Hứa Thành là người thân tín của Lý Vệ, bình thường cũng hay vào nội đường nên Lý Minh Châu không nghi ngờ, chỉ vén rèm hỏi: “Cha gọi ta có chuyện gì?” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đổng Cự Xuyên lướt người lao bổ vào phòng trong. Nàng thiếu nữ ở phía sau né không kịp, chân phải tung ra một cú đá, Đổng Cự Xuyên đột nhiên thu người lại, gót chân xoay tròn, hai tay đẩy ra, nàng thiếu nữ đá hụt, chợt thấy chưởng phong quét vào, ống chân, vội vàng ngửa người ra sau tránh thế đánh của kẻ địch. Đổng Cự Xuyên không hề thâu thế, tay trái chụp vào cổ tay của kẻ địch, tay phải đấm vào mặt, thế công liên miên bất tuyệt, nàng thiếu nữ lạng người phất tay ra, hóa giải thế chưởng của Đổng Cự Xuyên, tay trái đấm về phía trước mặt, hóa giải quyền trái của kẻ địch, Đổng Cự Xuyên quát: “Trần Mỹ Nương, chồng của ngươi đã bị bắt, ngươi còn dám chống cử?”
Nàng thiếu nữ giật mình, Đổng Cự Xuyên trầm tay trái xuống, tay phải đánh vào huyệt Huyền Cơ giữa ngực của nàng thiếu nữ, thiếu nữ cả giận xoay người, hai chỏ tán ra phía trước và phía sau, thế đánh cực kỳ hung mãnh. Đổng Cự Xuyên biết chỉ dựa vào công lực của bản thân, tuy có thể thủ thắng nhưng phải trải qua một cuộc ác đấu, chỉ e sẽ trễ nãi mất nên ngay từ ban đầu đã dọa nàng ta để nàng ta rối loạn tinh thần, kế đó dùng loại thủ pháp khinh bạc dụ nàng nổi cáu, mà hễ nổi cáu tất sẽ sơ xuất, Đổng Cự Xuyên giơ tay trái đẩy vào cổ tay của kẻ địch, tay phải chụp vào huyệt Khúc Trì của nàng ta, Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Hứa tổng quản, người này là ai? Tại sao vào phòng ngủ của ta bắt người?” Đổng Cự Xuyên cười nói: “Không bắt ả, cha của tiểu thư khó sống!” rồi bước sấn tới, cùng Hứa Thành tấn công nàng thiếu nữ kia.
Nàng ta tên gọi Trần Mỹ Nương, là vợ của Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì. Võ công của Trần Mỹ Nương tuy kém Cam Phụng Trì rất nhiều nhưng cũng thuộc loại hiếm có trong giang hồ. Hai vợ chồng họ thích rong chơi đây đó, hành hiệp trượng nghĩa. Một tháng trước, họ đi theo gánh hát giang hồ đến Hàng Châu mãi nghệ. Vì Cam Phụng Trì quá nổi danh nên phải cải trang, đến Hàng Châu vừa khéo phủ đài Lý Vệ chúc thọ cho mẹ, gọi họ vào phủ nha biểu diễn, con gái của Lý Vệ quý mến Trần Mỹ Nương, thường gọi nàng vào phủ. Cam Phụng Trì chẳng có việc gì khác nên cũng ở lại. Càng ta muốn xem thử trong phủ nhà có những người tài nào nên tham giam cuộc tuyển vệ sĩ, khi Cam Phụng Trì đến Hàng Châu cũng liên lạc với Lộ Dân Đảm, Lữ Tứ Nương và Lộ Dân Đảm đuổi tới Hàng Châu, lập tức tìm Cam Phụng Trì nhờ chàng chỉ cách. Hôm nay gặp lúc Lý Vệ xem khảo thí, Cam Phụng Trì lộ thần kỷ, dùng thủ pháp Sấm sét bắt sống Lý Vệ. Nào ngờ Đổng Cự Xuyên biết có Cam Phụng Trì ở đây, đoán rằng nàng thiếu nữ kia chính là Trần Mỹ Nương nên thử vào nội đường, quả nhiên gặp phải.
Lại nói Cam Phụng Trì bắt Lý Vệ làm con tin, bọn vệ sĩ chẳng dám đến gần. Cam Phụng Trì nôn nóng, quát: “Tên lão tặc họ Đổng sao vẫn chưa quay lại?” nói chưa dứt lời dưới đường đã có người trả lời: “Cam đại hiệp đừng nóng nảy, ta tới đây!”
Đổng Cự Xuyên ba ngón tay nắm mạch môn của Trần Mỹ Nương, cười hì hì dắt nàng lên đường, Cam Phụng Trì thấy thế vừa kinh vừa giận. Đổng Cự Xuyên cười nói: “Đem phủ đài đại nhân trao đổi với hiền tẩu, chẳng phải hai bên đều không thiệt thòi sao?” Cam Phụng Trì tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, nhưng dù thế nào chàng ta cũng phải chịu phép, thế rồi nghiến răng nói: “Được, ngươi trả nàng ra, ta trả phủ đài lại cho ngươi”. Đổng Cự Xuyên nói: “Đại hiệp không cần ngầm hạ độc thủ đấy nhé”. Cam Phụng Trì tức giận nói: “Giang Nam đại hiệp nói một không nói hai”. Đổng Cự Xuyên đẩy Trần Mỹ Nương về phía trước, Cam Phụng Trì cũng thả Lý Vệ ra. Lý Vệ chạy xuống bậc thềm, Trần Mỹ Nương chạy lên, lúc này trong nội đường có tiếng người quát tháo, bọn Ngự lâm quân đột nhiên bên trong phóng ra ngoài.
Lại nói Lý Minh Châu tận mắt chứng kiến Đổng Cự Xuyên bắt Trần Mỹ Nương, vừa kinh vừa giận, nàng không ngờ rằng thiếu nữ mãi nghệ chính là người tên tuổi lẫy lừng, thế là chạy vào phòng ngủ, đóng bình cửa phòng lại nằm khóc òa lên, tức tối vì vệ sĩ của cha nàng chẳng lễ phép với nàng. Đang khóc thút thít, cánh cửa tủ áo bật ra, một người chui ra, đó là một nàng thiếu nữ đẹp như thiên tiên, Lý Minh Châu ngẩn người ra, thiếu nữ mỉm cười: “Tiểu thư đang giận ai đấy? Nói tôi nghe, tôi sẽ có cách trả thù?” lời nói của nàng ta dịu dàng thân thiết, Lý Minh Châu hỏi: “Cô nương là ai?” thiếu nữ nói: “Tôi là tỷ muội của Trần tỷ tỷ”. Lý Minh Châu nói: “Tại sao tôi không thấy cô nương bước vào?” thiếu nữ trả lời: “Tôi nghe nói tiểu thư xinh đẹp tuyệt trần, tôi cũng muốn cùng Trần tỷ tỷ đến gặp cô nương, nhưng cô nương chỉ mời một mình Trần tỷ tỷ nên tôi chỉ đành lén vào đây”. Lý Minh Châu tính vẫn còn trẻ con, nghe nàng ta khen mình xinh đẹp thì rất thích, cười rằng: “Cô nương mới đẹp! Có phải cô nương mới vào gánh hát không?” nàng ta đáp: “Đúng thế! Trước đây tôi cứ tưởng mình rất đẹp, nay gặp tiểu thư mới biết tôi kém hơn rất nhiều!” Lý Minh Châu càng vui hơn, nghĩ rồi chợt hỏi: “Cô nương có cách gì báo thù cho tôi? Tỷ tỷ của cô nương đã bị bọn chúng bắt”. thiếu nữ nói: “Có phải bọn Ngự lâm quân ở kinh thành không?” Lý Minh Châu khẽ gật đầu: “Hình như là thế”. Thiếu nữ nói: “Vậy chúng ta cứ lén thả phạm nhân ra...” Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Không được, cha sẽ mắng tôi”. Thiếu nữ cười nói: “Tiểu thư hãy nghe tôi nói, chúng ta âm thầm giấu đi, sau đó trao cho đại nhân, thế là phạm nhân vẫn ở trong phủ nha nhưng bọn Ngự lâm quân sẽ một phen mất mật. Ai bảo chúng không tôn trọng cha của tiểu thư, lại còn bức hiếp cả tiểu thư nữa?” Lý Minh Châu nói: “Nhưng chúng có người canh”. Thiếu nữ trả lời: “Chỉ cần cô nương dắt tôi vào nhà giam, tôi sẽ có cách”. Lý Minh Châu chỉ là thiếu nữ ngây thơ, chẳng biết trời cao đất dày, nàng cảm thấy việc này rất thú vị, vả lại cũng rất có thiện cảm với phạm nhân, thầm nhủ: “Mình giấu y để làm bạn, chắc chắn thú vị lắm. Tên phạm nhân này trông nho nhã, lại còn biết làm thơ nữa!” thế rồi mới nói: “Chúng ta đi”. Rồi lấy ra hai bộ quần áo nam nhân, nói: “Chúng ta hãy thay đồ”. Thiếu nữ khen: “Tiểu thư thật thông minh”. Chốc lát đã thay đồ xong, Lý Minh Châu dắt nàng đến nhà giam. Bọn vệ sĩ quát: “Ai đó?” Lý Minh Châu phát hoảng lên, chẳng nói ra lời.
Thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân nghe nói khâm phạm bị bệnh, sai ta đến xem thử có nên mời đại phu hay không!” tên lính canh kêu ồ một tiếng rồi nói: “Sao phủ đài đại nhân biết?” thiếu nữ khẽ thúc vào người Lý Minh Châu, nói: “Ngươi quay về bẩm cáo với tổng quản, bảo ông ta đi mời đại phu. Ta vào xem thử”.lúc đầu Lý Minh Châu còn hăng hái, giờ thấy bọn vệ sĩ canh cửa nhìn mình như hung thần ác sát, bất giác lòng hoảng lên, chợt nhớ rằng giơ đây mình chẳng còn là thân phận thiên kim của phủ đài, nếu bị vạch trần thì chẳng phải sẽ mất hứng sao, nghe nàng thiếu nữ nói thế lập tức quay người, vẫy tay nói: “Ngươi xem khâm phạm xong hãy mau chóng đến tìm ta!” thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt kêu lớn: “Ai đó? Không được vào” Lý Minh Châu đã chạy ra. Bọn vệ sĩ canh cửa đưa tay chặn nàng thiếu nữ, thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân muốn xem cũng không được sao?” tên vệ sĩ nói: “Đưa lệnh tiễn của phủ đài đại nhân đến đây!” nàng thiếu nữ mỉm cười, đưa tay búng một cái, điểm vào huyệt đạo của tên vệ sĩ, Tần Trung Việt ở bên trong nghe đánh sầm một tiếng, vội vàng nhảy ra, chỉ thấy một thiếu niên phóng tọt vào, giơ tay điểm vào hai mắt của y. Tần Trung Việt quát lớn: “Có thích khách!” thế rồi hạ bút đâm xéo ra, thân pháp của thiếu niên nhanh nhẹn lạ thường, chàng ta hạ người xuống, trong khi hai bút chưa hợp lại đã bước vào trung cung, chiêu thế không thay đổi, hai ngón tay trầm xuống, đâm thẳng vào huyệt Đương Môn trên ngực. Huyệt Đương Môn còn gọi là Huyết huyệt, là một trong chín tử huyệt của con người, Tần Trung Việt cả kinh né tránh không kịp, vội vàng lăn người xuống đất, phóng cây bút trên tay trái ra, chặn thế công của kẻ địch, thiếu niên ấy vung tay hớt cây bút, trở tay ném lại, đánh ngã một tên vệ sĩ vừa mới nhảy vào. Rồi chàng ta mau chóng đuổi theo, Tần Trung Việt bật người dậy, múa tít cây Phán Quan bút còn lại trong tay, sử dụng như ngũ hành kiếm chặn trước gạt sau. Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cũng dồn vào. thiếu niên này thật lợi hại, chàng ta xoay người vọt một cái vượt qua hai tên Ngự lâm quân. Tần Trung Việt chợt giật mình, vội chạy thẳng đến phòng nhốt tù phạm, nào ngờ tiếng gió kêu lên vù vù, mắt hoa lên, chàng thiếu niên đã lướt qua đầu mình, đứng chặn trước cửa phòng, hai chưởng đẩy ra một vòng tròn, tay trái hất lên, tay phải đè xuống, Tần Trung Việt chặn cây bút lại, chàng thiếu niên đổi chưởng làm chỉ, một chỉ đâm vào huyệt Kỳ Môn, một chỉ điểm vào huyệt Tướng Đài, hai huyệt đạo này là Hôn huyệt, Tần Trung Việt vốn là kẻ giỏi đánh huyệt, thấy chàng thiếu niên này đánh huyệt quá nhanh, sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, y vội vàng thối lui ra sau nào ngờ chẳng còn kịp nữa, vừa mới xoay người lưng đã thấy đau nhói, huyệt Tinh Túc ở be sườn trái đã bị điểm trúng. Huyệt Tinh Túc nằm ở giữa xương thứ hai và xương thứ ba từ trên đếm xuống, thuộc vùng tì vị, là một trong chín Á huyệt của con người, người bị điểm trúng toàn thân đã tê rần.
Sau khi đắc thủ, chàng thiếu niên kéo phạm nhân đứng dậy, khẽ gọi: “Thẩm ca ca!” Thẩm Tại Khoan khẽ rên rỉ, trả lời: “Không cần cứu ta!” chàng thiếu niên chính là Lữ Tứ Nương, nàng ta nghe Thẩm Tại Khoan vẫn còn có thể nói chuyện nên yên bụng. Thế là vác chàng ta lên vai, trong tay cầm thanh kiếm sáng loáng phóng ra ngoài!
Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cửa chỉ quát tháo om sòm chứ chẳng thể nào cản nổi! Lữ Tứ Nương vọt thẳng ra đến đại đường. Cam Phụng Trì lớn tiếng reo, Đổng Cự Xuyên rất kinh hãi. Lý Vệ nói: “Mau chặn lại!” Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long phóng lên. Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, dùng Đại Cầm Nã thủ chụp vào bối tâm của một tên vệ sĩ ném về phía hai người. Trần Mỹ Nương rút cây trủy thủ vượt qua mặt Cam Phụng Trì đâm về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên giơ hai tay che mặt, tung chân phải đá về phía trủy thủ của Trần Mỹ Nương, Trần Mỹ Nương xoay người, Cam Thiên Long đâm tới một kiếm từ bên mặt, Trần Mỹ Nương trở trủy thủ lại gạt ra, Đổng Cự Xuyên xông lên, toan bắt sống Trần Mỹ Nương lần nữa. Chợt nghe vù một tiếng, Cam Phụng Trì lướt tới như mũi tên, hai tay phân ra, bốn cánh tay chạm nhau, Đổng Cự Xuyên lảo đảo suýt nữa đã té sầm xuống đất, thế là rút ra ba mũi Thấu Cốt đinh phóng vèo vèo, Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, tay trái tóm một tên vệ sĩ đẩy về phía trước, ba mũi độc đinh đều cắm phập vào người tên vệ sĩ, rồi chàng ta vung chưởng tiếp tục đánh về phía trước. Đổng Cự Xuyên vội vàng chạy lòng vòng, Lữ Tứ Nương đã chém được hơn mươi tên vệ sĩ xông ra nguyệt môn, quay đầu kêu: “Thất ca thất tẩu, chúng ta đi thôi!” Cam Thiên Long có võ nghệ tương đương với Trần Mỹ Nương, đang giằng co với nàng, bọn vệ sĩ cũng bao vây nàng vào ở giữa. Cam Phụng Trì trong chớp mắt đã đánh tan bọn vệ sĩ bao vây Trần Mỹ Nương. Cam Thiên Long kinh hãi, y vội vàng thối lui thì đã bị Trần Mỹ Nương đâm cây trủy thủ vào be sườn sâu đến ba tấc, rồi phóng ra ngoài. Bọn vệ sĩ trong phủ nha chưa bao giờ thấy cảnh như thế này, thế là vội vàng tản ra. Trong tiếng cười rộ, vợ chồng Cam Phụng Trì đã đuổi theo Lữ Tứ Nương, ba người đều phóng ra khỏi phủ nha.
Lữ Tứ Nương đến nhà Cam Phụng Trì, Trần Mỹ Nương dắt nàng vào phòng ngủ rồi mỉm cười lui ra, thuận tay khép hờ cửa lại. Lữ Tứ Nương đặt Thẩm Tại Khoan lên giường, khẽ nói: “Thẩm ca ca, muội đang ở bên cạnh huynh!” sắc mặt Thẩm Tại Khoan trắng bệt, hai mắt trợn trừng, thở dài nói: “Muội cứu huynh làm gì?” Lữ Tứ Nương thấy tim đập loạn lên, vội vàng mở áo ra xem, nhưng chẳng thấy có thương tích gì, nàng vừa mới buông tay Thẩm Tại Khoan đã bổ nhào xuống. Lữ Tứ Nương ghé tai lên ngực chàng lắng nghe, đưa tay khẽ vặn chân chàng, Thẩm Tại Khoan kêu ối lên một tiếng rồi nằm yên chẳng hề nhúc nhích. Lữ Tứ Nương kinh hãi, chỉ nghe Thẩm Tại Khoan nói: “Huynh đã trở thành phế nhân, muội cứu huynh cũng vô dụng”. Té ra Đổng Cự Xuyên rất xảo quyệt, sợ rằng có người cứu Thẩm Tại Khoan nên đã hạ độc thủ, dùng chưởng lực nội gia đánh đứt gân chi dưới của chàng ta, lại dùng âm lực đánh cho chàng bị nội thương, khiến chàng phải nằm liệt giường. Dù Hoa Đà tái thế cũng chẳng cứu nổi. Lữ Tứ Nương nghe như sấm nổ bên tai, hồn bay phách tán, nhưng vừa nhìn thấy ánh mắt thê lương tuyệt vọng của Thẩm Tại Khoan, nàng vội vàng trấn tỉnh, cứng rắn nói: “Sao lại vô dụng? Tại Khoan, huynh uổng là một bậc danh nho biết bao bậc đại nho tiền bối dù bị khiếm khuyết thương tật nhưng vẫn để lại danh tiếng cho muôn đời sau! Tại Khoan, chết thì dễ lắm, đại trượng phu phải sống trong gian khổ!” Lữ Tứ Nương nói xong thì rơi nước mắt.
Thẩm Tại Khoan nghe nàng khích lệ như thế, chợt thấy sức sống lại trở về, chàng ta nắm chặt tay Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương cũng rơi nước mắt, nhưng lúc này không phải là nước mắt tuyệt vọng, nước mắt ấy đã xua tan nỗi u oán trong lòng Thẩm Tại Khoan, chàng ta đã thấy ý nghĩa của cuộc sống.
Thẩm Tại Khoan nắm tay Lữ Tứ Nương rất lâu, rất lâu, khẽ nói: “Oanh muội, xin đa tạ”. Lữ Tứ Nương mỉm cười, nước mắt rơi lả chả trên mặt chàng. Thẩm Tại Khoan khẽ nói: “Có điều đã phụ tâm ý của muội”. Lữ Tứ Nương đưa mắt, nhìn chàng thắm thiết, quả quyết nói: “Tại Khoan, dù huynh bị tàn phế, nhưng tâm hôn của huynh vẫn khỏe mạnh! Huynh nói như thế có nghĩa coi muội là người ngoài”. Những câu nói ấy kiên định vô cùng, Thẩm Tại Khoan cảm động đến nỗi nghẹn lời. Một hồi sau, Lữ Tứ Nương lại nói: “Huống chi huynh chưa chắc mãi mãi tàn phế, chỉ cần huynh có nghị lực, muội có thể chỉ huynh phép thổ nạp, lúc huynh có thể tự dẫn khí huyết, lấy ý hành khí, huynh sẽ hoàn toàn hồi phục, lại còn khỏe mạnh hơn lúc bình thường”, Thẩm Tại Khoan nói: “Đó có phải là nội công không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế, huynh bị người ta dùng nội công làm cho tàn phế, nên chỉ có tu luyện nội công mới chống cự lại được!” Thẩm Tại Khoan nói: “Phải mất bao lâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Có lẽ phải đến mười năm”. Thẩm Tại Khoan nói: “Được, vậy thì rất hợp với ta”.
Trần Mỹ Nương đứng bên ngoài nghe tiếng khóc, khẽ mở cửa, Lữ Tứ Nương mở cửa kể lại mọi chuyện với vợ chồng Cam Phụng Trì. Trần Mỹ Nương nghe thế thầm than, nhủ rằng dạy một người tàn phế luyện tập nội công, mà người đó lại là một thư sinh chẳng có căn cơ võ công, trói gà không chặt, mười năm chưa chắc đã được, há chẳng phải đã uống phí tuổi thanh xuân của sư muội sao! Cam Phụng Trì nói: “Mười năm thì mười năm, có điều huynh e rằng sư muội không có nội tịnh tu”. Lữ Tứ Nương nói: “Sư đệ của Nhất Niệm đại sư là Nhất Phiêu hòa thượng, nội trong ngày nay sẽ di cư đến Tiên Hà, muội có thể dựng nhà cỏ bên cạnh, chăm sóc cho Tại Khoan”. Cam Phụng Trì nói: “Được, vợ chồng huynh đưa muội lên núi”.
Lữ Tứ Nương thuê một chiếc xe lừa, cải trang dung mạo rồi về quê, sau khi an tán cha già sẽ cùng Nhất Phiêu hòa thượng đến ẩn cư ở Tiên Hà lĩnh. Khi xuống núi Cam Phụng Trì nói với Lữ Tứ Nương: “Sau này chúng ta đấu với lão giặc trọc Liễu Ân, có lẽ phải nhờ sư muội giúp đỡ”. Lữ Tứ Nương nói: “Điều đó đương nhiên, trong thời gian tới muội cũng phải chăm chỉ rèn luyện kiếm pháp”.
Từ đó Thẩm Tại Khoan được Lữ Tứ Nương chăm sóc, tình hình ngày càng tiến triển, bất giác đã năm năm trôi qua.
Một buổi sáng sớm nọ, theo lệ thường Lữ Tứ Nương đến phòng Thẩm Tại Khoan, chưa vào phòng thì chợt thấy một mình chàng ta vịn vách tường đi lại, nàng mừng rỡ đẩy cửa bước vào. Thẩm Tại Khoan nói: “Đêm qua sau khi huynh tập hít thở, chợt thấy khí dồn tùng quang, thăng trầm lên xuống, hình như trong ngực có một vật gì đó có thể chuyển động lên xuống, huynh thử dùng lực đã có thể ngồi dậy, sáng nay huynh vịn tường đã đi từ giường đến án thư được ba vòng”. Lữ Tứ Nương nói: “Huynh đã tiến bộ thần tốc, xem ra không cần đến mười năm. Nhưng huynh mới học không nên quá cực nhọc, hãy lên giường nằm nghỉ”. Nàng chợt thấy trên bàn có mảnh giấy viết mấy hàng chữ, giận dỗi nói: “Huynh vừa mới khỏe một tí đã lao tâm làm thơ, muội phải phạt huynh”. Rồi cầm tờ giấy lên, Thẩm Tại Khoan vội kêu: “Muội muội, trả lại cho huynh!” chàng lảo đảo bước tới, bước chân không vững thế là té soài vào người Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ chàng đến giường, chỉ thấy chàng đỏ ửng cả mặt, Lữ Tứ Nương đọc xong mấy dòng chữ ấy, té ra chẳng phải là thơ mà là một bài từ của tiền nhân, viết – điệu “Cán khê xa”, từ rằng: “Thùy đạo phiêu linh bất khả liên, kim lô đoạn tận tiểu triện hương, nhân sinh hà xứ tự tôn tiền? Kiến liễu hựu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận viễn như thiên, đoạn lại năng hữu kỳ hồi trường?”
Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Té ra chàng ta vẫn còn nghi mình. Chàng yêu thương mình thắm thiết nhưng lại tự ti, sợ rằng mối nhân duyên tựa như hoa trong kính, trăng dưới nước, không dám thổ lộ chân tình với mình nên mới nói ‘kiến liễu hữu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận vẫn như thiên’.” Thẩm Tại Khoan ngẩn ra nhìn nàng, Lữ Tứ Nương thở dài: “Ca ca ngốc, chả lẽ năm năm qua huynh không biết cho tâm sự của muội sao? Dù huynh thế nào, muội vẫn ở bên cạnh huynh”. Thẩm Tại Khoan bất giác rơi nước mắt, hai người nắm tay dịu dàng nhìn nhau. Trong lúc ngây ngất, chợt nghe Nhất Phiêu hòa thượng gọi ở bên ngoài.
Lữ Tứ Nương khẽ nói: “Huynh hãy nghỉ ngơi một lát, đừng nghĩ ngợi chi nhiều, muội đi ra một lát sẽ về”. Bước ra khỏi căn nhà, nàng thấy Nhất Phiêu hòa thượng đang đứng vẫy tay. Lữ Tứ Nương chạy tới, hỏi: “Đại sư gọi có việc gì?” Nhất Phiêu hòa thượng chỉ xuống chân núi, nói: “Cô nương xem kìa!” Lữ Tứ Nương nheo mắt nhìn, chỉ thấy một người từ dưới chân núi chạy lên nhanh như sao xẹt, lúc này đã đến lưng chừng núi, Nhất Phiêu hòa thượng nói: “Kẻ nào biết ta ẩn cư ở đây? Chẳng lẽ là bọn ưng khuyển của triều đình?” Lữ Tứ Nương cười lạnh: “Nếu là ưng khuyển của triều đình chắc chắn bọn chúng đã tìm đến cái chết”. Một hồi sau, bóng người ấy càng lúc càng hiện rõ, Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại là y?” nói chưa dứt lời, người ấy đã nhảy vọt lên tới nơi, kêu lên: “Lữ tỷ tỷ, quả nhiên tỷ ở đây!” Lữ Tứ Nương mừng rỡ nói: “Đường Hiểu Lan, mấy năm không gặp mà ngươi đã lớn thế này”. Lữ Tứ Nương giới thiệu với Nhất Phiêu hòa thượng, Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, đệ tìm tỷ đến khổ!” Lữ Tứ Nương nói: “Sao? Ai bảo cho ngươi biết?” Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp. Nhưng ông ta lại không tin tôi. Lữ tỷ tỷ...” Nhất Phiêu hòa thượng thấy chàng ta nói chẳng đầu chẳng đũa, lại rất thân mật với Lữ Tứ Nương, lòng giật mình, nói: “Để ta vào pha trà cho các người”. Đường Hiểu Lan chờ Nhất Phiêu hòa thượng đi xong mới chợt nói: “Lữ tỷ tỷ, tỷ phải cứu đệ!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Tại sao phải cứu đệ?” Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, người ta đã vu oan cho đệ, chỉ có tỷ mới có thể cứu, tỷ có tin đệ không?” Lữ Tứ Nương dịu dàng cười nói: “Tiểu đệ, ta tưởng đệ đã lớn mà đệ vẫn cứ như trẻ con. Ai đã vu oan cho đệ?” Đường Hiểu Lan rung giọng nói: “Những người hiệp nghĩa trên giang hồ”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại có chuyện như thế? Là ai đã cầm đầu?” Đường Hiểu Lan nói: “Chính là sư phụ trước đây của đệ, Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Còn ai nữa?” Đường Hiểu Lan nói: “Còn có Quan Đông tứ hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Quan Đông tứ hiệp chẳng phải là bằng hữu của Châu Thanh hay sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Họ vốn đối xử tốt với đệ, coi đệ như con cái”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy đệ hãy nói cho ta nghe thử”. Thế là Đường Hiểu Lan bắt đầu kể lại từ lúc theo Dịch Lan Châu lên Thiên Sơn. Đường Hiểu Lan nói: “Tỷ tỷ có còn nhớ đệ có hai điệt nữ song sinh rất dễ thương”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Đúng thế, khi chúng ta mới gặp nhau ở Mang Sơn, Bát Tý Thần Ma cõng một đứa!” Đường Hiểu Lan nói: “Đó là cô chị tên là Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Sau đó Song ma lại cướp thêm một đứa trong tay Chung Vạn Đường nữa, có phải là đứa em hay không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế. Nó tên là Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy có nghĩa là đôi chị em song sinh đều đã lọt vào tay Thần Ma song lão!” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải, điều này thật kỳ lạ. Đệ theo Dịch tổ bà lên Thiên Sơn, người nói: ‘Ta đã bảo sẽ trả lại cho ngươi một đứa điệt nữ!’...” Lữ Tứ Nương chen vào nói: “Ta có nghe bà ta nói câu này ở nhà họ Niên. Có phải là bà ta nuôi dưỡng một đứa trẻ không?” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải là nuôi dưỡng mà cướp về!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Cướp của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Là cướp của Song ma! Số là trước khi Dịch tổ bà gặp đệ, đã từng đến miền Bắc. Ngày nọ đến trước phủ đệ của Tứ bối lạc, thấy Phùng Anh và Song ma chơi đùa, Dịch tổ bà vừa nhìn đã thích, bà tuổi đã già, dang muốn tìm một đồ nhi lanh lẹ, lúc đó bà cũng lấy làm lạ, một đứa trẻ dễ thương như thế sao lại đi cùng hai tên ma đầu? Vả lại xem ra bọn họ không phải cha con. Nhất thời nổi hứng nên lẻn vào phủ, hỏi ra mới biết hai tên ma đầu cũng cướp đứa trẻ này thế là cướp ngay Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Trong phủ Tứ bối lạc cao thủ nhiều như mây, chắc là Dịch lão tiền bối đã gây náo loạn ở đấy?” Đường Hiểu Lan tiếp lời: “Đệ đến Thiên Sơn, Dịch tổ bà gọi Phùng Anh ra gặp đệ”. Lữ Tứ Nương nói: “Khoan đã, khi Dịch tiền bối rời Thiên Sơn, ai chăm sóc cho nó?” Đường Hiểu Lan nói: “Là Võ lão tiền bối”. Lữ Tứ Nương nói: “Ồ, té ra Võ Quỳnh Giao vẫn còn sống” Đường Hiểu Lan nói: “Võ tiền bối rất mến Phùng Anh, suýt nữa đã giành với Dịch tổ bà”. Ngừng một hồi lại nói tiếp: “Đệ gặp Phùng Anh, nó nhoẻn miệng cười với đệ, bên má trái có lún đồng tiền, đệ nhớ nó chính là Phùng Anh, đang định gọi. Dịch tổ bà lại ngăn đệ. Sau đó mới nói rằng Phùng Anh đang luyện công phu cơ bản, tâm thân phải chuyên nhất, vả lại nó chỉ là đứa trẻ bảy tuổi, không thể cho nó biết thân thế” Lữ Tứ Nương nói: “Thế chuyện này có liên quan gì đến đệ?” Đường Hiểu Lan đang định lên tiếng, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Thong thả!” rồi đứng dậy bước lên tảng đá.
Lữ Tứ Nương nói vọng xuống bên dưới: “Nhất Phiêu đại sư, một lát nữa tôi sẽ trở lại, không cần đợi tôi”. Rồi quay đầu lại ngắt một ít trái dại đưa cho Đường Hiểu Lan: “Đệ hãy ăn thử”. Mùi vị quả nhiên dịu ngọt, nồng nồng như có men rượu, Đường Hiểu Lan bất giác ngây ngất. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta qua bên này ngồi, phong cảnh bên này đẹp hơn nhiều”. Đường Hiểu Lan đi theo Lữ Tứ Nương một hồi, chợt gặp một thác nước từ trên cao đổ xuống, tạo thành một đầm nước, Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan ngồi xuống, Lữ Tứ Nương nói: “Ta thích ngồi nơi này nghe tiếng nước”. Đường Hiểu Lan xốn xang cõi lòng nhưng thấy Lữ Tứ Nương nói rất thản nhiên, trong dịu dàng có nét đoan trang, khiến người ta không dám nhìn thẳng, chàng vội vàng định thần, ngồi xuống bên cạnh Lữ Tứ Nương, nói: “Đệ chịu ân lớn của Phùng lão sư ở Nhữ Châu, mười hai năm trước nhà ông ta gặp họa, chuyện đó chắc tỷ cũng biết, lúc đó đệ từng thề rằng phải cứu cho được điệt nữ trong tay của Thần Ma song lão, giờ đây đã tìm được Phùng Anh nhưng Phùng Lâm vẫn trong tay của bọn chúng. Nên đệ học kiếm thuật ba năm, xuống núi liền dò tìm tin tức của Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Phùng Lâm ở trong phủ Tứ bối lạc, dù đệ bản lĩnh cao cường e rằng cũng khó được như mong muốn”. Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế! Nên sau đó mới gây ra chuyện. Cả đệ cũng không ngờ đến. Chuyện này cứ như một giấc mơ. Tỷ tỷ, tỷ đừng trách đệ, đệ coi tỷ như người thân nên mong tỷ hãy nghe kỹ”. Thế là Đường Hiểu Lan kể lại câu chuyện éo le ly kỳ mà mình đã trải qua.
Số là Đường Hiểu Lan rất cẩn thận, sau khi hạ sơn chàng không tìm ngay hai tên ma đầu. Chàng rong ruổi trên giang hồ, trước tiên đến bán đảo Liêu Đông, tìm Quan Đông tứ hiệp. Lúc này chàng đã là một thanh niên hai mươi tám tuổi, Quan Đông tứ hiệp lấy chàng đã lớn thành người, vui mừng lắm, Huyền Phong đạo trưởng nghe chàng sắp đến Bắc Kinh dò tìm Phùng Lâm, nói với chàng rằng: “Ta có một người quen tên gọi Cẩn Ngũ, khi nào đến Bắc Kinh cứ tìm y”. Đường Hiểu Lan cải dạng đến miền Bắc, vừa khéo Cẩn Ngũ đã ra ngoài. Đường Hiểu Lan chỉ đành trọ tại một ngồi chùa ở Tây Sơn, suốt ngày chẳng có việc gì làm nên đi thăm thú khắp nơi, một ngày nọ chàng mướn xe ngựa đến Nam Khẩu, leo lên Cư Dung Quan.
Vạn Lý Trường Thành từ Gia Dụ Quan đến Sơn Hải Quan, kéo dài hơn một vạn hai ngàn dặm, Cư Dung Quan băng qua Bát Đạt Lĩnh. Đường Hiểu Lan leo lên ngọn núi hiểm trở, chỉ thấy Vạn Lý Trường Thành kéo dài dằng dặc, tựa như một con trường xà. Quan thành Cư Dung Quan ở phía Bắc của Nam khẩu, hai bên là đỉnh núi nhỏ hẹp, trên núi hoa dại mọc um tùm, kết thành một bức tranh đẹp đẽ. Nơi đây chính là một trong Yên Kinh bát cảnh, Cư Dung Thúy Điệp. Đường Hiểu Lan ngắm một hồi lại đi qua những danh thắng như Lục Lan Ảnh, Mục Quế Anh điểm tướng đài, lên đến đỉnh cao của Bát Đạt Lĩnh, chỉ thấy có một vách núi có tạc hai chữ “thiên hiểm”, thế núi cực kỳ hiểm trở, Vạn Lý Trường Thành bắc qua sườn núi, Đường Hiểu Lan chợt bộc phát hào tình, leo lên trường thành cởi áo đón gió, cảm thấy đất trời rộng lớn bao la mà con người thì nhỏ bé.
Kiến trúc Vạn Lý Trường Thành rất hùng vĩ, trên tường thành có thể chứa năm con ngựa cùng phóng qua. Đường Hiểu Lan đứng trên trường thành đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy thế núi trùng điệp vô tận, Cư Dung Quan nằm ở phía Bắc, Vạn Lý Trường Thành tựa như một con trường xà băng núi vượt đèo. Hôm ấy trời trong sáng, đứng trên tường thành có thể thấy thấp thoáng ngọn Bạch tháp ở Bắc Hải trong kinh thành. Đường Hiểu Lan thấy xung quanh không có người, chàng chợt nổi hứng tháo kiếm ra múa, đang lúc đắc ý chợt nghe có người khen: “Kiếm pháp hay!” Đường Hiểu Lan thất kinh, khi thâu kiếm lại nhìn không biết có một ông già đã đứng trên tường thành từ bao giờ. Đường Hiểu Lan nói: “Làm kinh động đến lão trượng, xin thứ lỗi”. Ông già cười bước tới, chợt hỏi: “Châu Thanh là người thế nào với ngươi?” Đường Hiểu Lan nào dám nói, chỉ đáp: “Vãn bối kiến thức nông cạn, xin hỏi ai là Châu Thanh?” Ông già nói: “Ồ, ngươi đang nghi ngờ ta? Khi ta quen biết với Châu Thanh, chỉ e ngươi vẫn chưa ra đời. Đưa kiếm của ngươi cho ta xem”. Châu Thanh là khâm phạm của triều đình, Đường Hiểu Lan không biết ông già là người thế nào, trong lòng lo lắng, thấy ông ta cứ bước dấn tới, không khỏi nổi cáu nói: “Tại sao phải đưa cho ông xem?” ông già chợt nói: “Nghe nói Châu Thanh đã chết, có phải không?”
Đường Hiểu Lan nói: “Nếu ông đã là bằng hữu của người, sao lại không biết?” ông già biến sắc, quát: “Ai đã giết ông ta, khai ra cho mau!” Đường Hiểu Lan nói: “Ông có phải là đương sai trong cung không?” ông già giãn nét mặt, chợt cười: “Nếu ngươi đã biết ta là vệ sĩ trong cung, vậy Châu Thanh chắc chắn đã từng nói với ngươi, hãy đưa thanh kiếm cho ta xem có phải là Du Long kiếm hay không!” Đường Hiểu Lan nói câu ấy chỉ là muốn dò thử, thấy ông ta thản nhiên nhận, thất kinh quát: “Té ra ngươi là ưng khuyển của triều đình, có bản lĩnh thì cứ đến lấy thanh kiếm này!” rồi chàng vung thanh kiếm lên, ông già chưng hửng, tựa như đã nổi cáu, quát: “Thật không biết trời cao đất dày!” Đường Hiểu Lan lo ông ta còn có đồng đảng, thế là đâm tới một nhát kiếm, ông già lách qua, quát: “Ngươi đúng là không biết tốt xấu!” Đường Hiểu Lan ra tay nhanh như chớp, chỉ trong nháy mắt đã tấn công liền năm chiêu, ông già không ngờ rằng kiếm pháp của chàng hiểm hóc tinh kỳ đến thế, không thể lên tiếng nói chuyện được với chàng, chỉ đành ngậm miệng vung chưởng. Một hồi sau, Đường Hiểu Lan càng đánh càng nhanh, khiến ông già luống cuống chân tay, ông già thầm thất kinh, nhủ rằng: “Sao kiếm pháp của tên thiếu niên này còn hơn cả Châu Thanh, chả lẽ mình đã nhìn nhầm, y không phải là kẻ mình muốn tìm”. Ông ta thối lui từng bước, Đường Hiểu Lan nổi lên sát cơ, đuổi sát theo sau, ông già chợt quát lớn, rút một thanh kiếm trong eo ra, chỉ nghe keng một tiếng, cây kiếm của ông già chập vào với cây Du Long kiếm, đánh một chiêu Thừa Long Dẫn Phụng, đẩy kiếm của Đường Hiểu Lan ra ngoài. Đường Hiểu Lan thất kinh, vội vàng thừa thế đẩy về phía trước, hóa giải thế kiếm ấy rồi chém soạt soạt vào kiếm của ông già, thân pháp của ông ta phiêu hốt, kiếm chiêu vô định, không để cho kiếm của Đường Hiểu Lan chạm vào, khi không né tránh được thì dùng phương pháp lấy nhu khắc cương hóa giải thế công của chàng. Đường Hiểu Lan theo Dịch Lan Châu học được ba năm, kiếm pháp thi triển ra nhanh như điện chớp, công lực của ông già cực kỳ cao cường, kiếm pháp tuy không bằng chàng nhưng chưa đến nỗi thất bại. Kiếm pháp của Đường Hiểu Lan tinh kỳ nhưng nội lực kém người ta, đấu được một trăm chiêu mồ hôi đã toát đầm đìa. Chàng rất lo lắng, không ngờ rằng mình học được Thiên Sơn kiếm pháp mà chẳng hạ nổi ông ta.
Đường Hiểu Lan không biết rằng, nếu chẳng phải chàng theo Dịch Lan Châu học ba năm kiếm pháp đã sớm thất bại. Đấu một hồi nữa, kiếm thế của Đường Hiểu Lan tuy vẫn không hề chậm lại nhưng đã dần dần cảm thấy hơi thở nặng nề. Đang lúc ác đấu, chợt nghe dưới tường thành có người kêu: “Hầu lão gia tử, ông đang đùa với ai thế?” Đường Hiểu Lan biết đó là đồng đảng của ông già, nghĩ bụng ba mươi sáu kế chạy là thượng sách, thế là đâm soạt soạt mấy kiếm mạnh như mãnh sư, rõ ràng là tấn công gấp tới nhưng thật sự là bỏ chạy, trong lúc ông già chống trả, Đường Hiểu Lan đã lách người bỏ chạy, ở dưới chân thành có mấy người đã chạy lên trên đầu thành, trong lúc gấp gáp Đường Hiểu Lan quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy những kẻ ăn mặc theo kiểu vệ sĩ, chàng càng chạy càng nhanh, được khoảng hơn mười dặm mới ngừng chân, lúc này đã đến gần Cư Dung Quan, trên Cư Dung Quan cũng có binh lính, Đường Hiểu Lan nhảy xuống tường thành, lẩn vào trong núi cho đến hoàng hôn mới dám trở về.
Đường Hiểu Lan lo lắng mấy ngày, may mà chẳng có chuyện gì xảy ra. vì thế lại đến nhà Cẩn Ngũ hỏi thăm, té ra Cẩn Ngũ đã về mấy ngày trước. Đường Hiểu Lan lấy ra bức thư của Huyền Phong đạo trưởng đưa cho Cẩn Ngũ. Cẩn Ngũ nói: “Trong hoàng phủ có nhiều người làm, tiểu huynh đệ cứ lẩn vào cải trang thành kẻ nô bộc. Không cần cho tổng quản biết, chỉ nói với viên chấp sự là được”. Đường Hiểu Lan thầm nhủ cứ tìm cơ hội dắt Phùng Lâm đi cũng được, vì thế nhờ Cẩn Ngũ tìm cho mình một chân nô bộc quét vườn.
Phủ đệ của Tứ bối lạc không nằm trong Tử Cấm thành, vốn là thần miếu để hoàng thất nuôi dưỡng Lạt Ma, nay Tứ bối lạc chiếm một nửa làm nơi ở, sau khi Tứ bối lạc lên ngôi, đổi thành thiền viện của Hoàng giáo, được ban tên là Ung Hòa cung, là một nơi bí hiểm có tiếng trong kinh thành. cung điện này rất rộng, đền đài hùng vĩ. Vườn hoa rất lớn, cây cối cao chọc trời. Đường Hiểu Lan vào hoàng phủ, chỉ thấy khắp nơi đều là những tượng Phật kỳ lạ. Làm việc được nửa tháng mà chàng chẳng thấy Phùng Lâm, cả Liễu Ân, Cáp Bố Đà và Thần Ma song lão cũng không thấy xuất hiện.
Một chiều nọ, Đường Hiểu Lan làm xong công việc, vốn cùng Cẩn Ngũ trở về nhà, chợt nghe hậu viên có tiếng cười của thiếu nữ, chàng len lén vào nhìn thì thấy có mấy đứa trẻ đang chơi trốn tìm trong vườn, trong đó có một bé gái khoảng mười hai mười ba tuổi, thân pháp rất lanh lẹ, bọn trẻ không thể nào bắt được cô bé, Đường Hiểu Lan nhìn một hồi, cô bé chơi rất vui, cứ cười khanh khách không thôi, ở má phải có lún đồng tiền trông rất xinh xắn. Đường Hiểu Lan đợi một hồi, bọn trẻ nói: “Không bắt được ngươi, không chơi với ngươi nữa”. Trời dần dần tối, bọn trẻ tản đi, Đường Hiểu Lan nhẹ nhàng đến bên cạnh nó, chợt nói: “Phùng Lâm, muội có còn nhớ Chung bá bá không?” đứa bé gái tròn mắt hỏi: “Ngươi nói gì? Ai là Phùng Lâm? Ai là Chung bá bá, ta có rất nhiều bá bá nhưng không ai họ Chung cả, có phải Chung bá bá mới đến không?” Đường Hiểu Lan thấy lòng đau nhói, thầm nhủ: “Khi Chung Vạn Đường chết, đứa trẻ này chỉ có bảy tuổi, làm sao có thể nhớ được chuyện gì”. Vì thế mới nói: “Muội đừng sợ, ta và cha của muội là hảo bằng hữu”.
Phùng Lâm nói: “Ta có nhiều nghĩa phụ, ngươi là hảo bằng hữu của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Cha mẹ ruột của muội muội”. Phùng Lâm nói: “Ta còn có cha mẹ ruột? Ngươi nói dối!” Đường Hiểu Lan nói: “Cha của muội bị người ta hại chết, mẹ của muội vẫn chưa chết. Khi còn bé ta đã từng bé muội, ta dắt muội ra ngoài học võ công, tìm mẹ của muội”. Phùng Lâm bật cười, nói: “Ngươi dắt ta ra ngoài? Học võ nghệ? Hừ, ngươi chính là kẻ xấu!” rồi vung tay, mấy mũi phi đao bay vút ra!
Đường Hiểu Lan xoay người, một mũi phi đao lướt qua hông chàng, Đường Hiểu Lan đột nhiên giơ ngang hai ngón tay, kẹp mũi phi đao thứ hai ném ra ngoài đánh rơi mũi thứ ba, Phùng Lâm vỗ tay nói: “Hay lắm, ngươi hãy thử tiếp xem sao, nếu tránh được cả, ta sẽ gọi ngươi là bá bá, học võ công của ngươi!” rồi bàn tay nhỏ nhắn tiếp tục vung lên, sáu mũi phi đao chia thành ba nhóm bay tới, bay được nửa đường đột nhiên tách ra hai bên trái phải, đó là tuyệt kỹ phi đao của Chung Vạn Đường, Phùng Lâm đã được ông ta chân truyền, Đường Hiểu Lan vốn muốn dùng tay không tiếp đao nhưng không thể nào để mắt nhìn xung quanh, chỉ nghe soạt soạt hai tiếng, hai mũi phi đao bay lướt qua tai chàng. Phùng Lâm vung tay liên tục, phi đao bay ra liên tiếp, càng lúc càng nhanh, Đường Hiểu Lan buộc phải rút thanh Du Long kiếm quét tạt ngang một cái, chỉ nghe tiếng kim khí gãy leng keng, toàn bộ số phi đao của Phùng Lâm đã bị Du Long kiếm chặt gãy. Ngay lúc này, chợt nghe hai tiếng hú dài quái dị, có người quát: “Ai làm càn ở đây?” Phùng Lâm kêu: “Tát bá bá, kẻ này bảo điệt nữ theo y!”
Đường Hiểu Lan phóng vọt người lên, định lao qua tường, ở trên tường chợt có một bóng đen phóng xuống, mười ngón tay từ trên không chụp xuống, Đường Hiểu Lan vội vàng lia kiếm đánh ra một chiêu, rồi xoay người nhảy bổ về phía Phùng Lâm, chợt lại nghe một tiếng quát lớn, Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đã chặn đường chàng. Phùng Lâm nấp sau lưng Tát Thiên Đô, tay cầm sẵn phi đao, miệng thì cười hì hì.
Kẻ từ trên tường nhảy xuống là Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích, cả hai huynh đệ kẹp Đường Hiểu Lan ở giữa, Tát Thiên Thích cười ha hả: “Đường Hiểu Lan, té ra là ngươi! Ngươi muốn đến đây bái sư ư?” Phùng Lâm nói: “Không phải, y muốn điệt nữ đi theo. Y nói sẽ dạy võ công cho điệt nữ!” Tát Thiên Đô quát: “Hay lắm, xem thử ngươi có cao chiêu gì?” rồi hai chưởng vung lên bổ thẳng tới, chưởng trái chém vào ngực, chưởng phải chụp vào cổ tay của chàng, Đường Hiểu Lan lia thanh kiếm nhanh như gió, Tát Thiên Đô không ngờ rằng kiếm pháp của chàng lại lanh lẹ đến thế, y vội vàng rút chưởng lại. Đường Hiểu Lan vẫy mũi kiếm, vạch một đường trên vai của y, Tát Thiên Thích vội vàng thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích phóng vọt người lên rồi bổ nhào xuống, Đường Hiểu Lan vẫy ra một đóa kiếm hoa, múa thành một đường ngân hồng che trên đỉnh đầu, Tát Thiên Thích xoay người trên không trung, chao liệng ba vòng mà chẳng tấn công được, chỉ đành hạ xuống đất. Tát Thiên Đô gầm lên như sấm, vung quyền đánh tới. Đường Hiểu Lan đâm soạt soạt hai kiếm về phía hai tên ma đầu, Tát Thiên Thích quát: “Kiếm pháp hay!” rồi trở tay chụp lại, mười móng tay chụp vào cổ tay của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan đánh ra một chiêu Thu Thủy Hoành Châu, chém ngang qua, Tát Thiên Thích chợt đổi hướng chụp vào sườn trái, hai chưởng của Tát Thiên Đô cũng bổ tới trước mặt. Đường Hiểu Lan vung thanh kiếm, vội thi triển Hàn đào kiếm pháp trong Thiên Sơn kiếm pháp ra, chỉ thấy lãnh điện sáng loáng, kiếm hoa tuôn ra như thác đổ, Tát Thiên Thích luồn qua lách lại trong màn kiếm quang, tìm cách tấn công Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan không nhảy ra được, Tát Thiên Thích cũng không thể sấn tới gần. Tát Thiên Đô đứng bên ngoài phát chưởng, chưởng nào cũng có kình lực mạnh mẽ, chưởng phong kêu lên vù vù, mỗi chưởng đều khiến mũi kiếm của Đường Hiểu Lan đánh lệch qua, tạo cơ hội cho Tát Thiên Thích tấn công vào. Kiếm chiêu của Đường Hiểu Lan tuy thần diệu nhưng công lực lại không sâu, chỉ trong chốc lát đã khó cầm cự, Tát Thiên Thích nhe nanh múa vuốt, càng đánh càng hung dữ!
Phùng Lâm vỗ tay cười: “Không biết xấu hổ, bản lĩnh như thế mà cũng đòi là sư phụ của ta”. Đường Hiểu Lan quát: “Phùng Lâm, hai người này là kẻ thù của muội, dù y giỏi đến mức nào muội cũng không được nhận giặc làm cha!” Đường Hiểu Lan thấy mình nguy hiểm, khó thoát ra được, bởi vậy mặc cho Phùng Lâm vẫn chưa hiểu việc, cũng phải nhắc nhở cô bé. Tát Thiên Thích chợt biến sắc, nói: “Yến nhi, đừng nghe y nói”. Rồi tung đòn càng hung dữ hơn, Đường Hiểu Lan sấn tới mấy lần đều bị y đẩy trở lại, xem ra sắp nguy tới nơi. Tát Thiên Thích quát: “Còn chưa buông kiếm đầu hàng!” Đường Hiểu Lan nghiến răng, múa kiếm cố tấn công. Lúc này người trong hoàng phủ đã bị kinh động, kéo ùa ra hậu viên, xem hai lão ma đầu bắt thích khách. Cẩn Trung thầm kêu khổ, đang định chạy trốn, chợt nghe bên ngoài có tiếng quát: “Mọi người dạt qua hai bên”, một đám người bước vào. Kẻ đứng đầu quát: “Cáp tổng quản của các người đâu? Bảo Dận Trinh đến gặp ta”. Tát Thiên Thích nhảy vọt ra khỏi vòng, Đường Hiểu Lan không thể rút lui được nữa.
Kẻ dẫn đầu là con trai trưởng của Hoàng đế Khang Hy, Trực Quận vương Dận Đề. Tuy Khang Hy chưa lập bị quân, nhưng trong đám hoàng từ, Dận Đề có quyền uy lớn nhất. Lúc đó cuộc tranh đoạt ngôi vị đang diễn ra rất kịch liệt, thế lực của Tứ bối lạc Dận Trinh, Bát bối lạc Dận Tự, Thập bối lạc Dận Nga, Thập tứ bối lạc Dận Đê là lớn nhất. Dận Đề là con trưởng, đương nhiên không chịu buông ngôi vua nên cũng cấu kết với một đám quần thần, nuôi một đám tử sĩ. Tứ bối lạc thưởng cải trang xuất kinh, ngày Đường Hiểu Lan vào kinh là lúc Tứ bối lạc ra ngoài nên Cáp Bố Đà, Liễu Ân và bọn Thiên Diệp cũng theo y. Tứ bối lạc tự tiện xuất kinh vốn là chuyện tuyệt mật, không ngờ Dận Đề lại biết.
Bối lạc tự tiện xuất kinh là chuyện phạm pháp. Tứ bối lạc Dận Trinh mỗi lần xuất kinh đều báo với vua cha mình bị bệnh. May mà Khang Hy có nhiều con cái, vả lại chẳng thương yêu gì Tứ bối lạc, rất ít khi triệu vào cung dù đôi khi triệu y vào cung, nghe y bệnh cũng thôi. Nên Tứ bối lạc ngày càng lớn gan, ở ngoài thì nhiều mà ở trong cung thì ít. Lần này Dận Đề điều tra được Dận Trinh tự tiện xuất kinh, vậy là nảy ra một kế, đích thân đến bái phỏng. Vào đến hoàng phủ nghe có tiếng quát tháo, y rất ngạc nhiên nên vào hậu viên xem.
Tát Thiên Thích vừa thấy thì luống cuống, vội vàng bẩm: “Tứ điện hạ bị bệnh không ngồi dậy nổi, không thể đích thân tiếp điện hạ”. Dận Đề nói: “Ta phải đi thăm hắn”. Rồi ra lệnh cho Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Để tôi bắt tên thích khách này trước”. Dận Đề chợt quay lại một tên vệ sĩ bên cạnh, nói: “Hầu Tam Biến, ngươi hãy bắt tên thích khách này”. Rồi vẫn nói với Tát Thiên Thích: “Không cần ngươi nhọc sức, dắt ta đi gặp Dận Trinh”. Tên vệ sĩ bên cạnh Dận Đề vâng một tiếng, phóng vọt ra, Đường Hiểu Lan ngẩng đầu nhìn lên thì thất kinh, người đó chẳng phải ai khác mà chính là lão già mà chàng đã gặp trên Vạn Lý Trường Thành. Lúc này Đường Hiểu Lan đã nhụt chí, thầm nhủ: “Dù sao cũng chạy không thoát, rơi vào trong tay lão ta còn hơn lọt vào trong tay hai tên ma đầu”. Chàng đánh hờ vài chiêu, Hầu Tam Biến thi triển Đại Cầm Nã thủ nhấc bổng chàng lên.
Dận Đề nói: “Được, ngươi giải thích khách về trước”. Té ra Dận Đề nghi ngờ thích khách này có liên quan đến chuyện đoạt vị giữa các huynh đệ nên không giao chàng ta cho người của phủ Dận Trinh mà bảo Hầu Tam Biến giải về trước để đích thân thẩm vấn.
Dận Đề lại quát Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Tôi chỉ là một vệ sĩ, làm sao dám tự tiện bước vào nội phủ”. Dận Đề chợt biến sắc.
Ngay lúc đó, một bé gái ở phía sau lưng Tát Thiên Đô lách ra, nói: “Điện hạ, tôi dẫn đường cho ngài”. Dận Đề nói: “Ngươi là ai?” Phùng Lâm nói: “Tôi là tì nữ hầu hạ tứ điện hạ”. Dận Đề nói: “Được, ngươi rất ngoan ngoãn, đi thôi”. Phùng Lâm nháy mắt với Tát Thiên Thích, dắt Dận Đề vào nội phủ.
Hầu Tam Biến bắt Đường Hiểu Lan, vội vàng phóng ra ngoài, bọn thái giám đã thắng sẵn xe ngựa, chạy thẳng vào cấm thành. Dận Đề là trưởng tử nên được sống trong cung. Xe ngựa chạy một hồi, vào cung từ Thần Võ môn ở phía sau. Sau khi xuống xe, hai thái giám đi ở phía trước, Hầu Tam Biến kẹp Đường Hiểu Lan đi phía sau, đi được một lúc lâu trời đã tối, các cung đều đã đóng cửa, trong vườn chỉ có bọn thái giám đi tuần. Dận Đề sống trong cung Thừa Càn ở phía Đông. Ba mươi sáu cung điện ở phía Tây là nơi ở của Hoàng đế và hậu phi, nếu chưa được gọi vệ sĩ và gia nhân của các bối lạc không được vào, đi được một hồi, đã đến nơi giao giới giữa hai cung Đông Tây, Hầu Tam Biến chợt khẽ nói vào tai Đường Hiểu Lan: “Ngươi mau chạy vào Tây cung, vượt qua hộ tường, tiếp tục chạy về phía Bắc khoảng hai trăm bước có một hòn non bộ, vòng qua hòn non bộ có một hồ sen, tiếp tục đi về bên trái của hồ sen năm mươi bước sẽ có căn nhà đá, ngươi đẩy cửa vào đấy, thấy người không được sợ, đảm bảo ngươi sẽ thoát hiểm!” nói xong thì đột nhiên buông tay, quát: “Ôi chao, tên thích khách thật lợi hại!” rồi rút thanh kiếm đâm mạnh vào chân mình, hai tên thái giám quay đầu lại, Đường Hiểu Lan đã phóng vọt lên tường, chạy vào Tây viện.
Đường Hiểu Lan thấy tim mình đập thình thình, không biết tại sao Hầu Tam Biến lại tha cho mình nhưng chàng đã sa cơ, chỉ đành đi theo lời y. Hoàng cung rất lớn, Đường Hiểu Lan vượt qua hộ tường, phóng vào vườn hoa, chạy tiếp về phía Bắc hai trăm bước, quả nhiên thấy có một hòn non bộ, chàng chạy vòng qua hòn non bộ thì đúng là có một hồ sen, Đường Hiểu Lan lại tiếp tục đi về phía bên trái năm mươi bước, tìm thấy căn nhà đá. Trong cung điện huy hoàng, chỉ có căn nhà đá này là xấu xí nhất, chàng bước tới cửa, chỉ thấy cõi lòng lạnh lẽo, trước mái toàn là tơ nhện, nghĩ bụng bình thường rất ít người tới. Đường Hiểu Lan đẩy cửa tiến vào, bước lên bậc tam cấp, chợt nghe bên trong có giọng nói yếu ớt: “Ai thế?” Đường Hiểu Lan đẩy cửa phòng ra, chợt thấy có một phụ nữ tóc bạc, người gầy đét đang gãy đàn dao. Thấy Đường Hiểu Lan bước vào thì trợn mắt lên.
Đường Hiểu Lan nói: “Hầu Tam Biến bảo tôi đến đây!” người đàn bà kêu ồ một tiếng, mắt chợt sáng lên, nhìn chằm chằm Đường Hiểu Lan, cơ mặt cứ dần giật, hai dòng nước mắt tuôn dài, Đường Hiểu Lan tựa như cảm thấy đã gặp người đàn bà này ở đâu đấy, cõi lòng thấy lạnh lẽo.
Người đàn bà nhìn một hồi, khẽ nói: “Ngươi ngồi xuống đây!” giọng nói tuy nhỏ nhưng tựa như có một sức mạnh không thể chống cử nổi. Đường Hiểu Lan ngồi xuống, lại nghe bà ta khẽ nói: “Cởi áo ra!” Đường Hiểu Lan thất kinh, người đàn bà nói: “Ta bảo ngươi cởi áo, ngươi hãy nhìn thử xem ở trước ngực ngươi có một nốt ruồi đen rất lớn, hai bên vú ngươi có hai nốt ruồi đen nhỏ thành hình chữ “phẩm”, ngươi tự sờ thử xem có đúng không?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh.
Chính là:
Thân thế như chim bao, thâm cung gặp chuyện lạ.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
Hứa Thành là người thân tín của Lý Vệ, bình thường cũng hay vào nội đường nên Lý Minh Châu không nghi ngờ, chỉ vén rèm hỏi: “Cha gọi ta có chuyện gì?” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đổng Cự Xuyên lướt người lao bổ vào phòng trong. Nàng thiếu nữ ở phía sau né không kịp, chân phải tung ra một cú đá, Đổng Cự Xuyên đột nhiên thu người lại, gót chân xoay tròn, hai tay đẩy ra, nàng thiếu nữ đá hụt, chợt thấy chưởng phong quét vào, ống chân, vội vàng ngửa người ra sau tránh thế đánh của kẻ địch. Đổng Cự Xuyên không hề thâu thế, tay trái chụp vào cổ tay của kẻ địch, tay phải đấm vào mặt, thế công liên miên bất tuyệt, nàng thiếu nữ lạng người phất tay ra, hóa giải thế chưởng của Đổng Cự Xuyên, tay trái đấm về phía trước mặt, hóa giải quyền trái của kẻ địch, Đổng Cự Xuyên quát: “Trần Mỹ Nương, chồng của ngươi đã bị bắt, ngươi còn dám chống cử?”
Nàng thiếu nữ giật mình, Đổng Cự Xuyên trầm tay trái xuống, tay phải đánh vào huyệt Huyền Cơ giữa ngực của nàng thiếu nữ, thiếu nữ cả giận xoay người, hai chỏ tán ra phía trước và phía sau, thế đánh cực kỳ hung mãnh. Đổng Cự Xuyên biết chỉ dựa vào công lực của bản thân, tuy có thể thủ thắng nhưng phải trải qua một cuộc ác đấu, chỉ e sẽ trễ nãi mất nên ngay từ ban đầu đã dọa nàng ta để nàng ta rối loạn tinh thần, kế đó dùng loại thủ pháp khinh bạc dụ nàng nổi cáu, mà hễ nổi cáu tất sẽ sơ xuất, Đổng Cự Xuyên giơ tay trái đẩy vào cổ tay của kẻ địch, tay phải chụp vào huyệt Khúc Trì của nàng ta, Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Hứa tổng quản, người này là ai? Tại sao vào phòng ngủ của ta bắt người?” Đổng Cự Xuyên cười nói: “Không bắt ả, cha của tiểu thư khó sống!” rồi bước sấn tới, cùng Hứa Thành tấn công nàng thiếu nữ kia.
Nàng ta tên gọi Trần Mỹ Nương, là vợ của Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì. Võ công của Trần Mỹ Nương tuy kém Cam Phụng Trì rất nhiều nhưng cũng thuộc loại hiếm có trong giang hồ. Hai vợ chồng họ thích rong chơi đây đó, hành hiệp trượng nghĩa. Một tháng trước, họ đi theo gánh hát giang hồ đến Hàng Châu mãi nghệ. Vì Cam Phụng Trì quá nổi danh nên phải cải trang, đến Hàng Châu vừa khéo phủ đài Lý Vệ chúc thọ cho mẹ, gọi họ vào phủ nha biểu diễn, con gái của Lý Vệ quý mến Trần Mỹ Nương, thường gọi nàng vào phủ. Cam Phụng Trì chẳng có việc gì khác nên cũng ở lại. Càng ta muốn xem thử trong phủ nhà có những người tài nào nên tham giam cuộc tuyển vệ sĩ, khi Cam Phụng Trì đến Hàng Châu cũng liên lạc với Lộ Dân Đảm, Lữ Tứ Nương và Lộ Dân Đảm đuổi tới Hàng Châu, lập tức tìm Cam Phụng Trì nhờ chàng chỉ cách. Hôm nay gặp lúc Lý Vệ xem khảo thí, Cam Phụng Trì lộ thần kỷ, dùng thủ pháp Sấm sét bắt sống Lý Vệ. Nào ngờ Đổng Cự Xuyên biết có Cam Phụng Trì ở đây, đoán rằng nàng thiếu nữ kia chính là Trần Mỹ Nương nên thử vào nội đường, quả nhiên gặp phải.
Lại nói Cam Phụng Trì bắt Lý Vệ làm con tin, bọn vệ sĩ chẳng dám đến gần. Cam Phụng Trì nôn nóng, quát: “Tên lão tặc họ Đổng sao vẫn chưa quay lại?” nói chưa dứt lời dưới đường đã có người trả lời: “Cam đại hiệp đừng nóng nảy, ta tới đây!”
Đổng Cự Xuyên ba ngón tay nắm mạch môn của Trần Mỹ Nương, cười hì hì dắt nàng lên đường, Cam Phụng Trì thấy thế vừa kinh vừa giận. Đổng Cự Xuyên cười nói: “Đem phủ đài đại nhân trao đổi với hiền tẩu, chẳng phải hai bên đều không thiệt thòi sao?” Cam Phụng Trì tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, nhưng dù thế nào chàng ta cũng phải chịu phép, thế rồi nghiến răng nói: “Được, ngươi trả nàng ra, ta trả phủ đài lại cho ngươi”. Đổng Cự Xuyên nói: “Đại hiệp không cần ngầm hạ độc thủ đấy nhé”. Cam Phụng Trì tức giận nói: “Giang Nam đại hiệp nói một không nói hai”. Đổng Cự Xuyên đẩy Trần Mỹ Nương về phía trước, Cam Phụng Trì cũng thả Lý Vệ ra. Lý Vệ chạy xuống bậc thềm, Trần Mỹ Nương chạy lên, lúc này trong nội đường có tiếng người quát tháo, bọn Ngự lâm quân đột nhiên bên trong phóng ra ngoài.
Lại nói Lý Minh Châu tận mắt chứng kiến Đổng Cự Xuyên bắt Trần Mỹ Nương, vừa kinh vừa giận, nàng không ngờ rằng thiếu nữ mãi nghệ chính là người tên tuổi lẫy lừng, thế là chạy vào phòng ngủ, đóng bình cửa phòng lại nằm khóc òa lên, tức tối vì vệ sĩ của cha nàng chẳng lễ phép với nàng. Đang khóc thút thít, cánh cửa tủ áo bật ra, một người chui ra, đó là một nàng thiếu nữ đẹp như thiên tiên, Lý Minh Châu ngẩn người ra, thiếu nữ mỉm cười: “Tiểu thư đang giận ai đấy? Nói tôi nghe, tôi sẽ có cách trả thù?” lời nói của nàng ta dịu dàng thân thiết, Lý Minh Châu hỏi: “Cô nương là ai?” thiếu nữ nói: “Tôi là tỷ muội của Trần tỷ tỷ”. Lý Minh Châu nói: “Tại sao tôi không thấy cô nương bước vào?” thiếu nữ trả lời: “Tôi nghe nói tiểu thư xinh đẹp tuyệt trần, tôi cũng muốn cùng Trần tỷ tỷ đến gặp cô nương, nhưng cô nương chỉ mời một mình Trần tỷ tỷ nên tôi chỉ đành lén vào đây”. Lý Minh Châu tính vẫn còn trẻ con, nghe nàng ta khen mình xinh đẹp thì rất thích, cười rằng: “Cô nương mới đẹp! Có phải cô nương mới vào gánh hát không?” nàng ta đáp: “Đúng thế! Trước đây tôi cứ tưởng mình rất đẹp, nay gặp tiểu thư mới biết tôi kém hơn rất nhiều!” Lý Minh Châu càng vui hơn, nghĩ rồi chợt hỏi: “Cô nương có cách gì báo thù cho tôi? Tỷ tỷ của cô nương đã bị bọn chúng bắt”. thiếu nữ nói: “Có phải bọn Ngự lâm quân ở kinh thành không?” Lý Minh Châu khẽ gật đầu: “Hình như là thế”. Thiếu nữ nói: “Vậy chúng ta cứ lén thả phạm nhân ra...” Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Không được, cha sẽ mắng tôi”. Thiếu nữ cười nói: “Tiểu thư hãy nghe tôi nói, chúng ta âm thầm giấu đi, sau đó trao cho đại nhân, thế là phạm nhân vẫn ở trong phủ nha nhưng bọn Ngự lâm quân sẽ một phen mất mật. Ai bảo chúng không tôn trọng cha của tiểu thư, lại còn bức hiếp cả tiểu thư nữa?” Lý Minh Châu nói: “Nhưng chúng có người canh”. Thiếu nữ trả lời: “Chỉ cần cô nương dắt tôi vào nhà giam, tôi sẽ có cách”. Lý Minh Châu chỉ là thiếu nữ ngây thơ, chẳng biết trời cao đất dày, nàng cảm thấy việc này rất thú vị, vả lại cũng rất có thiện cảm với phạm nhân, thầm nhủ: “Mình giấu y để làm bạn, chắc chắn thú vị lắm. Tên phạm nhân này trông nho nhã, lại còn biết làm thơ nữa!” thế rồi mới nói: “Chúng ta đi”. Rồi lấy ra hai bộ quần áo nam nhân, nói: “Chúng ta hãy thay đồ”. Thiếu nữ khen: “Tiểu thư thật thông minh”. Chốc lát đã thay đồ xong, Lý Minh Châu dắt nàng đến nhà giam. Bọn vệ sĩ quát: “Ai đó?” Lý Minh Châu phát hoảng lên, chẳng nói ra lời.
Thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân nghe nói khâm phạm bị bệnh, sai ta đến xem thử có nên mời đại phu hay không!” tên lính canh kêu ồ một tiếng rồi nói: “Sao phủ đài đại nhân biết?” thiếu nữ khẽ thúc vào người Lý Minh Châu, nói: “Ngươi quay về bẩm cáo với tổng quản, bảo ông ta đi mời đại phu. Ta vào xem thử”.lúc đầu Lý Minh Châu còn hăng hái, giờ thấy bọn vệ sĩ canh cửa nhìn mình như hung thần ác sát, bất giác lòng hoảng lên, chợt nhớ rằng giơ đây mình chẳng còn là thân phận thiên kim của phủ đài, nếu bị vạch trần thì chẳng phải sẽ mất hứng sao, nghe nàng thiếu nữ nói thế lập tức quay người, vẫy tay nói: “Ngươi xem khâm phạm xong hãy mau chóng đến tìm ta!” thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt kêu lớn: “Ai đó? Không được vào” Lý Minh Châu đã chạy ra. Bọn vệ sĩ canh cửa đưa tay chặn nàng thiếu nữ, thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân muốn xem cũng không được sao?” tên vệ sĩ nói: “Đưa lệnh tiễn của phủ đài đại nhân đến đây!” nàng thiếu nữ mỉm cười, đưa tay búng một cái, điểm vào huyệt đạo của tên vệ sĩ, Tần Trung Việt ở bên trong nghe đánh sầm một tiếng, vội vàng nhảy ra, chỉ thấy một thiếu niên phóng tọt vào, giơ tay điểm vào hai mắt của y. Tần Trung Việt quát lớn: “Có thích khách!” thế rồi hạ bút đâm xéo ra, thân pháp của thiếu niên nhanh nhẹn lạ thường, chàng ta hạ người xuống, trong khi hai bút chưa hợp lại đã bước vào trung cung, chiêu thế không thay đổi, hai ngón tay trầm xuống, đâm thẳng vào huyệt Đương Môn trên ngực. Huyệt Đương Môn còn gọi là Huyết huyệt, là một trong chín tử huyệt của con người, Tần Trung Việt cả kinh né tránh không kịp, vội vàng lăn người xuống đất, phóng cây bút trên tay trái ra, chặn thế công của kẻ địch, thiếu niên ấy vung tay hớt cây bút, trở tay ném lại, đánh ngã một tên vệ sĩ vừa mới nhảy vào. Rồi chàng ta mau chóng đuổi theo, Tần Trung Việt bật người dậy, múa tít cây Phán Quan bút còn lại trong tay, sử dụng như ngũ hành kiếm chặn trước gạt sau. Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cũng dồn vào. thiếu niên này thật lợi hại, chàng ta xoay người vọt một cái vượt qua hai tên Ngự lâm quân. Tần Trung Việt chợt giật mình, vội chạy thẳng đến phòng nhốt tù phạm, nào ngờ tiếng gió kêu lên vù vù, mắt hoa lên, chàng thiếu niên đã lướt qua đầu mình, đứng chặn trước cửa phòng, hai chưởng đẩy ra một vòng tròn, tay trái hất lên, tay phải đè xuống, Tần Trung Việt chặn cây bút lại, chàng thiếu niên đổi chưởng làm chỉ, một chỉ đâm vào huyệt Kỳ Môn, một chỉ điểm vào huyệt Tướng Đài, hai huyệt đạo này là Hôn huyệt, Tần Trung Việt vốn là kẻ giỏi đánh huyệt, thấy chàng thiếu niên này đánh huyệt quá nhanh, sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, y vội vàng thối lui ra sau nào ngờ chẳng còn kịp nữa, vừa mới xoay người lưng đã thấy đau nhói, huyệt Tinh Túc ở be sườn trái đã bị điểm trúng. Huyệt Tinh Túc nằm ở giữa xương thứ hai và xương thứ ba từ trên đếm xuống, thuộc vùng tì vị, là một trong chín Á huyệt của con người, người bị điểm trúng toàn thân đã tê rần.
Sau khi đắc thủ, chàng thiếu niên kéo phạm nhân đứng dậy, khẽ gọi: “Thẩm ca ca!” Thẩm Tại Khoan khẽ rên rỉ, trả lời: “Không cần cứu ta!” chàng thiếu niên chính là Lữ Tứ Nương, nàng ta nghe Thẩm Tại Khoan vẫn còn có thể nói chuyện nên yên bụng. Thế là vác chàng ta lên vai, trong tay cầm thanh kiếm sáng loáng phóng ra ngoài!
Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cửa chỉ quát tháo om sòm chứ chẳng thể nào cản nổi! Lữ Tứ Nương vọt thẳng ra đến đại đường. Cam Phụng Trì lớn tiếng reo, Đổng Cự Xuyên rất kinh hãi. Lý Vệ nói: “Mau chặn lại!” Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long phóng lên. Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, dùng Đại Cầm Nã thủ chụp vào bối tâm của một tên vệ sĩ ném về phía hai người. Trần Mỹ Nương rút cây trủy thủ vượt qua mặt Cam Phụng Trì đâm về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên giơ hai tay che mặt, tung chân phải đá về phía trủy thủ của Trần Mỹ Nương, Trần Mỹ Nương xoay người, Cam Thiên Long đâm tới một kiếm từ bên mặt, Trần Mỹ Nương trở trủy thủ lại gạt ra, Đổng Cự Xuyên xông lên, toan bắt sống Trần Mỹ Nương lần nữa. Chợt nghe vù một tiếng, Cam Phụng Trì lướt tới như mũi tên, hai tay phân ra, bốn cánh tay chạm nhau, Đổng Cự Xuyên lảo đảo suýt nữa đã té sầm xuống đất, thế là rút ra ba mũi Thấu Cốt đinh phóng vèo vèo, Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, tay trái tóm một tên vệ sĩ đẩy về phía trước, ba mũi độc đinh đều cắm phập vào người tên vệ sĩ, rồi chàng ta vung chưởng tiếp tục đánh về phía trước. Đổng Cự Xuyên vội vàng chạy lòng vòng, Lữ Tứ Nương đã chém được hơn mươi tên vệ sĩ xông ra nguyệt môn, quay đầu kêu: “Thất ca thất tẩu, chúng ta đi thôi!” Cam Thiên Long có võ nghệ tương đương với Trần Mỹ Nương, đang giằng co với nàng, bọn vệ sĩ cũng bao vây nàng vào ở giữa. Cam Phụng Trì trong chớp mắt đã đánh tan bọn vệ sĩ bao vây Trần Mỹ Nương. Cam Thiên Long kinh hãi, y vội vàng thối lui thì đã bị Trần Mỹ Nương đâm cây trủy thủ vào be sườn sâu đến ba tấc, rồi phóng ra ngoài. Bọn vệ sĩ trong phủ nha chưa bao giờ thấy cảnh như thế này, thế là vội vàng tản ra. Trong tiếng cười rộ, vợ chồng Cam Phụng Trì đã đuổi theo Lữ Tứ Nương, ba người đều phóng ra khỏi phủ nha.
Lữ Tứ Nương đến nhà Cam Phụng Trì, Trần Mỹ Nương dắt nàng vào phòng ngủ rồi mỉm cười lui ra, thuận tay khép hờ cửa lại. Lữ Tứ Nương đặt Thẩm Tại Khoan lên giường, khẽ nói: “Thẩm ca ca, muội đang ở bên cạnh huynh!” sắc mặt Thẩm Tại Khoan trắng bệt, hai mắt trợn trừng, thở dài nói: “Muội cứu huynh làm gì?” Lữ Tứ Nương thấy tim đập loạn lên, vội vàng mở áo ra xem, nhưng chẳng thấy có thương tích gì, nàng vừa mới buông tay Thẩm Tại Khoan đã bổ nhào xuống. Lữ Tứ Nương ghé tai lên ngực chàng lắng nghe, đưa tay khẽ vặn chân chàng, Thẩm Tại Khoan kêu ối lên một tiếng rồi nằm yên chẳng hề nhúc nhích. Lữ Tứ Nương kinh hãi, chỉ nghe Thẩm Tại Khoan nói: “Huynh đã trở thành phế nhân, muội cứu huynh cũng vô dụng”. Té ra Đổng Cự Xuyên rất xảo quyệt, sợ rằng có người cứu Thẩm Tại Khoan nên đã hạ độc thủ, dùng chưởng lực nội gia đánh đứt gân chi dưới của chàng ta, lại dùng âm lực đánh cho chàng bị nội thương, khiến chàng phải nằm liệt giường. Dù Hoa Đà tái thế cũng chẳng cứu nổi. Lữ Tứ Nương nghe như sấm nổ bên tai, hồn bay phách tán, nhưng vừa nhìn thấy ánh mắt thê lương tuyệt vọng của Thẩm Tại Khoan, nàng vội vàng trấn tỉnh, cứng rắn nói: “Sao lại vô dụng? Tại Khoan, huynh uổng là một bậc danh nho biết bao bậc đại nho tiền bối dù bị khiếm khuyết thương tật nhưng vẫn để lại danh tiếng cho muôn đời sau! Tại Khoan, chết thì dễ lắm, đại trượng phu phải sống trong gian khổ!” Lữ Tứ Nương nói xong thì rơi nước mắt.
Thẩm Tại Khoan nghe nàng khích lệ như thế, chợt thấy sức sống lại trở về, chàng ta nắm chặt tay Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương cũng rơi nước mắt, nhưng lúc này không phải là nước mắt tuyệt vọng, nước mắt ấy đã xua tan nỗi u oán trong lòng Thẩm Tại Khoan, chàng ta đã thấy ý nghĩa của cuộc sống.
Thẩm Tại Khoan nắm tay Lữ Tứ Nương rất lâu, rất lâu, khẽ nói: “Oanh muội, xin đa tạ”. Lữ Tứ Nương mỉm cười, nước mắt rơi lả chả trên mặt chàng. Thẩm Tại Khoan khẽ nói: “Có điều đã phụ tâm ý của muội”. Lữ Tứ Nương đưa mắt, nhìn chàng thắm thiết, quả quyết nói: “Tại Khoan, dù huynh bị tàn phế, nhưng tâm hôn của huynh vẫn khỏe mạnh! Huynh nói như thế có nghĩa coi muội là người ngoài”. Những câu nói ấy kiên định vô cùng, Thẩm Tại Khoan cảm động đến nỗi nghẹn lời. Một hồi sau, Lữ Tứ Nương lại nói: “Huống chi huynh chưa chắc mãi mãi tàn phế, chỉ cần huynh có nghị lực, muội có thể chỉ huynh phép thổ nạp, lúc huynh có thể tự dẫn khí huyết, lấy ý hành khí, huynh sẽ hoàn toàn hồi phục, lại còn khỏe mạnh hơn lúc bình thường”, Thẩm Tại Khoan nói: “Đó có phải là nội công không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế, huynh bị người ta dùng nội công làm cho tàn phế, nên chỉ có tu luyện nội công mới chống cự lại được!” Thẩm Tại Khoan nói: “Phải mất bao lâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Có lẽ phải đến mười năm”. Thẩm Tại Khoan nói: “Được, vậy thì rất hợp với ta”.
Trần Mỹ Nương đứng bên ngoài nghe tiếng khóc, khẽ mở cửa, Lữ Tứ Nương mở cửa kể lại mọi chuyện với vợ chồng Cam Phụng Trì. Trần Mỹ Nương nghe thế thầm than, nhủ rằng dạy một người tàn phế luyện tập nội công, mà người đó lại là một thư sinh chẳng có căn cơ võ công, trói gà không chặt, mười năm chưa chắc đã được, há chẳng phải đã uống phí tuổi thanh xuân của sư muội sao! Cam Phụng Trì nói: “Mười năm thì mười năm, có điều huynh e rằng sư muội không có nội tịnh tu”. Lữ Tứ Nương nói: “Sư đệ của Nhất Niệm đại sư là Nhất Phiêu hòa thượng, nội trong ngày nay sẽ di cư đến Tiên Hà, muội có thể dựng nhà cỏ bên cạnh, chăm sóc cho Tại Khoan”. Cam Phụng Trì nói: “Được, vợ chồng huynh đưa muội lên núi”.
Lữ Tứ Nương thuê một chiếc xe lừa, cải trang dung mạo rồi về quê, sau khi an tán cha già sẽ cùng Nhất Phiêu hòa thượng đến ẩn cư ở Tiên Hà lĩnh. Khi xuống núi Cam Phụng Trì nói với Lữ Tứ Nương: “Sau này chúng ta đấu với lão giặc trọc Liễu Ân, có lẽ phải nhờ sư muội giúp đỡ”. Lữ Tứ Nương nói: “Điều đó đương nhiên, trong thời gian tới muội cũng phải chăm chỉ rèn luyện kiếm pháp”.
Từ đó Thẩm Tại Khoan được Lữ Tứ Nương chăm sóc, tình hình ngày càng tiến triển, bất giác đã năm năm trôi qua.
Một buổi sáng sớm nọ, theo lệ thường Lữ Tứ Nương đến phòng Thẩm Tại Khoan, chưa vào phòng thì chợt thấy một mình chàng ta vịn vách tường đi lại, nàng mừng rỡ đẩy cửa bước vào. Thẩm Tại Khoan nói: “Đêm qua sau khi huynh tập hít thở, chợt thấy khí dồn tùng quang, thăng trầm lên xuống, hình như trong ngực có một vật gì đó có thể chuyển động lên xuống, huynh thử dùng lực đã có thể ngồi dậy, sáng nay huynh vịn tường đã đi từ giường đến án thư được ba vòng”. Lữ Tứ Nương nói: “Huynh đã tiến bộ thần tốc, xem ra không cần đến mười năm. Nhưng huynh mới học không nên quá cực nhọc, hãy lên giường nằm nghỉ”. Nàng chợt thấy trên bàn có mảnh giấy viết mấy hàng chữ, giận dỗi nói: “Huynh vừa mới khỏe một tí đã lao tâm làm thơ, muội phải phạt huynh”. Rồi cầm tờ giấy lên, Thẩm Tại Khoan vội kêu: “Muội muội, trả lại cho huynh!” chàng lảo đảo bước tới, bước chân không vững thế là té soài vào người Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ chàng đến giường, chỉ thấy chàng đỏ ửng cả mặt, Lữ Tứ Nương đọc xong mấy dòng chữ ấy, té ra chẳng phải là thơ mà là một bài từ của tiền nhân, viết – điệu “Cán khê xa”, từ rằng: “Thùy đạo phiêu linh bất khả liên, kim lô đoạn tận tiểu triện hương, nhân sinh hà xứ tự tôn tiền? Kiến liễu hựu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận viễn như thiên, đoạn lại năng hữu kỳ hồi trường?”
Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Té ra chàng ta vẫn còn nghi mình. Chàng yêu thương mình thắm thiết nhưng lại tự ti, sợ rằng mối nhân duyên tựa như hoa trong kính, trăng dưới nước, không dám thổ lộ chân tình với mình nên mới nói ‘kiến liễu hữu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận vẫn như thiên’.” Thẩm Tại Khoan ngẩn ra nhìn nàng, Lữ Tứ Nương thở dài: “Ca ca ngốc, chả lẽ năm năm qua huynh không biết cho tâm sự của muội sao? Dù huynh thế nào, muội vẫn ở bên cạnh huynh”. Thẩm Tại Khoan bất giác rơi nước mắt, hai người nắm tay dịu dàng nhìn nhau. Trong lúc ngây ngất, chợt nghe Nhất Phiêu hòa thượng gọi ở bên ngoài.
Lữ Tứ Nương khẽ nói: “Huynh hãy nghỉ ngơi một lát, đừng nghĩ ngợi chi nhiều, muội đi ra một lát sẽ về”. Bước ra khỏi căn nhà, nàng thấy Nhất Phiêu hòa thượng đang đứng vẫy tay. Lữ Tứ Nương chạy tới, hỏi: “Đại sư gọi có việc gì?” Nhất Phiêu hòa thượng chỉ xuống chân núi, nói: “Cô nương xem kìa!” Lữ Tứ Nương nheo mắt nhìn, chỉ thấy một người từ dưới chân núi chạy lên nhanh như sao xẹt, lúc này đã đến lưng chừng núi, Nhất Phiêu hòa thượng nói: “Kẻ nào biết ta ẩn cư ở đây? Chẳng lẽ là bọn ưng khuyển của triều đình?” Lữ Tứ Nương cười lạnh: “Nếu là ưng khuyển của triều đình chắc chắn bọn chúng đã tìm đến cái chết”. Một hồi sau, bóng người ấy càng lúc càng hiện rõ, Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại là y?” nói chưa dứt lời, người ấy đã nhảy vọt lên tới nơi, kêu lên: “Lữ tỷ tỷ, quả nhiên tỷ ở đây!” Lữ Tứ Nương mừng rỡ nói: “Đường Hiểu Lan, mấy năm không gặp mà ngươi đã lớn thế này”. Lữ Tứ Nương giới thiệu với Nhất Phiêu hòa thượng, Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, đệ tìm tỷ đến khổ!” Lữ Tứ Nương nói: “Sao? Ai bảo cho ngươi biết?” Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp. Nhưng ông ta lại không tin tôi. Lữ tỷ tỷ...” Nhất Phiêu hòa thượng thấy chàng ta nói chẳng đầu chẳng đũa, lại rất thân mật với Lữ Tứ Nương, lòng giật mình, nói: “Để ta vào pha trà cho các người”. Đường Hiểu Lan chờ Nhất Phiêu hòa thượng đi xong mới chợt nói: “Lữ tỷ tỷ, tỷ phải cứu đệ!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Tại sao phải cứu đệ?” Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, người ta đã vu oan cho đệ, chỉ có tỷ mới có thể cứu, tỷ có tin đệ không?” Lữ Tứ Nương dịu dàng cười nói: “Tiểu đệ, ta tưởng đệ đã lớn mà đệ vẫn cứ như trẻ con. Ai đã vu oan cho đệ?” Đường Hiểu Lan rung giọng nói: “Những người hiệp nghĩa trên giang hồ”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại có chuyện như thế? Là ai đã cầm đầu?” Đường Hiểu Lan nói: “Chính là sư phụ trước đây của đệ, Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Còn ai nữa?” Đường Hiểu Lan nói: “Còn có Quan Đông tứ hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Quan Đông tứ hiệp chẳng phải là bằng hữu của Châu Thanh hay sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Họ vốn đối xử tốt với đệ, coi đệ như con cái”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy đệ hãy nói cho ta nghe thử”. Thế là Đường Hiểu Lan bắt đầu kể lại từ lúc theo Dịch Lan Châu lên Thiên Sơn. Đường Hiểu Lan nói: “Tỷ tỷ có còn nhớ đệ có hai điệt nữ song sinh rất dễ thương”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Đúng thế, khi chúng ta mới gặp nhau ở Mang Sơn, Bát Tý Thần Ma cõng một đứa!” Đường Hiểu Lan nói: “Đó là cô chị tên là Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Sau đó Song ma lại cướp thêm một đứa trong tay Chung Vạn Đường nữa, có phải là đứa em hay không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế. Nó tên là Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy có nghĩa là đôi chị em song sinh đều đã lọt vào tay Thần Ma song lão!” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải, điều này thật kỳ lạ. Đệ theo Dịch tổ bà lên Thiên Sơn, người nói: ‘Ta đã bảo sẽ trả lại cho ngươi một đứa điệt nữ!’...” Lữ Tứ Nương chen vào nói: “Ta có nghe bà ta nói câu này ở nhà họ Niên. Có phải là bà ta nuôi dưỡng một đứa trẻ không?” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải là nuôi dưỡng mà cướp về!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Cướp của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Là cướp của Song ma! Số là trước khi Dịch tổ bà gặp đệ, đã từng đến miền Bắc. Ngày nọ đến trước phủ đệ của Tứ bối lạc, thấy Phùng Anh và Song ma chơi đùa, Dịch tổ bà vừa nhìn đã thích, bà tuổi đã già, dang muốn tìm một đồ nhi lanh lẹ, lúc đó bà cũng lấy làm lạ, một đứa trẻ dễ thương như thế sao lại đi cùng hai tên ma đầu? Vả lại xem ra bọn họ không phải cha con. Nhất thời nổi hứng nên lẻn vào phủ, hỏi ra mới biết hai tên ma đầu cũng cướp đứa trẻ này thế là cướp ngay Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Trong phủ Tứ bối lạc cao thủ nhiều như mây, chắc là Dịch lão tiền bối đã gây náo loạn ở đấy?” Đường Hiểu Lan tiếp lời: “Đệ đến Thiên Sơn, Dịch tổ bà gọi Phùng Anh ra gặp đệ”. Lữ Tứ Nương nói: “Khoan đã, khi Dịch tiền bối rời Thiên Sơn, ai chăm sóc cho nó?” Đường Hiểu Lan nói: “Là Võ lão tiền bối”. Lữ Tứ Nương nói: “Ồ, té ra Võ Quỳnh Giao vẫn còn sống” Đường Hiểu Lan nói: “Võ tiền bối rất mến Phùng Anh, suýt nữa đã giành với Dịch tổ bà”. Ngừng một hồi lại nói tiếp: “Đệ gặp Phùng Anh, nó nhoẻn miệng cười với đệ, bên má trái có lún đồng tiền, đệ nhớ nó chính là Phùng Anh, đang định gọi. Dịch tổ bà lại ngăn đệ. Sau đó mới nói rằng Phùng Anh đang luyện công phu cơ bản, tâm thân phải chuyên nhất, vả lại nó chỉ là đứa trẻ bảy tuổi, không thể cho nó biết thân thế” Lữ Tứ Nương nói: “Thế chuyện này có liên quan gì đến đệ?” Đường Hiểu Lan đang định lên tiếng, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Thong thả!” rồi đứng dậy bước lên tảng đá.
Lữ Tứ Nương nói vọng xuống bên dưới: “Nhất Phiêu đại sư, một lát nữa tôi sẽ trở lại, không cần đợi tôi”. Rồi quay đầu lại ngắt một ít trái dại đưa cho Đường Hiểu Lan: “Đệ hãy ăn thử”. Mùi vị quả nhiên dịu ngọt, nồng nồng như có men rượu, Đường Hiểu Lan bất giác ngây ngất. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta qua bên này ngồi, phong cảnh bên này đẹp hơn nhiều”. Đường Hiểu Lan đi theo Lữ Tứ Nương một hồi, chợt gặp một thác nước từ trên cao đổ xuống, tạo thành một đầm nước, Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan ngồi xuống, Lữ Tứ Nương nói: “Ta thích ngồi nơi này nghe tiếng nước”. Đường Hiểu Lan xốn xang cõi lòng nhưng thấy Lữ Tứ Nương nói rất thản nhiên, trong dịu dàng có nét đoan trang, khiến người ta không dám nhìn thẳng, chàng vội vàng định thần, ngồi xuống bên cạnh Lữ Tứ Nương, nói: “Đệ chịu ân lớn của Phùng lão sư ở Nhữ Châu, mười hai năm trước nhà ông ta gặp họa, chuyện đó chắc tỷ cũng biết, lúc đó đệ từng thề rằng phải cứu cho được điệt nữ trong tay của Thần Ma song lão, giờ đây đã tìm được Phùng Anh nhưng Phùng Lâm vẫn trong tay của bọn chúng. Nên đệ học kiếm thuật ba năm, xuống núi liền dò tìm tin tức của Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Phùng Lâm ở trong phủ Tứ bối lạc, dù đệ bản lĩnh cao cường e rằng cũng khó được như mong muốn”. Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế! Nên sau đó mới gây ra chuyện. Cả đệ cũng không ngờ đến. Chuyện này cứ như một giấc mơ. Tỷ tỷ, tỷ đừng trách đệ, đệ coi tỷ như người thân nên mong tỷ hãy nghe kỹ”. Thế là Đường Hiểu Lan kể lại câu chuyện éo le ly kỳ mà mình đã trải qua.
Số là Đường Hiểu Lan rất cẩn thận, sau khi hạ sơn chàng không tìm ngay hai tên ma đầu. Chàng rong ruổi trên giang hồ, trước tiên đến bán đảo Liêu Đông, tìm Quan Đông tứ hiệp. Lúc này chàng đã là một thanh niên hai mươi tám tuổi, Quan Đông tứ hiệp lấy chàng đã lớn thành người, vui mừng lắm, Huyền Phong đạo trưởng nghe chàng sắp đến Bắc Kinh dò tìm Phùng Lâm, nói với chàng rằng: “Ta có một người quen tên gọi Cẩn Ngũ, khi nào đến Bắc Kinh cứ tìm y”. Đường Hiểu Lan cải dạng đến miền Bắc, vừa khéo Cẩn Ngũ đã ra ngoài. Đường Hiểu Lan chỉ đành trọ tại một ngồi chùa ở Tây Sơn, suốt ngày chẳng có việc gì làm nên đi thăm thú khắp nơi, một ngày nọ chàng mướn xe ngựa đến Nam Khẩu, leo lên Cư Dung Quan.
Vạn Lý Trường Thành từ Gia Dụ Quan đến Sơn Hải Quan, kéo dài hơn một vạn hai ngàn dặm, Cư Dung Quan băng qua Bát Đạt Lĩnh. Đường Hiểu Lan leo lên ngọn núi hiểm trở, chỉ thấy Vạn Lý Trường Thành kéo dài dằng dặc, tựa như một con trường xà. Quan thành Cư Dung Quan ở phía Bắc của Nam khẩu, hai bên là đỉnh núi nhỏ hẹp, trên núi hoa dại mọc um tùm, kết thành một bức tranh đẹp đẽ. Nơi đây chính là một trong Yên Kinh bát cảnh, Cư Dung Thúy Điệp. Đường Hiểu Lan ngắm một hồi lại đi qua những danh thắng như Lục Lan Ảnh, Mục Quế Anh điểm tướng đài, lên đến đỉnh cao của Bát Đạt Lĩnh, chỉ thấy có một vách núi có tạc hai chữ “thiên hiểm”, thế núi cực kỳ hiểm trở, Vạn Lý Trường Thành bắc qua sườn núi, Đường Hiểu Lan chợt bộc phát hào tình, leo lên trường thành cởi áo đón gió, cảm thấy đất trời rộng lớn bao la mà con người thì nhỏ bé.
Kiến trúc Vạn Lý Trường Thành rất hùng vĩ, trên tường thành có thể chứa năm con ngựa cùng phóng qua. Đường Hiểu Lan đứng trên trường thành đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy thế núi trùng điệp vô tận, Cư Dung Quan nằm ở phía Bắc, Vạn Lý Trường Thành tựa như một con trường xà băng núi vượt đèo. Hôm ấy trời trong sáng, đứng trên tường thành có thể thấy thấp thoáng ngọn Bạch tháp ở Bắc Hải trong kinh thành. Đường Hiểu Lan thấy xung quanh không có người, chàng chợt nổi hứng tháo kiếm ra múa, đang lúc đắc ý chợt nghe có người khen: “Kiếm pháp hay!” Đường Hiểu Lan thất kinh, khi thâu kiếm lại nhìn không biết có một ông già đã đứng trên tường thành từ bao giờ. Đường Hiểu Lan nói: “Làm kinh động đến lão trượng, xin thứ lỗi”. Ông già cười bước tới, chợt hỏi: “Châu Thanh là người thế nào với ngươi?” Đường Hiểu Lan nào dám nói, chỉ đáp: “Vãn bối kiến thức nông cạn, xin hỏi ai là Châu Thanh?” Ông già nói: “Ồ, ngươi đang nghi ngờ ta? Khi ta quen biết với Châu Thanh, chỉ e ngươi vẫn chưa ra đời. Đưa kiếm của ngươi cho ta xem”. Châu Thanh là khâm phạm của triều đình, Đường Hiểu Lan không biết ông già là người thế nào, trong lòng lo lắng, thấy ông ta cứ bước dấn tới, không khỏi nổi cáu nói: “Tại sao phải đưa cho ông xem?” ông già chợt nói: “Nghe nói Châu Thanh đã chết, có phải không?”
Đường Hiểu Lan nói: “Nếu ông đã là bằng hữu của người, sao lại không biết?” ông già biến sắc, quát: “Ai đã giết ông ta, khai ra cho mau!” Đường Hiểu Lan nói: “Ông có phải là đương sai trong cung không?” ông già giãn nét mặt, chợt cười: “Nếu ngươi đã biết ta là vệ sĩ trong cung, vậy Châu Thanh chắc chắn đã từng nói với ngươi, hãy đưa thanh kiếm cho ta xem có phải là Du Long kiếm hay không!” Đường Hiểu Lan nói câu ấy chỉ là muốn dò thử, thấy ông ta thản nhiên nhận, thất kinh quát: “Té ra ngươi là ưng khuyển của triều đình, có bản lĩnh thì cứ đến lấy thanh kiếm này!” rồi chàng vung thanh kiếm lên, ông già chưng hửng, tựa như đã nổi cáu, quát: “Thật không biết trời cao đất dày!” Đường Hiểu Lan lo ông ta còn có đồng đảng, thế là đâm tới một nhát kiếm, ông già lách qua, quát: “Ngươi đúng là không biết tốt xấu!” Đường Hiểu Lan ra tay nhanh như chớp, chỉ trong nháy mắt đã tấn công liền năm chiêu, ông già không ngờ rằng kiếm pháp của chàng hiểm hóc tinh kỳ đến thế, không thể lên tiếng nói chuyện được với chàng, chỉ đành ngậm miệng vung chưởng. Một hồi sau, Đường Hiểu Lan càng đánh càng nhanh, khiến ông già luống cuống chân tay, ông già thầm thất kinh, nhủ rằng: “Sao kiếm pháp của tên thiếu niên này còn hơn cả Châu Thanh, chả lẽ mình đã nhìn nhầm, y không phải là kẻ mình muốn tìm”. Ông ta thối lui từng bước, Đường Hiểu Lan nổi lên sát cơ, đuổi sát theo sau, ông già chợt quát lớn, rút một thanh kiếm trong eo ra, chỉ nghe keng một tiếng, cây kiếm của ông già chập vào với cây Du Long kiếm, đánh một chiêu Thừa Long Dẫn Phụng, đẩy kiếm của Đường Hiểu Lan ra ngoài. Đường Hiểu Lan thất kinh, vội vàng thừa thế đẩy về phía trước, hóa giải thế kiếm ấy rồi chém soạt soạt vào kiếm của ông già, thân pháp của ông ta phiêu hốt, kiếm chiêu vô định, không để cho kiếm của Đường Hiểu Lan chạm vào, khi không né tránh được thì dùng phương pháp lấy nhu khắc cương hóa giải thế công của chàng. Đường Hiểu Lan theo Dịch Lan Châu học được ba năm, kiếm pháp thi triển ra nhanh như điện chớp, công lực của ông già cực kỳ cao cường, kiếm pháp tuy không bằng chàng nhưng chưa đến nỗi thất bại. Kiếm pháp của Đường Hiểu Lan tinh kỳ nhưng nội lực kém người ta, đấu được một trăm chiêu mồ hôi đã toát đầm đìa. Chàng rất lo lắng, không ngờ rằng mình học được Thiên Sơn kiếm pháp mà chẳng hạ nổi ông ta.
Đường Hiểu Lan không biết rằng, nếu chẳng phải chàng theo Dịch Lan Châu học ba năm kiếm pháp đã sớm thất bại. Đấu một hồi nữa, kiếm thế của Đường Hiểu Lan tuy vẫn không hề chậm lại nhưng đã dần dần cảm thấy hơi thở nặng nề. Đang lúc ác đấu, chợt nghe dưới tường thành có người kêu: “Hầu lão gia tử, ông đang đùa với ai thế?” Đường Hiểu Lan biết đó là đồng đảng của ông già, nghĩ bụng ba mươi sáu kế chạy là thượng sách, thế là đâm soạt soạt mấy kiếm mạnh như mãnh sư, rõ ràng là tấn công gấp tới nhưng thật sự là bỏ chạy, trong lúc ông già chống trả, Đường Hiểu Lan đã lách người bỏ chạy, ở dưới chân thành có mấy người đã chạy lên trên đầu thành, trong lúc gấp gáp Đường Hiểu Lan quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy những kẻ ăn mặc theo kiểu vệ sĩ, chàng càng chạy càng nhanh, được khoảng hơn mười dặm mới ngừng chân, lúc này đã đến gần Cư Dung Quan, trên Cư Dung Quan cũng có binh lính, Đường Hiểu Lan nhảy xuống tường thành, lẩn vào trong núi cho đến hoàng hôn mới dám trở về.
Đường Hiểu Lan lo lắng mấy ngày, may mà chẳng có chuyện gì xảy ra. vì thế lại đến nhà Cẩn Ngũ hỏi thăm, té ra Cẩn Ngũ đã về mấy ngày trước. Đường Hiểu Lan lấy ra bức thư của Huyền Phong đạo trưởng đưa cho Cẩn Ngũ. Cẩn Ngũ nói: “Trong hoàng phủ có nhiều người làm, tiểu huynh đệ cứ lẩn vào cải trang thành kẻ nô bộc. Không cần cho tổng quản biết, chỉ nói với viên chấp sự là được”. Đường Hiểu Lan thầm nhủ cứ tìm cơ hội dắt Phùng Lâm đi cũng được, vì thế nhờ Cẩn Ngũ tìm cho mình một chân nô bộc quét vườn.
Phủ đệ của Tứ bối lạc không nằm trong Tử Cấm thành, vốn là thần miếu để hoàng thất nuôi dưỡng Lạt Ma, nay Tứ bối lạc chiếm một nửa làm nơi ở, sau khi Tứ bối lạc lên ngôi, đổi thành thiền viện của Hoàng giáo, được ban tên là Ung Hòa cung, là một nơi bí hiểm có tiếng trong kinh thành. cung điện này rất rộng, đền đài hùng vĩ. Vườn hoa rất lớn, cây cối cao chọc trời. Đường Hiểu Lan vào hoàng phủ, chỉ thấy khắp nơi đều là những tượng Phật kỳ lạ. Làm việc được nửa tháng mà chàng chẳng thấy Phùng Lâm, cả Liễu Ân, Cáp Bố Đà và Thần Ma song lão cũng không thấy xuất hiện.
Một chiều nọ, Đường Hiểu Lan làm xong công việc, vốn cùng Cẩn Ngũ trở về nhà, chợt nghe hậu viên có tiếng cười của thiếu nữ, chàng len lén vào nhìn thì thấy có mấy đứa trẻ đang chơi trốn tìm trong vườn, trong đó có một bé gái khoảng mười hai mười ba tuổi, thân pháp rất lanh lẹ, bọn trẻ không thể nào bắt được cô bé, Đường Hiểu Lan nhìn một hồi, cô bé chơi rất vui, cứ cười khanh khách không thôi, ở má phải có lún đồng tiền trông rất xinh xắn. Đường Hiểu Lan đợi một hồi, bọn trẻ nói: “Không bắt được ngươi, không chơi với ngươi nữa”. Trời dần dần tối, bọn trẻ tản đi, Đường Hiểu Lan nhẹ nhàng đến bên cạnh nó, chợt nói: “Phùng Lâm, muội có còn nhớ Chung bá bá không?” đứa bé gái tròn mắt hỏi: “Ngươi nói gì? Ai là Phùng Lâm? Ai là Chung bá bá, ta có rất nhiều bá bá nhưng không ai họ Chung cả, có phải Chung bá bá mới đến không?” Đường Hiểu Lan thấy lòng đau nhói, thầm nhủ: “Khi Chung Vạn Đường chết, đứa trẻ này chỉ có bảy tuổi, làm sao có thể nhớ được chuyện gì”. Vì thế mới nói: “Muội đừng sợ, ta và cha của muội là hảo bằng hữu”.
Phùng Lâm nói: “Ta có nhiều nghĩa phụ, ngươi là hảo bằng hữu của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Cha mẹ ruột của muội muội”. Phùng Lâm nói: “Ta còn có cha mẹ ruột? Ngươi nói dối!” Đường Hiểu Lan nói: “Cha của muội bị người ta hại chết, mẹ của muội vẫn chưa chết. Khi còn bé ta đã từng bé muội, ta dắt muội ra ngoài học võ công, tìm mẹ của muội”. Phùng Lâm bật cười, nói: “Ngươi dắt ta ra ngoài? Học võ nghệ? Hừ, ngươi chính là kẻ xấu!” rồi vung tay, mấy mũi phi đao bay vút ra!
Đường Hiểu Lan xoay người, một mũi phi đao lướt qua hông chàng, Đường Hiểu Lan đột nhiên giơ ngang hai ngón tay, kẹp mũi phi đao thứ hai ném ra ngoài đánh rơi mũi thứ ba, Phùng Lâm vỗ tay nói: “Hay lắm, ngươi hãy thử tiếp xem sao, nếu tránh được cả, ta sẽ gọi ngươi là bá bá, học võ công của ngươi!” rồi bàn tay nhỏ nhắn tiếp tục vung lên, sáu mũi phi đao chia thành ba nhóm bay tới, bay được nửa đường đột nhiên tách ra hai bên trái phải, đó là tuyệt kỹ phi đao của Chung Vạn Đường, Phùng Lâm đã được ông ta chân truyền, Đường Hiểu Lan vốn muốn dùng tay không tiếp đao nhưng không thể nào để mắt nhìn xung quanh, chỉ nghe soạt soạt hai tiếng, hai mũi phi đao bay lướt qua tai chàng. Phùng Lâm vung tay liên tục, phi đao bay ra liên tiếp, càng lúc càng nhanh, Đường Hiểu Lan buộc phải rút thanh Du Long kiếm quét tạt ngang một cái, chỉ nghe tiếng kim khí gãy leng keng, toàn bộ số phi đao của Phùng Lâm đã bị Du Long kiếm chặt gãy. Ngay lúc này, chợt nghe hai tiếng hú dài quái dị, có người quát: “Ai làm càn ở đây?” Phùng Lâm kêu: “Tát bá bá, kẻ này bảo điệt nữ theo y!”
Đường Hiểu Lan phóng vọt người lên, định lao qua tường, ở trên tường chợt có một bóng đen phóng xuống, mười ngón tay từ trên không chụp xuống, Đường Hiểu Lan vội vàng lia kiếm đánh ra một chiêu, rồi xoay người nhảy bổ về phía Phùng Lâm, chợt lại nghe một tiếng quát lớn, Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đã chặn đường chàng. Phùng Lâm nấp sau lưng Tát Thiên Đô, tay cầm sẵn phi đao, miệng thì cười hì hì.
Kẻ từ trên tường nhảy xuống là Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích, cả hai huynh đệ kẹp Đường Hiểu Lan ở giữa, Tát Thiên Thích cười ha hả: “Đường Hiểu Lan, té ra là ngươi! Ngươi muốn đến đây bái sư ư?” Phùng Lâm nói: “Không phải, y muốn điệt nữ đi theo. Y nói sẽ dạy võ công cho điệt nữ!” Tát Thiên Đô quát: “Hay lắm, xem thử ngươi có cao chiêu gì?” rồi hai chưởng vung lên bổ thẳng tới, chưởng trái chém vào ngực, chưởng phải chụp vào cổ tay của chàng, Đường Hiểu Lan lia thanh kiếm nhanh như gió, Tát Thiên Đô không ngờ rằng kiếm pháp của chàng lại lanh lẹ đến thế, y vội vàng rút chưởng lại. Đường Hiểu Lan vẫy mũi kiếm, vạch một đường trên vai của y, Tát Thiên Thích vội vàng thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích phóng vọt người lên rồi bổ nhào xuống, Đường Hiểu Lan vẫy ra một đóa kiếm hoa, múa thành một đường ngân hồng che trên đỉnh đầu, Tát Thiên Thích xoay người trên không trung, chao liệng ba vòng mà chẳng tấn công được, chỉ đành hạ xuống đất. Tát Thiên Đô gầm lên như sấm, vung quyền đánh tới. Đường Hiểu Lan đâm soạt soạt hai kiếm về phía hai tên ma đầu, Tát Thiên Thích quát: “Kiếm pháp hay!” rồi trở tay chụp lại, mười móng tay chụp vào cổ tay của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan đánh ra một chiêu Thu Thủy Hoành Châu, chém ngang qua, Tát Thiên Thích chợt đổi hướng chụp vào sườn trái, hai chưởng của Tát Thiên Đô cũng bổ tới trước mặt. Đường Hiểu Lan vung thanh kiếm, vội thi triển Hàn đào kiếm pháp trong Thiên Sơn kiếm pháp ra, chỉ thấy lãnh điện sáng loáng, kiếm hoa tuôn ra như thác đổ, Tát Thiên Thích luồn qua lách lại trong màn kiếm quang, tìm cách tấn công Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan không nhảy ra được, Tát Thiên Thích cũng không thể sấn tới gần. Tát Thiên Đô đứng bên ngoài phát chưởng, chưởng nào cũng có kình lực mạnh mẽ, chưởng phong kêu lên vù vù, mỗi chưởng đều khiến mũi kiếm của Đường Hiểu Lan đánh lệch qua, tạo cơ hội cho Tát Thiên Thích tấn công vào. Kiếm chiêu của Đường Hiểu Lan tuy thần diệu nhưng công lực lại không sâu, chỉ trong chốc lát đã khó cầm cự, Tát Thiên Thích nhe nanh múa vuốt, càng đánh càng hung dữ!
Phùng Lâm vỗ tay cười: “Không biết xấu hổ, bản lĩnh như thế mà cũng đòi là sư phụ của ta”. Đường Hiểu Lan quát: “Phùng Lâm, hai người này là kẻ thù của muội, dù y giỏi đến mức nào muội cũng không được nhận giặc làm cha!” Đường Hiểu Lan thấy mình nguy hiểm, khó thoát ra được, bởi vậy mặc cho Phùng Lâm vẫn chưa hiểu việc, cũng phải nhắc nhở cô bé. Tát Thiên Thích chợt biến sắc, nói: “Yến nhi, đừng nghe y nói”. Rồi tung đòn càng hung dữ hơn, Đường Hiểu Lan sấn tới mấy lần đều bị y đẩy trở lại, xem ra sắp nguy tới nơi. Tát Thiên Thích quát: “Còn chưa buông kiếm đầu hàng!” Đường Hiểu Lan nghiến răng, múa kiếm cố tấn công. Lúc này người trong hoàng phủ đã bị kinh động, kéo ùa ra hậu viên, xem hai lão ma đầu bắt thích khách. Cẩn Trung thầm kêu khổ, đang định chạy trốn, chợt nghe bên ngoài có tiếng quát: “Mọi người dạt qua hai bên”, một đám người bước vào. Kẻ đứng đầu quát: “Cáp tổng quản của các người đâu? Bảo Dận Trinh đến gặp ta”. Tát Thiên Thích nhảy vọt ra khỏi vòng, Đường Hiểu Lan không thể rút lui được nữa.
Kẻ dẫn đầu là con trai trưởng của Hoàng đế Khang Hy, Trực Quận vương Dận Đề. Tuy Khang Hy chưa lập bị quân, nhưng trong đám hoàng từ, Dận Đề có quyền uy lớn nhất. Lúc đó cuộc tranh đoạt ngôi vị đang diễn ra rất kịch liệt, thế lực của Tứ bối lạc Dận Trinh, Bát bối lạc Dận Tự, Thập bối lạc Dận Nga, Thập tứ bối lạc Dận Đê là lớn nhất. Dận Đề là con trưởng, đương nhiên không chịu buông ngôi vua nên cũng cấu kết với một đám quần thần, nuôi một đám tử sĩ. Tứ bối lạc thưởng cải trang xuất kinh, ngày Đường Hiểu Lan vào kinh là lúc Tứ bối lạc ra ngoài nên Cáp Bố Đà, Liễu Ân và bọn Thiên Diệp cũng theo y. Tứ bối lạc tự tiện xuất kinh vốn là chuyện tuyệt mật, không ngờ Dận Đề lại biết.
Bối lạc tự tiện xuất kinh là chuyện phạm pháp. Tứ bối lạc Dận Trinh mỗi lần xuất kinh đều báo với vua cha mình bị bệnh. May mà Khang Hy có nhiều con cái, vả lại chẳng thương yêu gì Tứ bối lạc, rất ít khi triệu vào cung dù đôi khi triệu y vào cung, nghe y bệnh cũng thôi. Nên Tứ bối lạc ngày càng lớn gan, ở ngoài thì nhiều mà ở trong cung thì ít. Lần này Dận Đề điều tra được Dận Trinh tự tiện xuất kinh, vậy là nảy ra một kế, đích thân đến bái phỏng. Vào đến hoàng phủ nghe có tiếng quát tháo, y rất ngạc nhiên nên vào hậu viên xem.
Tát Thiên Thích vừa thấy thì luống cuống, vội vàng bẩm: “Tứ điện hạ bị bệnh không ngồi dậy nổi, không thể đích thân tiếp điện hạ”. Dận Đề nói: “Ta phải đi thăm hắn”. Rồi ra lệnh cho Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Để tôi bắt tên thích khách này trước”. Dận Đề chợt quay lại một tên vệ sĩ bên cạnh, nói: “Hầu Tam Biến, ngươi hãy bắt tên thích khách này”. Rồi vẫn nói với Tát Thiên Thích: “Không cần ngươi nhọc sức, dắt ta đi gặp Dận Trinh”. Tên vệ sĩ bên cạnh Dận Đề vâng một tiếng, phóng vọt ra, Đường Hiểu Lan ngẩng đầu nhìn lên thì thất kinh, người đó chẳng phải ai khác mà chính là lão già mà chàng đã gặp trên Vạn Lý Trường Thành. Lúc này Đường Hiểu Lan đã nhụt chí, thầm nhủ: “Dù sao cũng chạy không thoát, rơi vào trong tay lão ta còn hơn lọt vào trong tay hai tên ma đầu”. Chàng đánh hờ vài chiêu, Hầu Tam Biến thi triển Đại Cầm Nã thủ nhấc bổng chàng lên.
Dận Đề nói: “Được, ngươi giải thích khách về trước”. Té ra Dận Đề nghi ngờ thích khách này có liên quan đến chuyện đoạt vị giữa các huynh đệ nên không giao chàng ta cho người của phủ Dận Trinh mà bảo Hầu Tam Biến giải về trước để đích thân thẩm vấn.
Dận Đề lại quát Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Tôi chỉ là một vệ sĩ, làm sao dám tự tiện bước vào nội phủ”. Dận Đề chợt biến sắc.
Ngay lúc đó, một bé gái ở phía sau lưng Tát Thiên Đô lách ra, nói: “Điện hạ, tôi dẫn đường cho ngài”. Dận Đề nói: “Ngươi là ai?” Phùng Lâm nói: “Tôi là tì nữ hầu hạ tứ điện hạ”. Dận Đề nói: “Được, ngươi rất ngoan ngoãn, đi thôi”. Phùng Lâm nháy mắt với Tát Thiên Thích, dắt Dận Đề vào nội phủ.
Hầu Tam Biến bắt Đường Hiểu Lan, vội vàng phóng ra ngoài, bọn thái giám đã thắng sẵn xe ngựa, chạy thẳng vào cấm thành. Dận Đề là trưởng tử nên được sống trong cung. Xe ngựa chạy một hồi, vào cung từ Thần Võ môn ở phía sau. Sau khi xuống xe, hai thái giám đi ở phía trước, Hầu Tam Biến kẹp Đường Hiểu Lan đi phía sau, đi được một lúc lâu trời đã tối, các cung đều đã đóng cửa, trong vườn chỉ có bọn thái giám đi tuần. Dận Đề sống trong cung Thừa Càn ở phía Đông. Ba mươi sáu cung điện ở phía Tây là nơi ở của Hoàng đế và hậu phi, nếu chưa được gọi vệ sĩ và gia nhân của các bối lạc không được vào, đi được một hồi, đã đến nơi giao giới giữa hai cung Đông Tây, Hầu Tam Biến chợt khẽ nói vào tai Đường Hiểu Lan: “Ngươi mau chạy vào Tây cung, vượt qua hộ tường, tiếp tục chạy về phía Bắc khoảng hai trăm bước có một hòn non bộ, vòng qua hòn non bộ có một hồ sen, tiếp tục đi về bên trái của hồ sen năm mươi bước sẽ có căn nhà đá, ngươi đẩy cửa vào đấy, thấy người không được sợ, đảm bảo ngươi sẽ thoát hiểm!” nói xong thì đột nhiên buông tay, quát: “Ôi chao, tên thích khách thật lợi hại!” rồi rút thanh kiếm đâm mạnh vào chân mình, hai tên thái giám quay đầu lại, Đường Hiểu Lan đã phóng vọt lên tường, chạy vào Tây viện.
Đường Hiểu Lan thấy tim mình đập thình thình, không biết tại sao Hầu Tam Biến lại tha cho mình nhưng chàng đã sa cơ, chỉ đành đi theo lời y. Hoàng cung rất lớn, Đường Hiểu Lan vượt qua hộ tường, phóng vào vườn hoa, chạy tiếp về phía Bắc hai trăm bước, quả nhiên thấy có một hòn non bộ, chàng chạy vòng qua hòn non bộ thì đúng là có một hồ sen, Đường Hiểu Lan lại tiếp tục đi về phía bên trái năm mươi bước, tìm thấy căn nhà đá. Trong cung điện huy hoàng, chỉ có căn nhà đá này là xấu xí nhất, chàng bước tới cửa, chỉ thấy cõi lòng lạnh lẽo, trước mái toàn là tơ nhện, nghĩ bụng bình thường rất ít người tới. Đường Hiểu Lan đẩy cửa tiến vào, bước lên bậc tam cấp, chợt nghe bên trong có giọng nói yếu ớt: “Ai thế?” Đường Hiểu Lan đẩy cửa phòng ra, chợt thấy có một phụ nữ tóc bạc, người gầy đét đang gãy đàn dao. Thấy Đường Hiểu Lan bước vào thì trợn mắt lên.
Đường Hiểu Lan nói: “Hầu Tam Biến bảo tôi đến đây!” người đàn bà kêu ồ một tiếng, mắt chợt sáng lên, nhìn chằm chằm Đường Hiểu Lan, cơ mặt cứ dần giật, hai dòng nước mắt tuôn dài, Đường Hiểu Lan tựa như cảm thấy đã gặp người đàn bà này ở đâu đấy, cõi lòng thấy lạnh lẽo.
Người đàn bà nhìn một hồi, khẽ nói: “Ngươi ngồi xuống đây!” giọng nói tuy nhỏ nhưng tựa như có một sức mạnh không thể chống cử nổi. Đường Hiểu Lan ngồi xuống, lại nghe bà ta khẽ nói: “Cởi áo ra!” Đường Hiểu Lan thất kinh, người đàn bà nói: “Ta bảo ngươi cởi áo, ngươi hãy nhìn thử xem ở trước ngực ngươi có một nốt ruồi đen rất lớn, hai bên vú ngươi có hai nốt ruồi đen nhỏ thành hình chữ “phẩm”, ngươi tự sờ thử xem có đúng không?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Hứa Thành là người thân tín của Lý Vệ, bình thường cũng hay vào nội đường nên Lý Minh Châu không nghi ngờ, chỉ vén rèm hỏi: “Cha gọi ta có chuyện gì?” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đổng Cự Xuyên lướt người lao bổ vào phòng trong. Nàng thiếu nữ ở phía sau né không kịp, chân phải tung ra một cú đá, Đổng Cự Xuyên đột nhiên thu người lại, gót chân xoay tròn, hai tay đẩy ra, nàng thiếu nữ đá hụt, chợt thấy chưởng phong quét vào, ống chân, vội vàng ngửa người ra sau tránh thế đánh của kẻ địch. Đổng Cự Xuyên không hề thâu thế, tay trái chụp vào cổ tay của kẻ địch, tay phải đấm vào mặt, thế công liên miên bất tuyệt, nàng thiếu nữ lạng người phất tay ra, hóa giải thế chưởng của Đổng Cự Xuyên, tay trái đấm về phía trước mặt, hóa giải quyền trái của kẻ địch, Đổng Cự Xuyên quát: “Trần Mỹ Nương, chồng của ngươi đã bị bắt, ngươi còn dám chống cử?”
Nàng thiếu nữ giật mình, Đổng Cự Xuyên trầm tay trái xuống, tay phải đánh vào huyệt Huyền Cơ giữa ngực của nàng thiếu nữ, thiếu nữ cả giận xoay người, hai chỏ tán ra phía trước và phía sau, thế đánh cực kỳ hung mãnh. Đổng Cự Xuyên biết chỉ dựa vào công lực của bản thân, tuy có thể thủ thắng nhưng phải trải qua một cuộc ác đấu, chỉ e sẽ trễ nãi mất nên ngay từ ban đầu đã dọa nàng ta để nàng ta rối loạn tinh thần, kế đó dùng loại thủ pháp khinh bạc dụ nàng nổi cáu, mà hễ nổi cáu tất sẽ sơ xuất, Đổng Cự Xuyên giơ tay trái đẩy vào cổ tay của kẻ địch, tay phải chụp vào huyệt Khúc Trì của nàng ta, Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Hứa tổng quản, người này là ai? Tại sao vào phòng ngủ của ta bắt người?” Đổng Cự Xuyên cười nói: “Không bắt ả, cha của tiểu thư khó sống!” rồi bước sấn tới, cùng Hứa Thành tấn công nàng thiếu nữ kia.
Nàng ta tên gọi Trần Mỹ Nương, là vợ của Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì. Võ công của Trần Mỹ Nương tuy kém Cam Phụng Trì rất nhiều nhưng cũng thuộc loại hiếm có trong giang hồ. Hai vợ chồng họ thích rong chơi đây đó, hành hiệp trượng nghĩa. Một tháng trước, họ đi theo gánh hát giang hồ đến Hàng Châu mãi nghệ. Vì Cam Phụng Trì quá nổi danh nên phải cải trang, đến Hàng Châu vừa khéo phủ đài Lý Vệ chúc thọ cho mẹ, gọi họ vào phủ nha biểu diễn, con gái của Lý Vệ quý mến Trần Mỹ Nương, thường gọi nàng vào phủ. Cam Phụng Trì chẳng có việc gì khác nên cũng ở lại. Càng ta muốn xem thử trong phủ nhà có những người tài nào nên tham giam cuộc tuyển vệ sĩ, khi Cam Phụng Trì đến Hàng Châu cũng liên lạc với Lộ Dân Đảm, Lữ Tứ Nương và Lộ Dân Đảm đuổi tới Hàng Châu, lập tức tìm Cam Phụng Trì nhờ chàng chỉ cách. Hôm nay gặp lúc Lý Vệ xem khảo thí, Cam Phụng Trì lộ thần kỷ, dùng thủ pháp Sấm sét bắt sống Lý Vệ. Nào ngờ Đổng Cự Xuyên biết có Cam Phụng Trì ở đây, đoán rằng nàng thiếu nữ kia chính là Trần Mỹ Nương nên thử vào nội đường, quả nhiên gặp phải.
Lại nói Cam Phụng Trì bắt Lý Vệ làm con tin, bọn vệ sĩ chẳng dám đến gần. Cam Phụng Trì nôn nóng, quát: “Tên lão tặc họ Đổng sao vẫn chưa quay lại?” nói chưa dứt lời dưới đường đã có người trả lời: “Cam đại hiệp đừng nóng nảy, ta tới đây!”
Đổng Cự Xuyên ba ngón tay nắm mạch môn của Trần Mỹ Nương, cười hì hì dắt nàng lên đường, Cam Phụng Trì thấy thế vừa kinh vừa giận. Đổng Cự Xuyên cười nói: “Đem phủ đài đại nhân trao đổi với hiền tẩu, chẳng phải hai bên đều không thiệt thòi sao?” Cam Phụng Trì tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, nhưng dù thế nào chàng ta cũng phải chịu phép, thế rồi nghiến răng nói: “Được, ngươi trả nàng ra, ta trả phủ đài lại cho ngươi”. Đổng Cự Xuyên nói: “Đại hiệp không cần ngầm hạ độc thủ đấy nhé”. Cam Phụng Trì tức giận nói: “Giang Nam đại hiệp nói một không nói hai”. Đổng Cự Xuyên đẩy Trần Mỹ Nương về phía trước, Cam Phụng Trì cũng thả Lý Vệ ra. Lý Vệ chạy xuống bậc thềm, Trần Mỹ Nương chạy lên, lúc này trong nội đường có tiếng người quát tháo, bọn Ngự lâm quân đột nhiên bên trong phóng ra ngoài.
Lại nói Lý Minh Châu tận mắt chứng kiến Đổng Cự Xuyên bắt Trần Mỹ Nương, vừa kinh vừa giận, nàng không ngờ rằng thiếu nữ mãi nghệ chính là người tên tuổi lẫy lừng, thế là chạy vào phòng ngủ, đóng bình cửa phòng lại nằm khóc òa lên, tức tối vì vệ sĩ của cha nàng chẳng lễ phép với nàng. Đang khóc thút thít, cánh cửa tủ áo bật ra, một người chui ra, đó là một nàng thiếu nữ đẹp như thiên tiên, Lý Minh Châu ngẩn người ra, thiếu nữ mỉm cười: “Tiểu thư đang giận ai đấy? Nói tôi nghe, tôi sẽ có cách trả thù?” lời nói của nàng ta dịu dàng thân thiết, Lý Minh Châu hỏi: “Cô nương là ai?” thiếu nữ nói: “Tôi là tỷ muội của Trần tỷ tỷ”. Lý Minh Châu nói: “Tại sao tôi không thấy cô nương bước vào?” thiếu nữ trả lời: “Tôi nghe nói tiểu thư xinh đẹp tuyệt trần, tôi cũng muốn cùng Trần tỷ tỷ đến gặp cô nương, nhưng cô nương chỉ mời một mình Trần tỷ tỷ nên tôi chỉ đành lén vào đây”. Lý Minh Châu tính vẫn còn trẻ con, nghe nàng ta khen mình xinh đẹp thì rất thích, cười rằng: “Cô nương mới đẹp! Có phải cô nương mới vào gánh hát không?” nàng ta đáp: “Đúng thế! Trước đây tôi cứ tưởng mình rất đẹp, nay gặp tiểu thư mới biết tôi kém hơn rất nhiều!” Lý Minh Châu càng vui hơn, nghĩ rồi chợt hỏi: “Cô nương có cách gì báo thù cho tôi? Tỷ tỷ của cô nương đã bị bọn chúng bắt”. thiếu nữ nói: “Có phải bọn Ngự lâm quân ở kinh thành không?” Lý Minh Châu khẽ gật đầu: “Hình như là thế”. Thiếu nữ nói: “Vậy chúng ta cứ lén thả phạm nhân ra...” Lý Minh Châu kinh hãi nói: “Không được, cha sẽ mắng tôi”. Thiếu nữ cười nói: “Tiểu thư hãy nghe tôi nói, chúng ta âm thầm giấu đi, sau đó trao cho đại nhân, thế là phạm nhân vẫn ở trong phủ nha nhưng bọn Ngự lâm quân sẽ một phen mất mật. Ai bảo chúng không tôn trọng cha của tiểu thư, lại còn bức hiếp cả tiểu thư nữa?” Lý Minh Châu nói: “Nhưng chúng có người canh”. Thiếu nữ trả lời: “Chỉ cần cô nương dắt tôi vào nhà giam, tôi sẽ có cách”. Lý Minh Châu chỉ là thiếu nữ ngây thơ, chẳng biết trời cao đất dày, nàng cảm thấy việc này rất thú vị, vả lại cũng rất có thiện cảm với phạm nhân, thầm nhủ: “Mình giấu y để làm bạn, chắc chắn thú vị lắm. Tên phạm nhân này trông nho nhã, lại còn biết làm thơ nữa!” thế rồi mới nói: “Chúng ta đi”. Rồi lấy ra hai bộ quần áo nam nhân, nói: “Chúng ta hãy thay đồ”. Thiếu nữ khen: “Tiểu thư thật thông minh”. Chốc lát đã thay đồ xong, Lý Minh Châu dắt nàng đến nhà giam. Bọn vệ sĩ quát: “Ai đó?” Lý Minh Châu phát hoảng lên, chẳng nói ra lời.
Thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân nghe nói khâm phạm bị bệnh, sai ta đến xem thử có nên mời đại phu hay không!” tên lính canh kêu ồ một tiếng rồi nói: “Sao phủ đài đại nhân biết?” thiếu nữ khẽ thúc vào người Lý Minh Châu, nói: “Ngươi quay về bẩm cáo với tổng quản, bảo ông ta đi mời đại phu. Ta vào xem thử”.lúc đầu Lý Minh Châu còn hăng hái, giờ thấy bọn vệ sĩ canh cửa nhìn mình như hung thần ác sát, bất giác lòng hoảng lên, chợt nhớ rằng giơ đây mình chẳng còn là thân phận thiên kim của phủ đài, nếu bị vạch trần thì chẳng phải sẽ mất hứng sao, nghe nàng thiếu nữ nói thế lập tức quay người, vẫy tay nói: “Ngươi xem khâm phạm xong hãy mau chóng đến tìm ta!” thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt kêu lớn: “Ai đó? Không được vào” Lý Minh Châu đã chạy ra. Bọn vệ sĩ canh cửa đưa tay chặn nàng thiếu nữ, thiếu nữ nói: “Phủ đài đại nhân muốn xem cũng không được sao?” tên vệ sĩ nói: “Đưa lệnh tiễn của phủ đài đại nhân đến đây!” nàng thiếu nữ mỉm cười, đưa tay búng một cái, điểm vào huyệt đạo của tên vệ sĩ, Tần Trung Việt ở bên trong nghe đánh sầm một tiếng, vội vàng nhảy ra, chỉ thấy một thiếu niên phóng tọt vào, giơ tay điểm vào hai mắt của y. Tần Trung Việt quát lớn: “Có thích khách!” thế rồi hạ bút đâm xéo ra, thân pháp của thiếu niên nhanh nhẹn lạ thường, chàng ta hạ người xuống, trong khi hai bút chưa hợp lại đã bước vào trung cung, chiêu thế không thay đổi, hai ngón tay trầm xuống, đâm thẳng vào huyệt Đương Môn trên ngực. Huyệt Đương Môn còn gọi là Huyết huyệt, là một trong chín tử huyệt của con người, Tần Trung Việt cả kinh né tránh không kịp, vội vàng lăn người xuống đất, phóng cây bút trên tay trái ra, chặn thế công của kẻ địch, thiếu niên ấy vung tay hớt cây bút, trở tay ném lại, đánh ngã một tên vệ sĩ vừa mới nhảy vào. Rồi chàng ta mau chóng đuổi theo, Tần Trung Việt bật người dậy, múa tít cây Phán Quan bút còn lại trong tay, sử dụng như ngũ hành kiếm chặn trước gạt sau. Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cũng dồn vào. thiếu niên này thật lợi hại, chàng ta xoay người vọt một cái vượt qua hai tên Ngự lâm quân. Tần Trung Việt chợt giật mình, vội chạy thẳng đến phòng nhốt tù phạm, nào ngờ tiếng gió kêu lên vù vù, mắt hoa lên, chàng thiếu niên đã lướt qua đầu mình, đứng chặn trước cửa phòng, hai chưởng đẩy ra một vòng tròn, tay trái hất lên, tay phải đè xuống, Tần Trung Việt chặn cây bút lại, chàng thiếu niên đổi chưởng làm chỉ, một chỉ đâm vào huyệt Kỳ Môn, một chỉ điểm vào huyệt Tướng Đài, hai huyệt đạo này là Hôn huyệt, Tần Trung Việt vốn là kẻ giỏi đánh huyệt, thấy chàng thiếu niên này đánh huyệt quá nhanh, sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, y vội vàng thối lui ra sau nào ngờ chẳng còn kịp nữa, vừa mới xoay người lưng đã thấy đau nhói, huyệt Tinh Túc ở be sườn trái đã bị điểm trúng. Huyệt Tinh Túc nằm ở giữa xương thứ hai và xương thứ ba từ trên đếm xuống, thuộc vùng tì vị, là một trong chín Á huyệt của con người, người bị điểm trúng toàn thân đã tê rần.
Sau khi đắc thủ, chàng thiếu niên kéo phạm nhân đứng dậy, khẽ gọi: “Thẩm ca ca!” Thẩm Tại Khoan khẽ rên rỉ, trả lời: “Không cần cứu ta!” chàng thiếu niên chính là Lữ Tứ Nương, nàng ta nghe Thẩm Tại Khoan vẫn còn có thể nói chuyện nên yên bụng. Thế là vác chàng ta lên vai, trong tay cầm thanh kiếm sáng loáng phóng ra ngoài!
Bọn Ngự lâm quân bên ngoài cửa chỉ quát tháo om sòm chứ chẳng thể nào cản nổi! Lữ Tứ Nương vọt thẳng ra đến đại đường. Cam Phụng Trì lớn tiếng reo, Đổng Cự Xuyên rất kinh hãi. Lý Vệ nói: “Mau chặn lại!” Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long phóng lên. Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, dùng Đại Cầm Nã thủ chụp vào bối tâm của một tên vệ sĩ ném về phía hai người. Trần Mỹ Nương rút cây trủy thủ vượt qua mặt Cam Phụng Trì đâm về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên giơ hai tay che mặt, tung chân phải đá về phía trủy thủ của Trần Mỹ Nương, Trần Mỹ Nương xoay người, Cam Thiên Long đâm tới một kiếm từ bên mặt, Trần Mỹ Nương trở trủy thủ lại gạt ra, Đổng Cự Xuyên xông lên, toan bắt sống Trần Mỹ Nương lần nữa. Chợt nghe vù một tiếng, Cam Phụng Trì lướt tới như mũi tên, hai tay phân ra, bốn cánh tay chạm nhau, Đổng Cự Xuyên lảo đảo suýt nữa đã té sầm xuống đất, thế là rút ra ba mũi Thấu Cốt đinh phóng vèo vèo, Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng, tay trái tóm một tên vệ sĩ đẩy về phía trước, ba mũi độc đinh đều cắm phập vào người tên vệ sĩ, rồi chàng ta vung chưởng tiếp tục đánh về phía trước. Đổng Cự Xuyên vội vàng chạy lòng vòng, Lữ Tứ Nương đã chém được hơn mươi tên vệ sĩ xông ra nguyệt môn, quay đầu kêu: “Thất ca thất tẩu, chúng ta đi thôi!” Cam Thiên Long có võ nghệ tương đương với Trần Mỹ Nương, đang giằng co với nàng, bọn vệ sĩ cũng bao vây nàng vào ở giữa. Cam Phụng Trì trong chớp mắt đã đánh tan bọn vệ sĩ bao vây Trần Mỹ Nương. Cam Thiên Long kinh hãi, y vội vàng thối lui thì đã bị Trần Mỹ Nương đâm cây trủy thủ vào be sườn sâu đến ba tấc, rồi phóng ra ngoài. Bọn vệ sĩ trong phủ nha chưa bao giờ thấy cảnh như thế này, thế là vội vàng tản ra. Trong tiếng cười rộ, vợ chồng Cam Phụng Trì đã đuổi theo Lữ Tứ Nương, ba người đều phóng ra khỏi phủ nha.
Lữ Tứ Nương đến nhà Cam Phụng Trì, Trần Mỹ Nương dắt nàng vào phòng ngủ rồi mỉm cười lui ra, thuận tay khép hờ cửa lại. Lữ Tứ Nương đặt Thẩm Tại Khoan lên giường, khẽ nói: “Thẩm ca ca, muội đang ở bên cạnh huynh!” sắc mặt Thẩm Tại Khoan trắng bệt, hai mắt trợn trừng, thở dài nói: “Muội cứu huynh làm gì?” Lữ Tứ Nương thấy tim đập loạn lên, vội vàng mở áo ra xem, nhưng chẳng thấy có thương tích gì, nàng vừa mới buông tay Thẩm Tại Khoan đã bổ nhào xuống. Lữ Tứ Nương ghé tai lên ngực chàng lắng nghe, đưa tay khẽ vặn chân chàng, Thẩm Tại Khoan kêu ối lên một tiếng rồi nằm yên chẳng hề nhúc nhích. Lữ Tứ Nương kinh hãi, chỉ nghe Thẩm Tại Khoan nói: “Huynh đã trở thành phế nhân, muội cứu huynh cũng vô dụng”. Té ra Đổng Cự Xuyên rất xảo quyệt, sợ rằng có người cứu Thẩm Tại Khoan nên đã hạ độc thủ, dùng chưởng lực nội gia đánh đứt gân chi dưới của chàng ta, lại dùng âm lực đánh cho chàng bị nội thương, khiến chàng phải nằm liệt giường. Dù Hoa Đà tái thế cũng chẳng cứu nổi. Lữ Tứ Nương nghe như sấm nổ bên tai, hồn bay phách tán, nhưng vừa nhìn thấy ánh mắt thê lương tuyệt vọng của Thẩm Tại Khoan, nàng vội vàng trấn tỉnh, cứng rắn nói: “Sao lại vô dụng? Tại Khoan, huynh uổng là một bậc danh nho biết bao bậc đại nho tiền bối dù bị khiếm khuyết thương tật nhưng vẫn để lại danh tiếng cho muôn đời sau! Tại Khoan, chết thì dễ lắm, đại trượng phu phải sống trong gian khổ!” Lữ Tứ Nương nói xong thì rơi nước mắt.
Thẩm Tại Khoan nghe nàng khích lệ như thế, chợt thấy sức sống lại trở về, chàng ta nắm chặt tay Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương cũng rơi nước mắt, nhưng lúc này không phải là nước mắt tuyệt vọng, nước mắt ấy đã xua tan nỗi u oán trong lòng Thẩm Tại Khoan, chàng ta đã thấy ý nghĩa của cuộc sống.
Thẩm Tại Khoan nắm tay Lữ Tứ Nương rất lâu, rất lâu, khẽ nói: “Oanh muội, xin đa tạ”. Lữ Tứ Nương mỉm cười, nước mắt rơi lả chả trên mặt chàng. Thẩm Tại Khoan khẽ nói: “Có điều đã phụ tâm ý của muội”. Lữ Tứ Nương đưa mắt, nhìn chàng thắm thiết, quả quyết nói: “Tại Khoan, dù huynh bị tàn phế, nhưng tâm hôn của huynh vẫn khỏe mạnh! Huynh nói như thế có nghĩa coi muội là người ngoài”. Những câu nói ấy kiên định vô cùng, Thẩm Tại Khoan cảm động đến nỗi nghẹn lời. Một hồi sau, Lữ Tứ Nương lại nói: “Huống chi huynh chưa chắc mãi mãi tàn phế, chỉ cần huynh có nghị lực, muội có thể chỉ huynh phép thổ nạp, lúc huynh có thể tự dẫn khí huyết, lấy ý hành khí, huynh sẽ hoàn toàn hồi phục, lại còn khỏe mạnh hơn lúc bình thường”, Thẩm Tại Khoan nói: “Đó có phải là nội công không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế, huynh bị người ta dùng nội công làm cho tàn phế, nên chỉ có tu luyện nội công mới chống cự lại được!” Thẩm Tại Khoan nói: “Phải mất bao lâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Có lẽ phải đến mười năm”. Thẩm Tại Khoan nói: “Được, vậy thì rất hợp với ta”.
Trần Mỹ Nương đứng bên ngoài nghe tiếng khóc, khẽ mở cửa, Lữ Tứ Nương mở cửa kể lại mọi chuyện với vợ chồng Cam Phụng Trì. Trần Mỹ Nương nghe thế thầm than, nhủ rằng dạy một người tàn phế luyện tập nội công, mà người đó lại là một thư sinh chẳng có căn cơ võ công, trói gà không chặt, mười năm chưa chắc đã được, há chẳng phải đã uống phí tuổi thanh xuân của sư muội sao! Cam Phụng Trì nói: “Mười năm thì mười năm, có điều huynh e rằng sư muội không có nội tịnh tu”. Lữ Tứ Nương nói: “Sư đệ của Nhất Niệm đại sư là Nhất Phiêu hòa thượng, nội trong ngày nay sẽ di cư đến Tiên Hà, muội có thể dựng nhà cỏ bên cạnh, chăm sóc cho Tại Khoan”. Cam Phụng Trì nói: “Được, vợ chồng huynh đưa muội lên núi”.
Lữ Tứ Nương thuê một chiếc xe lừa, cải trang dung mạo rồi về quê, sau khi an tán cha già sẽ cùng Nhất Phiêu hòa thượng đến ẩn cư ở Tiên Hà lĩnh. Khi xuống núi Cam Phụng Trì nói với Lữ Tứ Nương: “Sau này chúng ta đấu với lão giặc trọc Liễu Ân, có lẽ phải nhờ sư muội giúp đỡ”. Lữ Tứ Nương nói: “Điều đó đương nhiên, trong thời gian tới muội cũng phải chăm chỉ rèn luyện kiếm pháp”.
Từ đó Thẩm Tại Khoan được Lữ Tứ Nương chăm sóc, tình hình ngày càng tiến triển, bất giác đã năm năm trôi qua.
Một buổi sáng sớm nọ, theo lệ thường Lữ Tứ Nương đến phòng Thẩm Tại Khoan, chưa vào phòng thì chợt thấy một mình chàng ta vịn vách tường đi lại, nàng mừng rỡ đẩy cửa bước vào. Thẩm Tại Khoan nói: “Đêm qua sau khi huynh tập hít thở, chợt thấy khí dồn tùng quang, thăng trầm lên xuống, hình như trong ngực có một vật gì đó có thể chuyển động lên xuống, huynh thử dùng lực đã có thể ngồi dậy, sáng nay huynh vịn tường đã đi từ giường đến án thư được ba vòng”. Lữ Tứ Nương nói: “Huynh đã tiến bộ thần tốc, xem ra không cần đến mười năm. Nhưng huynh mới học không nên quá cực nhọc, hãy lên giường nằm nghỉ”. Nàng chợt thấy trên bàn có mảnh giấy viết mấy hàng chữ, giận dỗi nói: “Huynh vừa mới khỏe một tí đã lao tâm làm thơ, muội phải phạt huynh”. Rồi cầm tờ giấy lên, Thẩm Tại Khoan vội kêu: “Muội muội, trả lại cho huynh!” chàng lảo đảo bước tới, bước chân không vững thế là té soài vào người Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ chàng đến giường, chỉ thấy chàng đỏ ửng cả mặt, Lữ Tứ Nương đọc xong mấy dòng chữ ấy, té ra chẳng phải là thơ mà là một bài từ của tiền nhân, viết – điệu “Cán khê xa”, từ rằng: “Thùy đạo phiêu linh bất khả liên, kim lô đoạn tận tiểu triện hương, nhân sinh hà xứ tự tôn tiền? Kiến liễu hựu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận viễn như thiên, đoạn lại năng hữu kỳ hồi trường?”
Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Té ra chàng ta vẫn còn nghi mình. Chàng yêu thương mình thắm thiết nhưng lại tự ti, sợ rằng mối nhân duyên tựa như hoa trong kính, trăng dưới nước, không dám thổ lộ chân tình với mình nên mới nói ‘kiến liễu hữu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận vẫn như thiên’.” Thẩm Tại Khoan ngẩn ra nhìn nàng, Lữ Tứ Nương thở dài: “Ca ca ngốc, chả lẽ năm năm qua huynh không biết cho tâm sự của muội sao? Dù huynh thế nào, muội vẫn ở bên cạnh huynh”. Thẩm Tại Khoan bất giác rơi nước mắt, hai người nắm tay dịu dàng nhìn nhau. Trong lúc ngây ngất, chợt nghe Nhất Phiêu hòa thượng gọi ở bên ngoài.
Lữ Tứ Nương khẽ nói: “Huynh hãy nghỉ ngơi một lát, đừng nghĩ ngợi chi nhiều, muội đi ra một lát sẽ về”. Bước ra khỏi căn nhà, nàng thấy Nhất Phiêu hòa thượng đang đứng vẫy tay. Lữ Tứ Nương chạy tới, hỏi: “Đại sư gọi có việc gì?” Nhất Phiêu hòa thượng chỉ xuống chân núi, nói: “Cô nương xem kìa!” Lữ Tứ Nương nheo mắt nhìn, chỉ thấy một người từ dưới chân núi chạy lên nhanh như sao xẹt, lúc này đã đến lưng chừng núi, Nhất Phiêu hòa thượng nói: “Kẻ nào biết ta ẩn cư ở đây? Chẳng lẽ là bọn ưng khuyển của triều đình?” Lữ Tứ Nương cười lạnh: “Nếu là ưng khuyển của triều đình chắc chắn bọn chúng đã tìm đến cái chết”. Một hồi sau, bóng người ấy càng lúc càng hiện rõ, Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại là y?” nói chưa dứt lời, người ấy đã nhảy vọt lên tới nơi, kêu lên: “Lữ tỷ tỷ, quả nhiên tỷ ở đây!” Lữ Tứ Nương mừng rỡ nói: “Đường Hiểu Lan, mấy năm không gặp mà ngươi đã lớn thế này”. Lữ Tứ Nương giới thiệu với Nhất Phiêu hòa thượng, Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, đệ tìm tỷ đến khổ!” Lữ Tứ Nương nói: “Sao? Ai bảo cho ngươi biết?” Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp. Nhưng ông ta lại không tin tôi. Lữ tỷ tỷ...” Nhất Phiêu hòa thượng thấy chàng ta nói chẳng đầu chẳng đũa, lại rất thân mật với Lữ Tứ Nương, lòng giật mình, nói: “Để ta vào pha trà cho các người”. Đường Hiểu Lan chờ Nhất Phiêu hòa thượng đi xong mới chợt nói: “Lữ tỷ tỷ, tỷ phải cứu đệ!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Tại sao phải cứu đệ?” Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, người ta đã vu oan cho đệ, chỉ có tỷ mới có thể cứu, tỷ có tin đệ không?” Lữ Tứ Nương dịu dàng cười nói: “Tiểu đệ, ta tưởng đệ đã lớn mà đệ vẫn cứ như trẻ con. Ai đã vu oan cho đệ?” Đường Hiểu Lan rung giọng nói: “Những người hiệp nghĩa trên giang hồ”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại có chuyện như thế? Là ai đã cầm đầu?” Đường Hiểu Lan nói: “Chính là sư phụ trước đây của đệ, Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Còn ai nữa?” Đường Hiểu Lan nói: “Còn có Quan Đông tứ hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Quan Đông tứ hiệp chẳng phải là bằng hữu của Châu Thanh hay sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Họ vốn đối xử tốt với đệ, coi đệ như con cái”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy đệ hãy nói cho ta nghe thử”. Thế là Đường Hiểu Lan bắt đầu kể lại từ lúc theo Dịch Lan Châu lên Thiên Sơn. Đường Hiểu Lan nói: “Tỷ tỷ có còn nhớ đệ có hai điệt nữ song sinh rất dễ thương”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Đúng thế, khi chúng ta mới gặp nhau ở Mang Sơn, Bát Tý Thần Ma cõng một đứa!” Đường Hiểu Lan nói: “Đó là cô chị tên là Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương nói: “Sau đó Song ma lại cướp thêm một đứa trong tay Chung Vạn Đường nữa, có phải là đứa em hay không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế. Nó tên là Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy có nghĩa là đôi chị em song sinh đều đã lọt vào tay Thần Ma song lão!” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải, điều này thật kỳ lạ. Đệ theo Dịch tổ bà lên Thiên Sơn, người nói: ‘Ta đã bảo sẽ trả lại cho ngươi một đứa điệt nữ!’...” Lữ Tứ Nương chen vào nói: “Ta có nghe bà ta nói câu này ở nhà họ Niên. Có phải là bà ta nuôi dưỡng một đứa trẻ không?” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải là nuôi dưỡng mà cướp về!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Cướp của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Là cướp của Song ma! Số là trước khi Dịch tổ bà gặp đệ, đã từng đến miền Bắc. Ngày nọ đến trước phủ đệ của Tứ bối lạc, thấy Phùng Anh và Song ma chơi đùa, Dịch tổ bà vừa nhìn đã thích, bà tuổi đã già, dang muốn tìm một đồ nhi lanh lẹ, lúc đó bà cũng lấy làm lạ, một đứa trẻ dễ thương như thế sao lại đi cùng hai tên ma đầu? Vả lại xem ra bọn họ không phải cha con. Nhất thời nổi hứng nên lẻn vào phủ, hỏi ra mới biết hai tên ma đầu cũng cướp đứa trẻ này thế là cướp ngay Phùng Anh”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Trong phủ Tứ bối lạc cao thủ nhiều như mây, chắc là Dịch lão tiền bối đã gây náo loạn ở đấy?” Đường Hiểu Lan tiếp lời: “Đệ đến Thiên Sơn, Dịch tổ bà gọi Phùng Anh ra gặp đệ”. Lữ Tứ Nương nói: “Khoan đã, khi Dịch tiền bối rời Thiên Sơn, ai chăm sóc cho nó?” Đường Hiểu Lan nói: “Là Võ lão tiền bối”. Lữ Tứ Nương nói: “Ồ, té ra Võ Quỳnh Giao vẫn còn sống” Đường Hiểu Lan nói: “Võ tiền bối rất mến Phùng Anh, suýt nữa đã giành với Dịch tổ bà”. Ngừng một hồi lại nói tiếp: “Đệ gặp Phùng Anh, nó nhoẻn miệng cười với đệ, bên má trái có lún đồng tiền, đệ nhớ nó chính là Phùng Anh, đang định gọi. Dịch tổ bà lại ngăn đệ. Sau đó mới nói rằng Phùng Anh đang luyện công phu cơ bản, tâm thân phải chuyên nhất, vả lại nó chỉ là đứa trẻ bảy tuổi, không thể cho nó biết thân thế” Lữ Tứ Nương nói: “Thế chuyện này có liên quan gì đến đệ?” Đường Hiểu Lan đang định lên tiếng, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Thong thả!” rồi đứng dậy bước lên tảng đá.
Lữ Tứ Nương nói vọng xuống bên dưới: “Nhất Phiêu đại sư, một lát nữa tôi sẽ trở lại, không cần đợi tôi”. Rồi quay đầu lại ngắt một ít trái dại đưa cho Đường Hiểu Lan: “Đệ hãy ăn thử”. Mùi vị quả nhiên dịu ngọt, nồng nồng như có men rượu, Đường Hiểu Lan bất giác ngây ngất. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta qua bên này ngồi, phong cảnh bên này đẹp hơn nhiều”. Đường Hiểu Lan đi theo Lữ Tứ Nương một hồi, chợt gặp một thác nước từ trên cao đổ xuống, tạo thành một đầm nước, Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan ngồi xuống, Lữ Tứ Nương nói: “Ta thích ngồi nơi này nghe tiếng nước”. Đường Hiểu Lan xốn xang cõi lòng nhưng thấy Lữ Tứ Nương nói rất thản nhiên, trong dịu dàng có nét đoan trang, khiến người ta không dám nhìn thẳng, chàng vội vàng định thần, ngồi xuống bên cạnh Lữ Tứ Nương, nói: “Đệ chịu ân lớn của Phùng lão sư ở Nhữ Châu, mười hai năm trước nhà ông ta gặp họa, chuyện đó chắc tỷ cũng biết, lúc đó đệ từng thề rằng phải cứu cho được điệt nữ trong tay của Thần Ma song lão, giờ đây đã tìm được Phùng Anh nhưng Phùng Lâm vẫn trong tay của bọn chúng. Nên đệ học kiếm thuật ba năm, xuống núi liền dò tìm tin tức của Phùng Lâm”. Lữ Tứ Nương nói: “Phùng Lâm ở trong phủ Tứ bối lạc, dù đệ bản lĩnh cao cường e rằng cũng khó được như mong muốn”. Đường Hiểu Lan nói: “Đúng thế! Nên sau đó mới gây ra chuyện. Cả đệ cũng không ngờ đến. Chuyện này cứ như một giấc mơ. Tỷ tỷ, tỷ đừng trách đệ, đệ coi tỷ như người thân nên mong tỷ hãy nghe kỹ”. Thế là Đường Hiểu Lan kể lại câu chuyện éo le ly kỳ mà mình đã trải qua.
Số là Đường Hiểu Lan rất cẩn thận, sau khi hạ sơn chàng không tìm ngay hai tên ma đầu. Chàng rong ruổi trên giang hồ, trước tiên đến bán đảo Liêu Đông, tìm Quan Đông tứ hiệp. Lúc này chàng đã là một thanh niên hai mươi tám tuổi, Quan Đông tứ hiệp lấy chàng đã lớn thành người, vui mừng lắm, Huyền Phong đạo trưởng nghe chàng sắp đến Bắc Kinh dò tìm Phùng Lâm, nói với chàng rằng: “Ta có một người quen tên gọi Cẩn Ngũ, khi nào đến Bắc Kinh cứ tìm y”. Đường Hiểu Lan cải dạng đến miền Bắc, vừa khéo Cẩn Ngũ đã ra ngoài. Đường Hiểu Lan chỉ đành trọ tại một ngồi chùa ở Tây Sơn, suốt ngày chẳng có việc gì làm nên đi thăm thú khắp nơi, một ngày nọ chàng mướn xe ngựa đến Nam Khẩu, leo lên Cư Dung Quan.
Vạn Lý Trường Thành từ Gia Dụ Quan đến Sơn Hải Quan, kéo dài hơn một vạn hai ngàn dặm, Cư Dung Quan băng qua Bát Đạt Lĩnh. Đường Hiểu Lan leo lên ngọn núi hiểm trở, chỉ thấy Vạn Lý Trường Thành kéo dài dằng dặc, tựa như một con trường xà. Quan thành Cư Dung Quan ở phía Bắc của Nam khẩu, hai bên là đỉnh núi nhỏ hẹp, trên núi hoa dại mọc um tùm, kết thành một bức tranh đẹp đẽ. Nơi đây chính là một trong Yên Kinh bát cảnh, Cư Dung Thúy Điệp. Đường Hiểu Lan ngắm một hồi lại đi qua những danh thắng như Lục Lan Ảnh, Mục Quế Anh điểm tướng đài, lên đến đỉnh cao của Bát Đạt Lĩnh, chỉ thấy có một vách núi có tạc hai chữ “thiên hiểm”, thế núi cực kỳ hiểm trở, Vạn Lý Trường Thành bắc qua sườn núi, Đường Hiểu Lan chợt bộc phát hào tình, leo lên trường thành cởi áo đón gió, cảm thấy đất trời rộng lớn bao la mà con người thì nhỏ bé.
Kiến trúc Vạn Lý Trường Thành rất hùng vĩ, trên tường thành có thể chứa năm con ngựa cùng phóng qua. Đường Hiểu Lan đứng trên trường thành đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy thế núi trùng điệp vô tận, Cư Dung Quan nằm ở phía Bắc, Vạn Lý Trường Thành tựa như một con trường xà băng núi vượt đèo. Hôm ấy trời trong sáng, đứng trên tường thành có thể thấy thấp thoáng ngọn Bạch tháp ở Bắc Hải trong kinh thành. Đường Hiểu Lan thấy xung quanh không có người, chàng chợt nổi hứng tháo kiếm ra múa, đang lúc đắc ý chợt nghe có người khen: “Kiếm pháp hay!” Đường Hiểu Lan thất kinh, khi thâu kiếm lại nhìn không biết có một ông già đã đứng trên tường thành từ bao giờ. Đường Hiểu Lan nói: “Làm kinh động đến lão trượng, xin thứ lỗi”. Ông già cười bước tới, chợt hỏi: “Châu Thanh là người thế nào với ngươi?” Đường Hiểu Lan nào dám nói, chỉ đáp: “Vãn bối kiến thức nông cạn, xin hỏi ai là Châu Thanh?” Ông già nói: “Ồ, ngươi đang nghi ngờ ta? Khi ta quen biết với Châu Thanh, chỉ e ngươi vẫn chưa ra đời. Đưa kiếm của ngươi cho ta xem”. Châu Thanh là khâm phạm của triều đình, Đường Hiểu Lan không biết ông già là người thế nào, trong lòng lo lắng, thấy ông ta cứ bước dấn tới, không khỏi nổi cáu nói: “Tại sao phải đưa cho ông xem?” ông già chợt nói: “Nghe nói Châu Thanh đã chết, có phải không?”
Đường Hiểu Lan nói: “Nếu ông đã là bằng hữu của người, sao lại không biết?” ông già biến sắc, quát: “Ai đã giết ông ta, khai ra cho mau!” Đường Hiểu Lan nói: “Ông có phải là đương sai trong cung không?” ông già giãn nét mặt, chợt cười: “Nếu ngươi đã biết ta là vệ sĩ trong cung, vậy Châu Thanh chắc chắn đã từng nói với ngươi, hãy đưa thanh kiếm cho ta xem có phải là Du Long kiếm hay không!” Đường Hiểu Lan nói câu ấy chỉ là muốn dò thử, thấy ông ta thản nhiên nhận, thất kinh quát: “Té ra ngươi là ưng khuyển của triều đình, có bản lĩnh thì cứ đến lấy thanh kiếm này!” rồi chàng vung thanh kiếm lên, ông già chưng hửng, tựa như đã nổi cáu, quát: “Thật không biết trời cao đất dày!” Đường Hiểu Lan lo ông ta còn có đồng đảng, thế là đâm tới một nhát kiếm, ông già lách qua, quát: “Ngươi đúng là không biết tốt xấu!” Đường Hiểu Lan ra tay nhanh như chớp, chỉ trong nháy mắt đã tấn công liền năm chiêu, ông già không ngờ rằng kiếm pháp của chàng hiểm hóc tinh kỳ đến thế, không thể lên tiếng nói chuyện được với chàng, chỉ đành ngậm miệng vung chưởng. Một hồi sau, Đường Hiểu Lan càng đánh càng nhanh, khiến ông già luống cuống chân tay, ông già thầm thất kinh, nhủ rằng: “Sao kiếm pháp của tên thiếu niên này còn hơn cả Châu Thanh, chả lẽ mình đã nhìn nhầm, y không phải là kẻ mình muốn tìm”. Ông ta thối lui từng bước, Đường Hiểu Lan nổi lên sát cơ, đuổi sát theo sau, ông già chợt quát lớn, rút một thanh kiếm trong eo ra, chỉ nghe keng một tiếng, cây kiếm của ông già chập vào với cây Du Long kiếm, đánh một chiêu Thừa Long Dẫn Phụng, đẩy kiếm của Đường Hiểu Lan ra ngoài. Đường Hiểu Lan thất kinh, vội vàng thừa thế đẩy về phía trước, hóa giải thế kiếm ấy rồi chém soạt soạt vào kiếm của ông già, thân pháp của ông ta phiêu hốt, kiếm chiêu vô định, không để cho kiếm của Đường Hiểu Lan chạm vào, khi không né tránh được thì dùng phương pháp lấy nhu khắc cương hóa giải thế công của chàng. Đường Hiểu Lan theo Dịch Lan Châu học được ba năm, kiếm pháp thi triển ra nhanh như điện chớp, công lực của ông già cực kỳ cao cường, kiếm pháp tuy không bằng chàng nhưng chưa đến nỗi thất bại. Kiếm pháp của Đường Hiểu Lan tinh kỳ nhưng nội lực kém người ta, đấu được một trăm chiêu mồ hôi đã toát đầm đìa. Chàng rất lo lắng, không ngờ rằng mình học được Thiên Sơn kiếm pháp mà chẳng hạ nổi ông ta.
Đường Hiểu Lan không biết rằng, nếu chẳng phải chàng theo Dịch Lan Châu học ba năm kiếm pháp đã sớm thất bại. Đấu một hồi nữa, kiếm thế của Đường Hiểu Lan tuy vẫn không hề chậm lại nhưng đã dần dần cảm thấy hơi thở nặng nề. Đang lúc ác đấu, chợt nghe dưới tường thành có người kêu: “Hầu lão gia tử, ông đang đùa với ai thế?” Đường Hiểu Lan biết đó là đồng đảng của ông già, nghĩ bụng ba mươi sáu kế chạy là thượng sách, thế là đâm soạt soạt mấy kiếm mạnh như mãnh sư, rõ ràng là tấn công gấp tới nhưng thật sự là bỏ chạy, trong lúc ông già chống trả, Đường Hiểu Lan đã lách người bỏ chạy, ở dưới chân thành có mấy người đã chạy lên trên đầu thành, trong lúc gấp gáp Đường Hiểu Lan quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy những kẻ ăn mặc theo kiểu vệ sĩ, chàng càng chạy càng nhanh, được khoảng hơn mười dặm mới ngừng chân, lúc này đã đến gần Cư Dung Quan, trên Cư Dung Quan cũng có binh lính, Đường Hiểu Lan nhảy xuống tường thành, lẩn vào trong núi cho đến hoàng hôn mới dám trở về.
Đường Hiểu Lan lo lắng mấy ngày, may mà chẳng có chuyện gì xảy ra. vì thế lại đến nhà Cẩn Ngũ hỏi thăm, té ra Cẩn Ngũ đã về mấy ngày trước. Đường Hiểu Lan lấy ra bức thư của Huyền Phong đạo trưởng đưa cho Cẩn Ngũ. Cẩn Ngũ nói: “Trong hoàng phủ có nhiều người làm, tiểu huynh đệ cứ lẩn vào cải trang thành kẻ nô bộc. Không cần cho tổng quản biết, chỉ nói với viên chấp sự là được”. Đường Hiểu Lan thầm nhủ cứ tìm cơ hội dắt Phùng Lâm đi cũng được, vì thế nhờ Cẩn Ngũ tìm cho mình một chân nô bộc quét vườn.
Phủ đệ của Tứ bối lạc không nằm trong Tử Cấm thành, vốn là thần miếu để hoàng thất nuôi dưỡng Lạt Ma, nay Tứ bối lạc chiếm một nửa làm nơi ở, sau khi Tứ bối lạc lên ngôi, đổi thành thiền viện của Hoàng giáo, được ban tên là Ung Hòa cung, là một nơi bí hiểm có tiếng trong kinh thành. cung điện này rất rộng, đền đài hùng vĩ. Vườn hoa rất lớn, cây cối cao chọc trời. Đường Hiểu Lan vào hoàng phủ, chỉ thấy khắp nơi đều là những tượng Phật kỳ lạ. Làm việc được nửa tháng mà chàng chẳng thấy Phùng Lâm, cả Liễu Ân, Cáp Bố Đà và Thần Ma song lão cũng không thấy xuất hiện.
Một chiều nọ, Đường Hiểu Lan làm xong công việc, vốn cùng Cẩn Ngũ trở về nhà, chợt nghe hậu viên có tiếng cười của thiếu nữ, chàng len lén vào nhìn thì thấy có mấy đứa trẻ đang chơi trốn tìm trong vườn, trong đó có một bé gái khoảng mười hai mười ba tuổi, thân pháp rất lanh lẹ, bọn trẻ không thể nào bắt được cô bé, Đường Hiểu Lan nhìn một hồi, cô bé chơi rất vui, cứ cười khanh khách không thôi, ở má phải có lún đồng tiền trông rất xinh xắn. Đường Hiểu Lan đợi một hồi, bọn trẻ nói: “Không bắt được ngươi, không chơi với ngươi nữa”. Trời dần dần tối, bọn trẻ tản đi, Đường Hiểu Lan nhẹ nhàng đến bên cạnh nó, chợt nói: “Phùng Lâm, muội có còn nhớ Chung bá bá không?” đứa bé gái tròn mắt hỏi: “Ngươi nói gì? Ai là Phùng Lâm? Ai là Chung bá bá, ta có rất nhiều bá bá nhưng không ai họ Chung cả, có phải Chung bá bá mới đến không?” Đường Hiểu Lan thấy lòng đau nhói, thầm nhủ: “Khi Chung Vạn Đường chết, đứa trẻ này chỉ có bảy tuổi, làm sao có thể nhớ được chuyện gì”. Vì thế mới nói: “Muội đừng sợ, ta và cha của muội là hảo bằng hữu”.
Phùng Lâm nói: “Ta có nhiều nghĩa phụ, ngươi là hảo bằng hữu của ai?” Đường Hiểu Lan nói: “Cha mẹ ruột của muội muội”. Phùng Lâm nói: “Ta còn có cha mẹ ruột? Ngươi nói dối!” Đường Hiểu Lan nói: “Cha của muội bị người ta hại chết, mẹ của muội vẫn chưa chết. Khi còn bé ta đã từng bé muội, ta dắt muội ra ngoài học võ công, tìm mẹ của muội”. Phùng Lâm bật cười, nói: “Ngươi dắt ta ra ngoài? Học võ nghệ? Hừ, ngươi chính là kẻ xấu!” rồi vung tay, mấy mũi phi đao bay vút ra!
Đường Hiểu Lan xoay người, một mũi phi đao lướt qua hông chàng, Đường Hiểu Lan đột nhiên giơ ngang hai ngón tay, kẹp mũi phi đao thứ hai ném ra ngoài đánh rơi mũi thứ ba, Phùng Lâm vỗ tay nói: “Hay lắm, ngươi hãy thử tiếp xem sao, nếu tránh được cả, ta sẽ gọi ngươi là bá bá, học võ công của ngươi!” rồi bàn tay nhỏ nhắn tiếp tục vung lên, sáu mũi phi đao chia thành ba nhóm bay tới, bay được nửa đường đột nhiên tách ra hai bên trái phải, đó là tuyệt kỹ phi đao của Chung Vạn Đường, Phùng Lâm đã được ông ta chân truyền, Đường Hiểu Lan vốn muốn dùng tay không tiếp đao nhưng không thể nào để mắt nhìn xung quanh, chỉ nghe soạt soạt hai tiếng, hai mũi phi đao bay lướt qua tai chàng. Phùng Lâm vung tay liên tục, phi đao bay ra liên tiếp, càng lúc càng nhanh, Đường Hiểu Lan buộc phải rút thanh Du Long kiếm quét tạt ngang một cái, chỉ nghe tiếng kim khí gãy leng keng, toàn bộ số phi đao của Phùng Lâm đã bị Du Long kiếm chặt gãy. Ngay lúc này, chợt nghe hai tiếng hú dài quái dị, có người quát: “Ai làm càn ở đây?” Phùng Lâm kêu: “Tát bá bá, kẻ này bảo điệt nữ theo y!”
Đường Hiểu Lan phóng vọt người lên, định lao qua tường, ở trên tường chợt có một bóng đen phóng xuống, mười ngón tay từ trên không chụp xuống, Đường Hiểu Lan vội vàng lia kiếm đánh ra một chiêu, rồi xoay người nhảy bổ về phía Phùng Lâm, chợt lại nghe một tiếng quát lớn, Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đã chặn đường chàng. Phùng Lâm nấp sau lưng Tát Thiên Đô, tay cầm sẵn phi đao, miệng thì cười hì hì.
Kẻ từ trên tường nhảy xuống là Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích, cả hai huynh đệ kẹp Đường Hiểu Lan ở giữa, Tát Thiên Thích cười ha hả: “Đường Hiểu Lan, té ra là ngươi! Ngươi muốn đến đây bái sư ư?” Phùng Lâm nói: “Không phải, y muốn điệt nữ đi theo. Y nói sẽ dạy võ công cho điệt nữ!” Tát Thiên Đô quát: “Hay lắm, xem thử ngươi có cao chiêu gì?” rồi hai chưởng vung lên bổ thẳng tới, chưởng trái chém vào ngực, chưởng phải chụp vào cổ tay của chàng, Đường Hiểu Lan lia thanh kiếm nhanh như gió, Tát Thiên Đô không ngờ rằng kiếm pháp của chàng lại lanh lẹ đến thế, y vội vàng rút chưởng lại. Đường Hiểu Lan vẫy mũi kiếm, vạch một đường trên vai của y, Tát Thiên Thích vội vàng thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích phóng vọt người lên rồi bổ nhào xuống, Đường Hiểu Lan vẫy ra một đóa kiếm hoa, múa thành một đường ngân hồng che trên đỉnh đầu, Tát Thiên Thích xoay người trên không trung, chao liệng ba vòng mà chẳng tấn công được, chỉ đành hạ xuống đất. Tát Thiên Đô gầm lên như sấm, vung quyền đánh tới. Đường Hiểu Lan đâm soạt soạt hai kiếm về phía hai tên ma đầu, Tát Thiên Thích quát: “Kiếm pháp hay!” rồi trở tay chụp lại, mười móng tay chụp vào cổ tay của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan đánh ra một chiêu Thu Thủy Hoành Châu, chém ngang qua, Tát Thiên Thích chợt đổi hướng chụp vào sườn trái, hai chưởng của Tát Thiên Đô cũng bổ tới trước mặt. Đường Hiểu Lan vung thanh kiếm, vội thi triển Hàn đào kiếm pháp trong Thiên Sơn kiếm pháp ra, chỉ thấy lãnh điện sáng loáng, kiếm hoa tuôn ra như thác đổ, Tát Thiên Thích luồn qua lách lại trong màn kiếm quang, tìm cách tấn công Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan không nhảy ra được, Tát Thiên Thích cũng không thể sấn tới gần. Tát Thiên Đô đứng bên ngoài phát chưởng, chưởng nào cũng có kình lực mạnh mẽ, chưởng phong kêu lên vù vù, mỗi chưởng đều khiến mũi kiếm của Đường Hiểu Lan đánh lệch qua, tạo cơ hội cho Tát Thiên Thích tấn công vào. Kiếm chiêu của Đường Hiểu Lan tuy thần diệu nhưng công lực lại không sâu, chỉ trong chốc lát đã khó cầm cự, Tát Thiên Thích nhe nanh múa vuốt, càng đánh càng hung dữ!
Phùng Lâm vỗ tay cười: “Không biết xấu hổ, bản lĩnh như thế mà cũng đòi là sư phụ của ta”. Đường Hiểu Lan quát: “Phùng Lâm, hai người này là kẻ thù của muội, dù y giỏi đến mức nào muội cũng không được nhận giặc làm cha!” Đường Hiểu Lan thấy mình nguy hiểm, khó thoát ra được, bởi vậy mặc cho Phùng Lâm vẫn chưa hiểu việc, cũng phải nhắc nhở cô bé. Tát Thiên Thích chợt biến sắc, nói: “Yến nhi, đừng nghe y nói”. Rồi tung đòn càng hung dữ hơn, Đường Hiểu Lan sấn tới mấy lần đều bị y đẩy trở lại, xem ra sắp nguy tới nơi. Tát Thiên Thích quát: “Còn chưa buông kiếm đầu hàng!” Đường Hiểu Lan nghiến răng, múa kiếm cố tấn công. Lúc này người trong hoàng phủ đã bị kinh động, kéo ùa ra hậu viên, xem hai lão ma đầu bắt thích khách. Cẩn Trung thầm kêu khổ, đang định chạy trốn, chợt nghe bên ngoài có tiếng quát: “Mọi người dạt qua hai bên”, một đám người bước vào. Kẻ đứng đầu quát: “Cáp tổng quản của các người đâu? Bảo Dận Trinh đến gặp ta”. Tát Thiên Thích nhảy vọt ra khỏi vòng, Đường Hiểu Lan không thể rút lui được nữa.
Kẻ dẫn đầu là con trai trưởng của Hoàng đế Khang Hy, Trực Quận vương Dận Đề. Tuy Khang Hy chưa lập bị quân, nhưng trong đám hoàng từ, Dận Đề có quyền uy lớn nhất. Lúc đó cuộc tranh đoạt ngôi vị đang diễn ra rất kịch liệt, thế lực của Tứ bối lạc Dận Trinh, Bát bối lạc Dận Tự, Thập bối lạc Dận Nga, Thập tứ bối lạc Dận Đê là lớn nhất. Dận Đề là con trưởng, đương nhiên không chịu buông ngôi vua nên cũng cấu kết với một đám quần thần, nuôi một đám tử sĩ. Tứ bối lạc thưởng cải trang xuất kinh, ngày Đường Hiểu Lan vào kinh là lúc Tứ bối lạc ra ngoài nên Cáp Bố Đà, Liễu Ân và bọn Thiên Diệp cũng theo y. Tứ bối lạc tự tiện xuất kinh vốn là chuyện tuyệt mật, không ngờ Dận Đề lại biết.
Bối lạc tự tiện xuất kinh là chuyện phạm pháp. Tứ bối lạc Dận Trinh mỗi lần xuất kinh đều báo với vua cha mình bị bệnh. May mà Khang Hy có nhiều con cái, vả lại chẳng thương yêu gì Tứ bối lạc, rất ít khi triệu vào cung dù đôi khi triệu y vào cung, nghe y bệnh cũng thôi. Nên Tứ bối lạc ngày càng lớn gan, ở ngoài thì nhiều mà ở trong cung thì ít. Lần này Dận Đề điều tra được Dận Trinh tự tiện xuất kinh, vậy là nảy ra một kế, đích thân đến bái phỏng. Vào đến hoàng phủ nghe có tiếng quát tháo, y rất ngạc nhiên nên vào hậu viên xem.
Tát Thiên Thích vừa thấy thì luống cuống, vội vàng bẩm: “Tứ điện hạ bị bệnh không ngồi dậy nổi, không thể đích thân tiếp điện hạ”. Dận Đề nói: “Ta phải đi thăm hắn”. Rồi ra lệnh cho Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Để tôi bắt tên thích khách này trước”. Dận Đề chợt quay lại một tên vệ sĩ bên cạnh, nói: “Hầu Tam Biến, ngươi hãy bắt tên thích khách này”. Rồi vẫn nói với Tát Thiên Thích: “Không cần ngươi nhọc sức, dắt ta đi gặp Dận Trinh”. Tên vệ sĩ bên cạnh Dận Đề vâng một tiếng, phóng vọt ra, Đường Hiểu Lan ngẩng đầu nhìn lên thì thất kinh, người đó chẳng phải ai khác mà chính là lão già mà chàng đã gặp trên Vạn Lý Trường Thành. Lúc này Đường Hiểu Lan đã nhụt chí, thầm nhủ: “Dù sao cũng chạy không thoát, rơi vào trong tay lão ta còn hơn lọt vào trong tay hai tên ma đầu”. Chàng đánh hờ vài chiêu, Hầu Tam Biến thi triển Đại Cầm Nã thủ nhấc bổng chàng lên.
Dận Đề nói: “Được, ngươi giải thích khách về trước”. Té ra Dận Đề nghi ngờ thích khách này có liên quan đến chuyện đoạt vị giữa các huynh đệ nên không giao chàng ta cho người của phủ Dận Trinh mà bảo Hầu Tam Biến giải về trước để đích thân thẩm vấn.
Dận Đề lại quát Tát Thiên Thích dẫn đường, Tát Thiên Thích nói: “Tôi chỉ là một vệ sĩ, làm sao dám tự tiện bước vào nội phủ”. Dận Đề chợt biến sắc.
Ngay lúc đó, một bé gái ở phía sau lưng Tát Thiên Đô lách ra, nói: “Điện hạ, tôi dẫn đường cho ngài”. Dận Đề nói: “Ngươi là ai?” Phùng Lâm nói: “Tôi là tì nữ hầu hạ tứ điện hạ”. Dận Đề nói: “Được, ngươi rất ngoan ngoãn, đi thôi”. Phùng Lâm nháy mắt với Tát Thiên Thích, dắt Dận Đề vào nội phủ.
Hầu Tam Biến bắt Đường Hiểu Lan, vội vàng phóng ra ngoài, bọn thái giám đã thắng sẵn xe ngựa, chạy thẳng vào cấm thành. Dận Đề là trưởng tử nên được sống trong cung. Xe ngựa chạy một hồi, vào cung từ Thần Võ môn ở phía sau. Sau khi xuống xe, hai thái giám đi ở phía trước, Hầu Tam Biến kẹp Đường Hiểu Lan đi phía sau, đi được một lúc lâu trời đã tối, các cung đều đã đóng cửa, trong vườn chỉ có bọn thái giám đi tuần. Dận Đề sống trong cung Thừa Càn ở phía Đông. Ba mươi sáu cung điện ở phía Tây là nơi ở của Hoàng đế và hậu phi, nếu chưa được gọi vệ sĩ và gia nhân của các bối lạc không được vào, đi được một hồi, đã đến nơi giao giới giữa hai cung Đông Tây, Hầu Tam Biến chợt khẽ nói vào tai Đường Hiểu Lan: “Ngươi mau chạy vào Tây cung, vượt qua hộ tường, tiếp tục chạy về phía Bắc khoảng hai trăm bước có một hòn non bộ, vòng qua hòn non bộ có một hồ sen, tiếp tục đi về bên trái của hồ sen năm mươi bước sẽ có căn nhà đá, ngươi đẩy cửa vào đấy, thấy người không được sợ, đảm bảo ngươi sẽ thoát hiểm!” nói xong thì đột nhiên buông tay, quát: “Ôi chao, tên thích khách thật lợi hại!” rồi rút thanh kiếm đâm mạnh vào chân mình, hai tên thái giám quay đầu lại, Đường Hiểu Lan đã phóng vọt lên tường, chạy vào Tây viện.
Đường Hiểu Lan thấy tim mình đập thình thình, không biết tại sao Hầu Tam Biến lại tha cho mình nhưng chàng đã sa cơ, chỉ đành đi theo lời y. Hoàng cung rất lớn, Đường Hiểu Lan vượt qua hộ tường, phóng vào vườn hoa, chạy tiếp về phía Bắc hai trăm bước, quả nhiên thấy có một hòn non bộ, chàng chạy vòng qua hòn non bộ thì đúng là có một hồ sen, Đường Hiểu Lan lại tiếp tục đi về phía bên trái năm mươi bước, tìm thấy căn nhà đá. Trong cung điện huy hoàng, chỉ có căn nhà đá này là xấu xí nhất, chàng bước tới cửa, chỉ thấy cõi lòng lạnh lẽo, trước mái toàn là tơ nhện, nghĩ bụng bình thường rất ít người tới. Đường Hiểu Lan đẩy cửa tiến vào, bước lên bậc tam cấp, chợt nghe bên trong có giọng nói yếu ớt: “Ai thế?” Đường Hiểu Lan đẩy cửa phòng ra, chợt thấy có một phụ nữ tóc bạc, người gầy đét đang gãy đàn dao. Thấy Đường Hiểu Lan bước vào thì trợn mắt lên.
Đường Hiểu Lan nói: “Hầu Tam Biến bảo tôi đến đây!” người đàn bà kêu ồ một tiếng, mắt chợt sáng lên, nhìn chằm chằm Đường Hiểu Lan, cơ mặt cứ dần giật, hai dòng nước mắt tuôn dài, Đường Hiểu Lan tựa như cảm thấy đã gặp người đàn bà này ở đâu đấy, cõi lòng thấy lạnh lẽo.
Người đàn bà nhìn một hồi, khẽ nói: “Ngươi ngồi xuống đây!” giọng nói tuy nhỏ nhưng tựa như có một sức mạnh không thể chống cử nổi. Đường Hiểu Lan ngồi xuống, lại nghe bà ta khẽ nói: “Cởi áo ra!” Đường Hiểu Lan thất kinh, người đàn bà nói: “Ta bảo ngươi cởi áo, ngươi hãy nhìn thử xem ở trước ngực ngươi có một nốt ruồi đen rất lớn, hai bên vú ngươi có hai nốt ruồi đen nhỏ thành hình chữ “phẩm”, ngươi tự sờ thử xem có đúng không?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh.