triều đình ta.”
Nói đoạn, cũng bảo tỳ nữ rót rượu thật đầy, uống cạn một hơi đầu tiên, quần thần thấy bệ hạ trực tiếp uống cạn như thế, đều vội vàng nối theo sau, nhất thời khiến âm thanh mọi người rót rượu cho nhau vang lên ồn ào không dứt, những người không có tỳ nữ tới rót rượu giúp, thì đơn giản là tự mình nhấc vò rượu, rót vào bát của mình, nhanh chóng uống cạn.
Từ nhỏ lòng dạ Minh Trọng Mưu đã hướng về sa trường, luyện võ, đọc binh thư, đều là vì muốn trở thành danh tướng một thời. Hắn cũng kính trọng ngưỡng mộ các danh tướng nhất, đây là lần đầu tiên hắn được nhìn thấy binh mã đại nguyên soái của nước Đại Sở, lần đầu tiên gặp Hầu Thiết Tranh, nên đương nhiên trong lòng rất vui, lửa giận đối với Tạ Lâm lúc vừa nãy, không hiểu vì sao cũng vơi đi khá nhiều.
Lúc này, lại nghe Hầu Thiết Tranh chậm rãi nói:
“Mấy năm nay thần trấn giữ ngoài biên tái, nghe được tin tức chấn động triều đình, Vĩnh Lưu bệ hạ tạ thế, tiên hoàng băng hà, hôm nay, tận mắt nhìn thấy bệ hạ, thấy cử chỉ người anh minh quyết đoán, thần cảm nhận sâu sắc rằng cái ngày mà Đại Sở nhất định sẽ lớn mạnh thẳng tiến về phía trước hơn nữa, triều đình rửa sạch được nỗi nhục ngày trước, uy chấn khắp thiên hạ sẽ không còn xa nữa.”
Minh Trọng Mưu nghe thấy những lời này, liền đặt chén rượu xuống. Hiện giờ triều chính của Đại Sở do Tạ Lâm nắm quyền, thời gian Minh Trọng Mưu tự mình chấp chính vẫn còn ngắn, giờ Hầu Thiết Tranh nói những lời ấy, hiển nhiên là vẫn còn quá sớm. Hầu Thiết Tranh nhằm vào ai, muốn thể hiện suy nghĩ gì, đương nhiên là trong lòng Minh Trọng Mưu hiểu rất rõ.
Gian thần Tạ Lâm, thân ngồi ở vị trí Thừa tướng, chức vụ giám quốc, nhưng lại tham ô hối lộ, họa loạn triều chính, tham lam vượt quyền, nắm giữ ngọc tỷ phê duyệt tấu chương, quả thực là lòng lang dạ thú. Minh Trọng Mưu tuy là hoàng đế, nhưng người nắm quyền thực sự của Đại Sở, lại là Tạ Lâm. Những lời này của Hầu Thiết Tranh, hiển nhiên là đang nói bệ hạ nên là bệ hạ, không bao giờ được để thần không ra thần, vua không ra vua, hỗn loạn quân thần triều cương.
Nhưng, Minh Trọng Mưu cũng biết rằng, hiện giờ vẫn chưa phải là thời cơ để loại trừ tên gian thần này.
Thời gian bản thân hắn chấp chính còn ngắn, vẫn cần có Tạ Lâm dìu dắt dạy bảo, mà đại đa số triều thần đều dựa vào Tạ Lâm, thế lực vây cánh của hắn cực kỳ lớn, khó trừ khó diệt, lại càng khó nắm chắc, rút dây động rừng, nếu như không cẩn thận, sẽ khiến căn cơ Đại Sở bất ổn, bản thân sợ rằng sẽ thành tội nhân thiên cổ của Đại Sở mất.
Vì thế kế sách hiện giờ, chỉ có kiềm chế. Đó cúng là một trong những nguyên nhân hắn không đợi ý kiến phúc đáp của Tạ Lâm, đã trực tiếp đề bạt Úy Trì Chính.
Hơn nữa là…….
Bản thân hắn vẫn còn nhớ tới ngày hôm đó, Tạ Lâm nắm lấy tay hắn, giúp hắn vẽ tranh công bút. Lông mi của Tạ Lâm rất dài, lúc rèm mi khẽ khàng rủ xuống, vừa vặn che kín đôi mắt ấy, tạo thành một bóng râm. Minh Trọng Mưu hơi hơi cử động ngón tay, giây phút ấy, hắn vẫn còn nhớ nhiệt độ ấm áp của ngón tay Tạ Lâm.
Nếu Tạ Lâm thất bại, không chỉ thế lực nghiêng ngả, mà ngay cả tính mạng, sợ là cũng không giữ được. Kiểu người như vậy, e rằng có muốn cũng chẳng thể gặp.
Hoàng đế Vạn Triệu nắm chặt chén rượu, cố gắng phớt lờ cảm giác trống rỗng như lồng ngực vừa bị nạo khoét.
Đột nhiên nghe thấy giọng nói chói tai của tên thái giám từ xa truyền tới, “Thừa tướng Tạ Lâm đến……”
Mỗi lần có yến tiệc như tiệc mừng công chẳng hạn, Đại Sở đều yêu cầu thái giám phải báo danh tính chức quan của các vị đại thần, để hoàng đế bệ hạ và quần thần được biết, ngày thường thì việc này đã thành quen từ lâu, nhưng trong giờ phút này lại như sấm đánh bên tai, chấn động đến mức trong lòng mọi người tựa như có tiếng nổ tung cực to vừa vang lên.
Lại nhìn thấy cách đó không xa, có sáu người đi tới, bốn người đang khiêng một cái bàn, trong tay một người nữa dường như đang cầm một trục cuốn tranh (), người cuối cùng bước chân chậm rãi khoan thai, áo bào thêu chỉ vàng, nền đỏ làm nổi bật lên chức vụ giám quốc tôn quý, nam tử trẻ tuổi với mái tóc đen bóng hơi rối thả xuống hai bên vai, khuôn mặt tuấn mĩ nghiêm túc cung kính khác hẳn với trước kia, hiển nhiên chính là Thừa tướng Tạ Lâm.
Bốn người khiêng chiếc bàn, không đợi được gọi, đã đi vào trong đại điện, đặt xuống ngay chính giữa, bụi đất rơi đầy sàn. Mọi người đều kinh ngạc bật dậy, vội vàng phủi hết bụi trên y phục. Hầu Thiết Tranh trơ mắt nhìn đám bụi đất dày rơi vào trong chén và vò rượu, rượu đã dính toàn đất thế này, sợ rằng cũng chẳng thể uống tiếp được nữa, chỉ tiếc cho thứ rượu ngon vậy mà.
Mắt thấy buổi yến tiệc không thể tiếp tục được nữa, đương kim thánh thượng giận đến tím mặt: “Tạ Lâm, khanh đang làm gì vậy hả?”,
Tạ Lâm sải bước đến trước điện, bảo người hầu bên cạnh đặt trục cuốn tranh trong tay xuống mặt bàn, tay vừa vung lên, trục cuốn tranh liền trải ra.
“Không phải bệ hạ muốn các vị đại thần đều được ngắm kỹ thuật tả ý của thần ư? Thần đành phải mang tranh của mình tới khoe vụng, để các vị được vui vẻ một phen.”
Nói xong, bức tranh đã được trải ra, phủ lên chiếc bàn dài, chiếm một khoảng rất lớn.
Quần thần nghe xong, thì ra là hoàng đế bệ hạ để chúng thần tới thưởng thức, bức tranh của Thừa tướng, đương nhiên là sẽ rất đẹp. Nhìn trục cuốn tranh cả nửa ngày mới mở trải ra được, có thể thấy bức tranh không nhỏ, nhắc đến tả ý, tất nhiên sẽ là nói đến tranh sơn thủy. Vì thế mọi người đều ôm theo cảm giác tôn kính đến mức ngưỡng mộ, nhìn về phía bức tranh, rồi lập tức trợn mắt há hốc mồm ra, kinh ngạc thở dốc.
Hầu Thiết Tranh vuốt vuốt chòm râu,
“Bức tranh này của Tạ đại nhân, quả nhiên là rất có thâm ý.”
Lời vừa nói ra, quần thần giống như đột nhiên ngộ ra, đều gật đầu nói:
“Bức tranh của Thừa tướng đại nhân, đúng thật là rất có thâm ý.”
Mấy vị đại thần, quả thực có người có suy nghĩ ấy, cũng có người là vỗ mông ngựa vị Thừa tướng quyền khuynh triều dã kia, lại cũng có người là vỗ mông ngựa của Hầu Thiết Tranh đối thủ chính trị của Tạ Lâm.
Vì thế ngày hôm đó văn võ khắp triều hiếm khi có được ý kiến thống nhất như vậy.
Còn Binh bộ Thượng thư Úy Trì Chính đứng ở bên cạnh thì lại đang cau mày, hắn vẫn chưa phát biểu ý kiến, nên quần thần cũng coi như hắn đồng lòng với người từng là thượng cấp của mình, cho rằng bức tranh này rất có thâm ý.
Minh Trọng Mưu nghe các đại thần đều nói vậy, thầm nhủ lẽ nào kỹ thuật của bức tranh ấy thật sự lại cao siêu, thế gian hiếm có đến thế? Hắn cũng lập tức bước đến, trong lòng mang theo sự chờ mong thưởng thức nhìn nhìn bức tranh, sau đó khuôn mặt liền biến sắc,
“Tạ Lâm, đây là cái gì?”.
Chỉ thấy trên bức tranh, từng nét bút mực rất lớn, rất lớn được vẩy lên, một mảng màu đen, lại hòa thêm nước, nối tiếp nhau không ngừng, giống như là bị loang lổ, nhưng giữa một khoảng đen một khoảng xám một khoảng trắng, lại chỉ nhìn thấy nét bút lông loằng ngoằng lung tung, quấn lấy nhau, chiếm một diện tích lớn trên tờ giấy Tuyên. Giống như là người vẽ ra bức tranh này căn bản là muốn bôi đen toàn bộ tờ giấy Tuyên, nhưng vì thời gian không đủ, nên vẫn chưa hoàn thành.
Khóe miệng Minh Trọng Mưu co giật, hỏi Tạ Lâm: “Bức tranh này xong chưa?”.
Tạ Lâm cung kính đáp: “Bẩm bệ hạ, vẫn chưa ạ.”
“……”
Quả nhiên là như thế.
Minh Trọng Mưu nhìn năm người đứng bên cạnh do Tạ Lâm dẫn tới, ai mà ngờ được khí thế lớn vậy, nhưng lại chỉ mang đến một bức tranh như thế.
Hắn hít vào một hơi thật sâu, “Vậy xin hỏi Tạ khanh, hàm ý của bức họa này là gì?”.
Tạ Lâm cũng cung kính trả lời:
“Bức tranh này chẳng có ý gì cả, căn bản là thần muốn bôi đen tờ giấy vẽ này mà thôi, mấy ngày gần đây thần đang phiền lòng vì mấy chuyện vặt vãnh, nên chỉ muốn vẽ một bức tranh vớ vẩn để giải tỏa tâm tình nôn nóng của bản thân, nhưng không ngờ bệ hạ lại bảo thần mang bức tranh này ra khoe, vì thế thần đành phải khoe xấu vậy, còn chưa bôi xong, thì đã mang tới cho các vị đại nhân xem rồi.”
Bức tranh trên bàn, vết mực lem nhem loang lổ, bút pháp vụng về rối mắt, thực sự hiếm thấy trên thế gian, quả đúng là “khoe xấu”.
Minh Trọng Mưu gọi Lại Xương ở bên cạnh tới, “Lúc ngươi nhìn Tạ thừa tướng, hắn đang vẽ bức tranh này à?”.
Lại Xương cẩn thận tỉ mỉ nhìn ngắm bức tranh trên bàn, trả lời đâu ra đấy:
“Lúc ấy những gì nô tài trông thấy không nhiều mực như thế, e là Thừa tướng vẫn chưa hoàn thành, nhưng nhìn rất giống bức tranh vẩy mực này, trái tim nô tài có cảm giác rộng mở, cho nên có lẽ chính là bức tranh đây.”
Minh Trọng Mưu nhất thời cảm thấy vô cùng bất lực, xua xua tay, cho hắn lui xuống.
“Được rồi, vậy Tạ khanh lát nữa quay về hoàn thành nốt bức tranh này đi, thu tranh lại, dọn bàn đi…… rượu cũng đổi, buổi tiệc chưa kết thúc, trẫm vẫn còn muốn vui vẻ uống thỏa thích với Hầu tướng quân nữa.”
Tạ Lâm mím mím môi, cung kính đứng nguyên chỗ đó, mãi cho đến khi bàn được dọn đi, tranh được thu lại, mới nói cơ thể mình không thoải mái, không tiện ở lại lâu, xin cáo lui về nhà.
Lúc Tạ Lâm sắp đi, lướt ngang qua bên cạnh Úy Trì Chính, lại nghe thấy Úy Trì Chính khẽ nói:
“Động tác cầm bút nét chuyển ngoặt rất có lực, chúng tỏ kỹ năng vẽ tranh cực kỳ cao siêu, ta không tin người có kỹ năng vẽ tranh như vậy, mà chỉ có thể bôi xóa vẽ lung tung. Ta lại càng không tin bức họa này của ngài giống như không có thâm ý gì. Không biết đại nhân có đồng ý nói cho ta biết không?”.
Tạ Lâm hừ lạnh một tiếng,
“Vậy thì phải khiến cho ngài thất vọng rồi.”
Bức tranh này chả có tí thâm ý nào hết.
Nói đoạn, Tạ Lâm liền sải bước ra ngoài, sống lưng thẳng tắp, như thể dù có bất cứ chuyện gì, cũng không thể khiến lưng của hắn cong xuống được.
Trải qua giờ khắc ấy, quần thần trong triều đều biết rằng kỹ năng vẽ tranh của Thừa tướng đại nhân rất buồn cười, không mảy may có chút hàm ý và cảnh giới nào đáng nói, bút pháp vụng về. Ngay cả một bức tranh cũng vẽ không nên hồn, quả đúng là gian nịnh.
Mặc dù sau lưng nhiều lời đồn đại lung lung, nhưng e ngại quyền thế ngút trời của Tạ Lâm, nên không dám nói thẳng trước mặt.
Lúc truyền đến tai bệ hạ, Lại Xương cẩn thận chu đáo hỏi bệ hạ:
“Có cần ép tin đồn xuống không ạ? Thừa tướng tài nhân rõ ràng là tài nghệ vượt trội, chỉ dựa vào một bức tranh ấy, mà các vị đại nhân khác đã nhận định như vậy, không khỏi có phần không công bằng.”
Ngày hôm đó, bệ hạ đã nhìn thấy bức tranh mỹ nữ do Tạ Lâm vẽ trước đó, ngây người ra đến thất thần.
Nghe thấy những lời của Lại Xương, bệ hạ chỉ nói:
“Dựa vào tài năng của hắn, nếu muốn dẹp đi những lời đồn này, thì có gì khó?”.
Nhưng lời đồn càng lúc càng ghê gớm, nhưng Tạ Lâm lại giống như mặc kệ không đoái hoài gì đến, ngoại trừ lúc thượng triều, thì ngày thường cửa lớn không ra cửa nhỏ không bước, chỉ thỉnh thoảng dạy bệ hạ đôi điều khi tự mình chấp chính, còn những chuyện khác hoàn toàn không màng. Đôi lúc bệ hạ sợ hắn quên mất, vô tình nhắc đến chuyện này, nhưng lại bị Tạ Lâm hỏi ngược lại:
“Bệ hạ, mọi việc khi làm phải có “mức”, việc phải tự mình làm lấy đúng thì đúng thật, nhưng việc gì cũng muốn quản, lẽ nào bệ hạ muốn bắt chước Bà Dương đế của tiền triều sao?”.
Bà Dương đế của tiền triều, việc gì cũng cũng muốn quản, cuối cùng mệt mỏi lâu ngày rồi sinh bệnh, hơn ba mươi tuổi đang trong lúc trai tráng thì đã qua đời.
Đã mấy ngày nay Tạ Lâm luôn lấy ví dụ mất nước của tiền triều ra, giảng giải cho Minh Trọng Mưu nghe, lấy những thất bại thành công có trong sử sách làm gương soi, biết được cái sai của người đi trước, mà sửa đổi bản thân mình. Nên chuyện Bà Dương đế vất vả quá sức mà chết đương nhiên cũng sẽ biết.
Vì thế bệ hạ cũng không nhắc nhỏm gì đến chuyện này nữa.