Ngạch Âm Hòa Bố chợt nổi giận, bỗng nghe tiếng chuông leng keng bên ngoài vọng vào, tiếp theo là mấy tiếng kêu thảm, Phùng Anh cả mừng: “Võ lão tiền bối đã đến!” Ngạch Âm Hòa Bố cả giận nhảy vọt ra cửa chùa, dưới ánh trăng chỉ thấy một lang trung giang hồ tay phải cầm một cây gậy, tay trái lắc cái chuông đồng bước thẳng về phía mình, bọn lính canh ở ngoài đều bị người ấy đánh ngã.
Ngạch Âm Hòa Bố trừng mắt quát: “Ai? Đứng lại!” té ra người đó là Võ Thành Hóa, chỉ thấy ông ta cười lạnh nói: “Phách lối thật! Ngươi muốn hỏi ta là ai? Ta là sứ giả chiêu hồn cho ngươi!” rồi lắc cái chuông kêu lên leng keng. Ngạch Âm Hòa Bố cả giận đẩy vù ra một chưởng, Võ Thành Hóa không hề nhúc nhích, cười ha hả giơ cây gậy đánh tới, Ngạch Âm Hòa Bố quét cây phất trần cuộn trúng cây gậy của ông ta nhưng vẫn bị ông ta đẩy lui hai bước. Ngạch Âm Hòa Bố cả kinh, ngầm vận nội lực kéo sang một bên; Võ Thành Hóa cũng thất kinh, tuy cây gậy không vụt ra khỏi tay nhưng ông ta cũng không thể đánh tới được. Hai người đều ngầm vận nội lực hạ nhau.
Phùng Anh lướt tới, kêu: “Võ tiền bối, người đến thật đúng lúc!” Võ Thành Hóa nói: “Có phải tên này cậy người đông bức hiếp ngươi không?” Phùng Anh cười nói: “Y làm gì có bản lĩnh ấy!” rồi quay mặt sang nhìn Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Ngươi có muốn đấu nữa không?” Ngạch Âm Hòa Bố thâu cây phất trần, nhảy vọt qua hai bước, nói: “Được, chúng ta dừng tay, sau này gặp lại ta sẽ không tha cho ngươi”. Phùng Anh cười nói: “Vậy chờ sau này hẳn tính”. Võ Thành Hóa quét mắt nhìn Ngạch Âm Hòa Bố rồi nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Đáng tiếc thế này!” Võ Thành Hóa nói: “Chả lẽ ngươi không biết kết cuộc của Liễu Ân?” Ngạch Âm Hòa Bố nghe thế giật mình, giơ cao cây phất trần, Võ Thành Hóa nói: “Có phải còn muốn đánh với ta không?” Ngạch Âm Hòa Bố chẳng nói lời nào, quay mình dắt bọn lính đi nhanh xuống núi. Dận Đường bị vặn gãy xương cổ tay, đau đến nỗi ngất đi, cũng được bọn lính cõng xuống núi.
Võ Thành Hóa cười nói: “Ta nghe nói các người lại xuống Thiên Sơn, biết thể nào cũng đến tìm Lữ Tứ Nương nhưng không ngờ gặp ở đây. Sư phụ của ngươi khỏe không?” Phùng Anh nói: “Chúng ta khoan nói chuyện này, xem thử Đường Kim Phong đã thế nào!” Võ Thành Hóa nói: “Đường Kim Phong là ai?” Phùng Anh nói: “Là một tiền bối võ lâm, ám khí thiên hạ vô song”. Võ Thành Hóa nói: “Ồ, thế là người của Đường gia tứ xuyên rồi, làm sao các ngươi quen y?”
Họ vừa đi vào trong miếu, chỉ thấy Đường Kim Phong vẫn ngồi xếp bằng, sắc mặt tái nhợt. Đường Trại Hoa bế Niên Thọ, mặt đầy vẻ lo lắng, khẽ hỏi: “Cha, thế nào rồi?” Đường Kim Phong mỉm cười nói: “May mà vẫn còn giữ được mạng của đứa trẻ. Ta không xong rồi. Con hãy bế nó về. Ta nhận nó làm cháu ngoại”. Đường Trại Hoa rơi nước mắt như mưa, nói: “Cha, có phải cha đã bị thương rất nặng không? Chúng ta mang theo toàn là thuốc tốt”. Đường Kim Phong cười khổ nói: “Thuốc tốt chẳng ích gì, ta bị chưởng lực của tên ấy chấn động, lại khổ chiến một hồi, sức cùng lực kiệt, tựa như đèn khô dầu cạn, làm sao có thuốc nào chữa nỗi!” Phùng Anh chợt nói: “Thuốc của tôi có thể cứu nỗi”. Đường Trại Hoa cả mừng, không màng đến thù hận trước kia, vội nói: “Vậy xin cô nương hãy mau cứu!” Đường Kim Phong có vẻ không tin, hỏi: “Thuốc gì?” Phùng Anh lấy ra một cái bình bạc nhỏ xíu, đổ ra ba viên thuốc màu xanh lục, lập tức hương thơm xông vào mũi, tinh thần sảng khoái, Phùng Anh đưa viên thuốc cho Đường Kim Phong nói: “Đây là Bích linh đơn được bào chế từ Thiên Sơn tuyết liên, bổ khí ích huyết, trị thương giải độc đều có hiệu quả. Lão tiền bối có căn cơ vững chắc, được nó cố bản bùi nguyên, không những chẳng lo đến tính mạng mà võ công cũng không đến nỗi giảm sút”.
Đường Kim Phong nuốt ba viên Bích linh đơn, chỉ cảm thấy một luồng khí mát mẻ dâng lên đang điền, cười rằng: “Thiên Sơn tuyết liên quả nhiên danh đồn không oa, đúng là linh đơn diệu dược”. Niên Thọ mở mắt nhìn Đường Kim Phong, Phùng Anh nói: “Cậu bé, ngươi đã thoát chết, ngươi biết có nên đáp tạ ai không?” Niên Thọ rất ngoan ngoãn, bước tới quỳ xuống đất, dập đầu ba cái truớc Đường Trại Hoa, kêu một tiếng “mẹ”. Đường Trại Hoa mừng rỡ nói: “Con ngoan, con ngoan”. Niên Thọ lại dập đầu trước Đường Kim Phong ba cái kêu: “Công công”. Đường Trại Hoa cười nói: “Phải kêu là ngoại công”. Đường Kim Phong cười ôm cậu bé vào lòng.
Đường Hiểu Lan nói: “Đứa bé này rất thông minh, giống như cha nó”. Phùng Anh nói: “Cũng mong nó không hoàn toàn giống cha”. Võ Thành Hóa nhìn sắc trời, thấy đã hơi hửng sáng, cười nói: “Chúng tôi phải đi trước một bước, ông cứ ngồi đã tọa một lúc, khí lực sẽ hồi phục ngay, xin thứ chúng tôi không thể đi cùng”. Đường Trại Hoa nói lời tạ ơn với Phùng Anh, giờ đây mối thù hận giữa cha con họ Đường với chị em họ Phùng đã tiêu biến.
Võ Thành Hóa và hai người Phùng Đường xuống Tung Sơn, Võ Thành Hóa nói: “Có phải các ngươi lên Mang Sơn không?” Phùng Anh nói: “Đúng thế. Mẹ của vãn bối đang ở Mang Sơn, người có biết không?” Võ Thành Hóa cười nói: “Mẹ của ngươi đã không còn ở Mang Sơn nữa. Ngươi có muốn gặp bà ta không?” Phùng Anh kinh hãi hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?” Võ Thành Hóa cười nói: “Vốn là xảy ra chuyện nhưng giờ không hề gì nữa. Tên tiểu tử Ung Chính này thật độc ác, sau khi tước binh quyền của Niên Canh Nghiêu, lùng bắt các chí sĩ càng nghiêm ngặt hơn, y biết ở Mang Sơn có anh hùng hào kiệt tụ hội liền phái đại quân bao vây, may mà Lữ Tứ Nương biết được tin này đã đưa mọi người đến Thiên Sơn”. Đường Hiểu Lan nói: “Sắp xếp rất tốt, nửa đời họ gặp hoạn nạn, cũng nên an hưởng tuổi già. Võ tiền bối, ông gặp Lữ Tứ Nương ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Ở gần kinh thành. Lữ Tứ Nương muốn vào kinh ám sát Ung Chính nhưng trong cung canh gác nghiêm ngặt, chẳng có cơ hội ra tay. Ta vốn muốn đi tìm Lý Trị, gặp Lữ Tứ Nương mới biết họ đã đi Tứ Xuyên”. Phùng Anh nói: “Vậy mẹ của vãn bối lúc này ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Họ chia nhau lên đường, ta đi trước dò đường, đêm qua đi ngang qua Tung Sơn, họ đang ở một nơi dưới chân núi”. Phùng Anh cả mừng, lập tức cùng Đường Hiểu Lan đến gặp mẹ.
Lại nói Lý Trị và bọn Quan Đông tứ hiệp đi được hơn một tháng đến Mang Sơn, nhưng thấy trên núi là một đống đổ nát hoang tàn, ai nấy đều trợn mắt há mồm, tưởng rằng Mang Sơn cũng bị hỏa thiêu như chùa Thiếu Lâm, Phùng Lâm và Lý Trị càng lo hơn, chợt nghe trong đám cây xum xuê um tùm chim chóc bay lên, trong chớp mắt nghe tiếng vù vù, chỉ thấy hai con chim đại bàng một trắng một đen dang cánh chao lượn trên đầu họ, Huyền Phong kêu: “Đây là hai con chim đại bàng của Độc tý thần ni, không ngờ đến nay vẫn còn sống”. Hai con chim đại bàng lượn một hồi rồi bay xuống núi. Mọi người chạy theo hướng chim bay, đi qua nơi góc hẹp, chợt thấy rộng rãi, trước mắt toàn là hoa dại, trên núi đối diện có dòng thác buông xuống, Huyền Phong nói: “Từ nơi này đi tiếp chính là mộ địa của Độc tý thần ni. Chắc là nơi này thấy núi hiểm yếu, bọn quan quân không thấy ai vả lại chẳng thấy nhà cửa nên không phóng hỏa”. Khi đang nói chợt nghe một tràng cười dài, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đã xuất hiện, cười rằng: “Tôi tưởng là ai, té ra là các vị”. Đường Hiểu Lan cũng bước ra gặp gỡ mọi người, ai nấy đều mừng rỡ.
Lữ Tứ Nương nói: “Tháng trước Mang Sơn đã bị hỏa thiêu, bọn quan quân thấy trên núi không có ai, sau khi phóng hỏa đã bỏ đi. Lăng mộ sư phụ tôi vẫn nguyên vẹn, đúng là may mắn. Tôi liệu rằng Phùng Anh sẽ trở về nên một mình lên Mang Sơn đợi mọi người, không ngờ Hiểu Lan và Phùng Anh đến trước”.
Mọi người trò chuyện một hồi, Huyền Phong hỏi: “Nữ hiệp vừa từ kinh thành trở về, chắc có tin tức gì?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Tin tức thì có nhưng chắc là mọi người đã đoán ra”. Huyền Phong nói: “Có phải Niên Canh Nghiêu bị xử tử không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế. Sau khi Niên Canh Nghiêu bị áp giải về kinh, tấu chương vạch tội của tướng quân thành Hàng Châu Lục Hổ Thần cũng được dâng lên, đúng là dậu đỗ bìm leo, các đại thần trong triều đều dâng sớ hạch tội Niên Canh Nghiêu, tính ra y có chín mươi hai tội!” Phùng Lâm lè lưỡi kêu: “Ồ, nhiều đến thế ư!” Lữ Tứ Nương nói: “Ung Chính đích thân ra chỉ dụ, bảo rằng y có năm tội đại nghịch, chín tội khi quân, mười sáu tội lạm quyền, ba mươi tội cuồng vọng, sáu tội ngang ngược, mười tám tội tham ô, sáu tội đố kỵ, mười lăm tội đục khoét, bốn tội tàn nhẫn, vì thế Ung Chính đã ra lệnh xử trảm Niên Canh Nghiêu”.
Sau khi giết Niên Canh Nghiêu, Ung Chính sợ có thích khách hành thích, không những cho canh phòng nghiêm ngặt hơn mà còn cấm ngặt cả những hoạt động trong cung, hàng đêm phải thay đổi chỗ ngủ, lúc nào cũng lo lắng đề phòng.
Nhưng là một Hoàng đế như thế thật đau khổ. Hơn nửa năm sau, Ung Chính thấy yên bình chẳng có việc gì nên định cấm thả lỏng, thời gian qua mau, đông đi thu đến, đã đến ngày tết, trong chớp mắt lại đến tết nguyên tiêu, mẹ ruột của Ung Chính vốn là một phi tử của Khang Hy, nay đã là thái hậu. Nửa năm qua ngồi bó gối trong cung, rất khó chịu, nhân lúc nguyên tiêu sắp đến lại liền bỏ Ung Chính bỏ lệnh cấm. Ngoài các nhạc sư cung đình, có thể gọi thêm cao thủ giáp vườn bên ngoài vào diễn, lại còn cho phép các bối lạc thân cận đến góp vui. Ung Chính nghĩ, những người có thể đối chọi với mình đều đã bị trừ, những kẻ còn lại không dám hai lòng, thế là bỏ lệnh cấm. Tin tức này rất bí mật, đến trước đêm nguyên tiêu mới báo cho các bối lạc biết. Điều đó khiến một người mừng hơn.
Người này chính là thân vương Dận Anh, con thứ mười sáu của Khang Hy. Y là huynh đệ cùng cha cùng mẹ với Ung Chính, trong số các bối lạc, tuổi tác nhỏ nhất, cho nên khi Khang Hy còn sống, y không tranh giành ngôi báu cho nên giữ được mạng.
Dận Anh trẻ tuổi thích chơi bời, cũng thích luyện võ, một tháng trước, có người tiến cử một võ sư cho y, người võ sư này thân hình bình thường, mặt mũi không có gì lạ, Dận Anh không tin y có bản lĩnh, nhất thời nổi hứng tỉ thí với y, quyền cước vừa mới chạm vào người y đã bị y quật ngã. Người ấy tự xưng là Đường Long, không những tinh thông võ công mà còn giỏi các tạp nghệ, Dận Anh rất thích, giữ luôn y trong phủ. Ung Chính bỏ lệnh cấm, Dận Anh hỏi Đường Long có trò gì hay không, Đường Long đáp: “Có, có!” rồi lập tức trổ tài. Dận Anh thích lắm, Đường Long lại bảo phải mời thêm vài trợ thủ, Dận Anh cũng chấp nhận.
Trong đêm nguyên tiêu, cấm thành treo đèn kết hoa, cực kỳ náo nhiệt, trong ngự hoa viên đã dựng hí đài, các hoàng thân quốc thích ngồi xung quanh, bên hí đài còn bắt một khán đài, Ung Chính và các phi tần cùng thái hậu ngồi trên đài thưởng thức.
Thái hậu rất thích các loại tạp kỹ, hễ thấy trò nào hay là thưởng tiền, đến khi đám người của Dận Anh lên đài, thái hậu càng vui hơn, cười nói với Ung Chính: “Tiểu đệ của con xưa nay thích bày trò, xem thử hắn có gì hay?”
Chỉ thấy đám người ăn mặc lòe loẹt lên đài, thái hậu hỏi: “Diễn tuồng gì mà ăn mặc kỳ quặc đến thế?” Dận Anh trả lời: “Không phải diễn tuồng mà là tạp kỹ”. Ung Chính giật mình, nhưng thấy hai người đứng trên đài, kéo tay so vai, một người nhảy lên, hai chân đạp lên hai vai của hai người này, một người nữa lại nhảy lên vai của người lúc nãy, Ung Chính nói: “Công phu của bọn người này thật giỏi...” nói chưa dứt lời, chỉ thấy một hán tử người thấp bé cuối cùng nhảy vọt lên, trên đầu đặt một cái bát nước, hai tay cũng cầm hai cái bát nước, y hơi nghiêng người, nước trong ba cái bát sánh ra ngoài, chứng minh trong bát chứa đầy nước. Chỉ thấy y vung hai tay, hai cái bát nước bay lên không trung, lại ném vù ra hai sợi dây màu cuộn lấy bát nước trên không trung, không những bát nước trên đỉnh đầu chẳng rơi ra giọt nào mà cả hai bát nước trên không trung cũng hạ xuống đất không vãi ra một giọt nước.
Trong tiếng reo hò, người ấy lại múa sợi dây, hai bát nước bay lượn, càng lúc càng nhanh, thái hậu cao giọng khen hay, người ấy buông tay. Bát nước quay hai vòng trên đỉnh đầu của y, y lại đưa tay chụp đoạn giữa của sợi dây màu, vừa múa sợi dây vừa xoay bát nước, thái hậu khen liền miệng. Ung Chính ngưng thần nhìn kỹ, không hề reo hò, chợt hỏi Dận Anh: “Những người này vốn là trong phủ của đệ phải không?” Dận Anh đang ngưng thần xem, không kịp trả lời, chỉ thấy sợi dây chợt chuyển hướng trên không trung, xếp thành bốn chữ “Thiên hạ thái bình”, thái hậu mừng rỡ nói: “Đúng là thần kỹ, thưởng tiền!” thái giám liền vãi hai nắm bạc trên sân khấu, Ung Chính chợt kêu lên: “Bắt những kẻ này xuống tra hỏi!”
Bạc bay như mưa lên hí đài, người xem bên dưới lại reo hò ỏm tỏi, tiếng hét của Ung Chính khiến mọi người đều thất kinh, tiếng reo hò ngừng lại, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy hán tử người thấp bé vung sợi dây kêu vù một tiếng, hai luồng bạch quang bay tới như điện xẹt lướt vào mặt Ung Chính. Té ra trong sợi dây màu có giấu hai mũi trủy thủ.
Ung Chính đã đề phòng trước, sau khi quát một tiếng thì người đã lách vào trong đám phi tần, hai mũi trủy thủ đâm vào xương vai của hai ả phi tần, đột nhiên tiếng kêu kinh hãi vang lên, hoàng thái hậu bất tỉnh, các phi tần phát hoảng dồn vào nhau. Trong khoảng sát na này, hán tử lại vọt người lên, lao bổ lên khán đài như một con chim, ba bát nước đều tạt vào người Ung Chính, Ung Chính chẳng mở mắt ra nỗi, chỉ thấy một luồng hàn phong quét tới, khí lạnh căm căm, một thanh đoản kiếm bén ngót đã chạm vào lưng.
Nhưng trái lại Ung Chính rất lanh lẹ, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, y co hai tay kéo hai ả phi tần đẩy ra sau lưng mình, hán tử rút tay không kịp, thấy hai người phụ nữ yếu ớt đổ máu, vừa kinh vừa giận, quát lớn một tiếng rút kiếm lao bổ tới, Ung Chính đã phóng người lên lan can lầu.
Hán tử chính là Cam Phụng Trì. Chàng lẫn vào trong phủ Dận Trinh, khó khăn lắm mới chờ được cơ hội, nào có thể bỏ qua, biết rõ cực kỳ nguy hiểm nhưng cũng đuổi theo không rời.
Bốn người đi cùng Cam Phụng Trì chẳng phải ai khác mà chính là Đường Hiểu Lan, Lý Trị, Bạch Thái Quan và Ngư Xác. Họ chậm một bước, đã bị bọn lính dưới hí đài chặn lại, Cáp Bố Đà múa cây trùy Lưu Tinh, Hàn Trọng Sơn rút cây tị vân trợ, trong lúc gấp gáp, bọn họ chẳng thể nào xông ra được.
Đường Hiểu Lan nóng lòng, lia cây Du Long kiếm một vòng, kêu một tiếng, ánh lửa tóe ra, cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn đã bị chặt mất một mảng. Hàn Trọng Sơn nói: “Hừ, té ra là ngươi, phản nghịch thật lớn gan!” tuy Đường Hiểu Lan có kiếm bén nhưng công lực lại không đủ, bị y đẩy lùi hai bước. Một tên lính phía sau múa hỗn nguyên thiết bài bổ xuống đầu chàng, chợt bị Lý Trị đâm xéo một kiếm, cái thiết bài vọt khỏi tay bay ra, đánh trúng một tên khác.
Lý Trị lại múa tiếp thanh kiếm, đâm thêm hai tên lính nữa. Cáp Bố Đà múa chùy nghênh địch, Lý Trị dùng đoản kiếm nên không áp sát vào được, bị hai cái chùy Lưu Tinh của y dồn ép nên không thể thi triển thân thủ.
Bạch Thái Quan thấy Cam Phụng Trì đã phóng lên Thưởng âm các rồi mất dạng, cũng không nghe thấy tiếng chém giết, lại không thấy bóng người nên càng lo hơn. Chàng phóng ra mai hoa trâm, tuy đả thương được vài người nhưng Thiên Diệp Tản Nhân đã đuổi tới, vận chưởng lực dồn ép chàng. Đang lúc căng thẳng tột độ, chợt nghe thấy một tiếng kêu, chỉ thấy từ Thưởng âm các có người nhảy ra như sao sẹt, ngã xuống dòng Ngự Hà.
Bạch Thái Quan kinh hoảng kêu: “Không xong, thất ca bị hại!” chỉ nghe trên lầu vang lên tiếng cười ha hả, Ung Chính lại bước ra, cao giọng quát: “Cam Phụng Trì hôm nay đã bị giết, trẫm mở lượng khoan thứ, những kẻ phản nghịch còn lại nếu bỏ binh khí đầu hàng có thể miễn tội”. Ngư Xác cả giận quát: “Ai tin lời ngươi!” rồi vung đao chém tới, chặt một tên lính thành hai đoạn, khi vung tiếp đao thứ hai thì đã bị Hàn Trọng Sơn vung trợ chặn lại.
Ung Chính cười ha hả, kêu lớn: “Giết chết bọn phản nghịch cho trẫm!” chỉ nghe một tiếng “lãnh chỉ” trong Thưởng âm các lại có một người phóng ra, tay múa cây phất trần từ trên không đánh xuống, phất trần vừa triển khai, lập tức đã cuộn cây đao của Ngư Xác kéo lên không trung, Đường Hiểu Lan thất kinh, vẫy nhẹ cây Du Long kiếm, sử dụng tuyệt chiêu Đại Mạc Lưu Sa trong Thiên Sơn kiếm pháp, chỉ thấy khắp người toàn là kiếm quang, Ngạch Âm Hòa Bố đã biết kiếm của chàng lợi hại không dám đánh tới mà lướt ra phía sau Bạch Thái Quan thi triển đòn sát thủ!
Bạch Thái Quan xoay bước lướt qua một bên, chợt trở tay phóng tới một nắm Mai Hoa châm, ánh ngân quang loang loáng, toàn bay vào mặt của Ngạch Âm Hòa Bố, nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần lên một vòng, chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, toàn bộ số mai hoa trâm đã bị y cuộn mất.
Lý Trị thấy thế không xong, vung kiếm đâm vào hai mắt của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần, nào ngờ kiếm của Lý Trị rõ ràng là đâm vào bên trái nhưng chợt xoay một vòng đâm sang bên phải, Ngạch Âm Hòa Bố khom người mới tránh được. Lý Trị vung kiếm đâm tiếp, Thiên Diệp Tản Nhân bất ngờ phóng ra đẩy hai chưởng như sấm sét, Lý Trị bất đồ thoái lui hai bước, Ngạch Âm Hòa Bố vươn người quét phất trần đánh vù một tiếng chụp xuống đầu chàng.
Đang lúc nguy cấp, chợt nghe một tiếng quát trong trẻo từ trên không vọng xuống, Thiên Diệp Tản Nhân kêu: “Thượng nhân cẩn thận, ả tiện tì lại tới!” nói chưa dứt lời, ở góc ngự hoa viên lại có mấy người nữa phóng ra, nhìn kỹ lại thì ra đó là ba thiếu nữ, quần áo của các nàng phấp phới tựa như thiên tiên. Ba người này chính là Lữ Tứ Nương, Phùng Anh và Phùng Lâm.
Ngạch Âm Hòa Bố kêu mộ tiếng không xong, chạy đến chặn lại, Đường Hiểu Lan đã kêu lớn: “Ung Chính đang ở Thưởng âm các”. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân phóng vọt lên, chỉ trong chớp mắt đã lao lên lan can lầu, nhảy vào trong các, nhưng chẳng thấy ai, nàng vừa vào bên trong đã đánh một chiêu Dạ Chiến Bát Phương, lập tức đảo người vọt trở ra, tên bay tới như mưa nhưng vẫn bị nàng chặt gãy cả.
Phùng Anh và Phùng Lâm đi sau một bước, vừa vặn chạm phải Ngạch Âm Hòa Bố, Phùng Anh lia cây đoản kiếm nhanh như điện chớp, một chiêu hai thức, vừa điểm vào mặt, vừa đâm vào ngực của y, Ngạch Âm Hòa Bố xoay người theo kiếm thế, cây phất trần đánh xéo ra, tay phất trần chụp tới, y ra tay đến mức khó hình dung. Phùng Anh không hề lo lắng, nàng chỉ lấy tĩnh chế động, chỉ hơi lách người, kiếm quang chợt tỏa ra, liên tục dùng hai chiêu Lưu Tinh Cản Nguyệt, Phi Vân Ma Điện, cây kiếm của nàng đâm xuyên qua màng lướt của phất trần, xỉa vào huyệt Kỳ Môn dưới hông của y, Ngạch Âm Hòa Bố không ngờ kiếm pháp của Phùng Anh lại tinh thông như thế, phất trần vừa thu, chưởng lực đã phát ra ngoài, chỉ thấy ánh ngân quang lướt tới kêu lên vù vù, Phùng Anh liên tục dùng kình lấy nhu chế cương, cắt đứt một đoạn phất trần của Ngạch Âm Hòa Bố nhưng cũng bị chưởng lực của y đánh lảo đảo.
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Anh múa kiếm đâm vào huyệt Mệnh Môn của Ngạch Âm Hòa Bố. Ngạch Âm Hòa Bố thấy thế thất kinh, vội vàng vận nội gia chân lực đánh ra một chưởng hoành giá kim lương, toan đánh vỡ xương cổ tay của Phùng Lâm, nào ngờ Phùng Anh vừa đứng vững thì đã quét kiếm tới, nội công của Phùng Anh cao hơn Phùng Lâm, trong tay nàng lại có thanh bảo kiếm, Ngạch Âm Hòa Bố không dám đánh liều, chỉ đành vận chưởng đánh ngược về phía Phùng Anh, nội công của y cao hơn Phùng Anh, Phùng Anh cũng không dám tiếp, chỉ lách người lướt bước nhảy qua một bên, Ngạch Âm Hòa Bố đã định đuổi theo, Phùng Lâm lại đâm vào huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy của y, Ngạch Âm Hòa Bố tức đến nỗi kêu lên oai oái, nhưng chẳng làm cách nào, chỉ đành thu phất trần rút chưởng phòng thủ huyệt đạo.
Lúc này Lữ Tứ Nương đã nhảy ra khỏi Thưởng âm các, thấy Ngạch Âm Hòa Bố đang giằng co với chị em họ Phùng, liền múa kiếm xông vào bọn lính, lớn giọng quát: “Chạy mau, Ung Chính đã thoát”. Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp...” Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca đã mất tích, hôm nay chúng ta coi như thất bại”. Ngư Xác lúc này đã cướp được một cây hoa thương, lao về phía trước nói: “Được, giết được tên nào hay tên ấy, chúng ta báo thù cho Cam đại hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca chưa chắc gặp bất trắc. Chúng ta phải xông ra trước”. Nàng vừa nói vừa lia kiếm, bọn lính áp sát với nàng đều bị gãy chân què tay, đầu rơi máu chảy!
Hàn Trọng Sơn cả giận nhảy lên đánh ra một chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh bổ xuống đầu Lữ Tứ Nương, nàng lia xéo thanh kiếm dẫn cây trợ của Hàn Trọng Sơn ra ngoài, rồi trầm cổ tay xuống, kiếm chiêu lại phát ra, Cáp Bố Đà kêu: “Không xong!” rồi vội vàng múa cây truỳ đánh tới, nào ngờ Lữ Tứ Nương nhanh đến khó hình dung, chùy của Cáp Bố Đà rõ ràng là đã bổ vào đầu nàng, không ngờ nàng lại lách qua, cổ tay trầm xuống, thanh kiếm lướt xéo lên kêu soạt một tiếng, chém đứt hai ngón tay của Hàn Trọng Sơn, cây tị vân trợ bay ra trúng vào một tên lính, tiện đứt đôi người y.
Lúc này công lực của Lữ Tứ Nương đã cao hơn Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn không biết tưởng rằng nàng cũng như trước, thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương dù kiếm pháp tinh diệu, nhưng công lực cũng kém mình”. Nào ngờ y tính sai, phòng thủ sơ hở cho nên vốn có thể đánh được năm mươi chiêu, nào ngờ trong vòng ba mươi chiêu đã bị thương. Cáp Bố Đà thấy Hàn Trọng Sơn bị thương cả kinh xoay người bỏ chạy. Thiên Diệp Tản Nhân không dám ham đánh, chỉ đành hiểm hộ Hàn Trọng Sơn lui xuống.
Bọn Cáp Bố Đà vừa lui, bọn lính cũng chẳng dám đuổi theo, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh lao ra, Ngạch Âm Hòa Bố một tay khó vỗ nên kêu, cũng không dám đuổi theo, vội vàng bảo bọn lính cứu chữa những kẻ bị thương còn mình thì vào cung gặp Ung Chính.
Lúc này Ung Chính đã nấp trong mật thất, số là y phòng bị cực kỳ cẩn thận, đã sớm bày binh bố trận ở Thưởng âm các, lại sắp đặt cơ quan, đào địa đạo thông vào cung, còn bảo bọn Ngạch Âm Hòa Bố mai phục ở đây. Cam Phụng Trì trong lúc nóng lòng đã đuổi vào Thưởng âm các, trúng ám toán còn Ung Chính thì chạy ra khỏi địa đạo.
Ngạch Âm Hòa Bố vào trong gặp Ung Chính, khấu đầu thỉnh tội. Ung Chính nói: “Ngươi cứu giá có công, có đáng tội gì? Trẫm chỉ hận tên tiểu súc sinh Dận Anh dám cho người đến ám toán trẫm”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Tiểu thân vương chưa chắc có ý này”. Ung Chính nói: “Dù y hữu ý hay vô ý, không thể không phạt. Giờ đây thái hậu vẫn còn đang hôn mê, ngươi hãy mau đi gọi tên tiểu súc sinh đến, nếu không thái hậu tỉnh dậy lại ngăn cản”. Ngạch Âm Hòa Bố kêu vâng một tiếng, đang định lui ra, Ung Chính lại nói: “Ngươi hãy cho người đến Ngự Hà tìm kiếm, xem thử Cam Phụng Trì đã chết hay chưa!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Y đã bị trúng tên, lại trúng một chưởng của nô tài, rơi xuống Ngự Hà dù không chết cũng không thể vận nội công, lúc này trời đang lạnh có lẽ y không chống chọi được”. Ung Chính nói: “Tuy nói thế nhưng thấy xác trẫm mới yên lòng”. Ngạch Âm Hòa Bố lại vâng một tiếng, nói: “Hoàng thượng còn có dặn dò gì không?” Ung Chính nghĩ ngợi rồi chợt nói: “Dù có tìm được xác của Cam Phụng Trì hay không, ngươi cũng phải cho người phao tin Cam Phụng Trì đã bị chúng ta bắt sống”.
Sau một đêm, sáng mai Ung Chính hạ lệnh tra xét ở chín cửu vào thành Bắc Kinh, đồng thời phòng bị nghiêm ngặt hơn, cuối cùng chẳng bắt được một kẻ phản nghịch nào. Ung Chính đang lấy làm lạ, đến chạng vạng tối chợt có một tên nội giám vào báo: “Hầu Tam Biến xin gặp Hoàng thượng”.
Ngạch Âm Hòa Bố đứng một bên, nghe nói y cầu kiến thì chưng hửng, Ung Chính nói: “Gọi y vào”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Chỉ e có gian trá”. Ung Chính cười nói: “Trẫm đang muốn tương kế tựu kế, sợ gì gian trá”. Rồi hỏi nội giám: “Y thế nào rồi?” tên nội giám báo: “Y tự trói tay, xin gặp nội đình tổng quản, bảo rằng có việc cơ mật muốn bẩm với Hoàng thượng. Y còn mang theo một người bịt mặt, nghe nói bí mật là ở người này. Tổng quản không dám làm chủ, xin Hoàng thượng ra lệnh”. Ung Chính cười ha hả nói: “Gọi tất cả vào đây”.
Một lúc sau nội giám dắt Hầu Tam Biến và người che mặt vào, Ung Chính gằng giọng quát: “Hầu Tam Biến, ngươi còn có gan đến gặp ta sao?” Hầu Tam Biến dập đầu nói: “Nô tài đã biết lỗi, xin lấy công chuộc tội”. Ung Chính ừ một tiếng rồi nói: “Hay lắm! Trẫm xưa nay rộng lượng, nếu ngươi đã hối hận, trẫm sẽ cho ngươi một con đường sáng, nói đi!” Hầu Tam Biến nói: “Xin Hoàng thượng cho tả hữu lui ra”. Ung Chính cười lớn nói: “Ngươi tưởng ta là con nít ba tuổi sao?” Hầu Tam Biến nói: “Nếu Hoàng thượng nghi ngờ, xin hãy đâm thủng xương tỳ bà của nô tài”. Ung Chính nói: “Ngươi đã mau mắn như thế, ta cũng không cần đâm thủng xương tỳ bà của ngươi để ngươi khỏi tàn phế. Ngạch Âm Hòa Bố, hãy phế võ công của hai người này!” Ngạch Âm Hòa Bố vâng một tiếng, lấy ra một cây kim dài khoảng một thước, ánh ngân quang loang loáng, y chẳng nói chẳng rằng đâm lên người Hầu Tam Biến và người che mặt ba mũi châm, rồi lập tức bóp vào lưng của mỗi người một cái, Hầu Tam Biến loạng choạng suýt nữa ngã xuống, người che mặt cũng lảo đảo, trên trán hai người đều toát mồ hôi, Ung Chính mỉm cười nói: “Được, giờ đây các ngươi tuy tạm thời chịu khổ, nhưng miễn khỏi tàn phế, từ rày về sau các người sẽ sống yên phận. Các người thấy trẫm có rộng lượng hay không?” Hầu Tam Biến khấu đầu nói: “Nô tài tạ ơn”. Ung Chính phẩy tay nói: “Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi hãy ra ngoài”.
Ngạch Âm Hòa Bố lẳng lặng lui ra. Té ra Ngạch Âm Hòa Bố có một loại võ công độc môn có thể dùng ngân châm đâm vào huyệt qua lớp áo, khiến chân khí của kẻ địch phát tiết, dù võ công cao đến mức nào cũng không còn. Lúc trước Ngạch Âm Hòa Bố đã từng đâm Phùng Anh nhưng vì nàng mặc cái áo giáp nên không có hiệu quả, bởi vậy lần này đâm huyệt xong lại bóp vào lưng của hai người xem thử họ có còn võ công hay không.
Ung Chính đợi Ngạch Âm Hòa Bố ra khỏi mật thất, lập tức nói: “Ngươi có chuyện cơ mật gì nói cho trẫm nghe”. Hầu Tam Biến nói: “Cơ mật là ở người này”. Rồi đưa tay rồi kéo khăn bịt mặt của người bên cạnh, nói: “Hoàng thượng có còn nhận ra người này không?” Ung Chính mỉm cười nói: “Ta tưởng là ai, té ra là Đường Hiểu Lan, Đường hiệp sĩ, chúng ta là bằng hữu!” Hầu Tam Biến nói: “Hoàng thượng có biết lai lịch của Đường Hiểu Lan không?” Ung Chính lại mỉm cười nói: “Tại sao không biết? Nói ra chúng ta không chỉ là bằng hữu mà còn là huynh đệ ruột thịt! Ngươi đã biết lai lịch của mình, vậy nên ở trong cung hưởng phước, đừng theo bọn người Hán làm càn nữa”. Đường Hiểu Lan và Hầu Tam Biến đều chưng hửng, trong nhất thời nói không ra lời.
Số là Khang Hy chết đi, Ung Chính lục tìm các bí mật của ông ta, phát hiện trong nhật ký có một đoạn nói về Đường Hiểu Lan, lại còn bảo chàng là người có nhân phẩm tốt nhất trong mười mấy người con.
Đường Hiểu Lan nghiến răng, lớn giọng mắng: “Hầu lão tặc, ta bị ngươi lừa bắt vào cung, ta hận không ăn tươi nuốt sống ngươi!” Ung Chính mỉm cười nói: “Ngươi đúng là cổng rắn cắn gà nhà, bọn người Hán làm càng ở đâu? Trẫm sẽ lập tức nhận ngươi làm hoàng đệ, phong ngươi làm thân vương”. Đường Hiểu Lan im lặng, Ung Chính lại nói: “Trong thiên hạ có ai dám chống lại lệnh trẫm? Ngươi có biết kết quả của Dận Đường và Dận Nga không? Bọn họ chạy ra khỏi cung, bị trẫm bắt về, lúc này xương cốt đã hóa thành tro bụi, ngươi có muốn giống như bọn chúng không?” rồi lớn giọng kêu: “Ngạch Âm Hòa Bố!” sau đó lại mềm mỏng mỉm cười: “Ngươi muốn trở thành thân vương hay muốn xương cốt tiêu tan, cứ chọn đi!”
Đường Hiểu Lan cúi đầu có vẻ như đang suy nghĩ, rất lâu sau mới ngẩng đầu nói: “Được, ta nói, ở đây có một danh sách, ta đưa cho ngươi”. Ung Chính bước tới mấy bước, đưa tay nói: “Đưa đây!” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đường Hiểu Lan chợt vung tay chụp lấy cổ tay của Ung Chính, Ung Chính cũng rất lợi hại, chân phải giở lên thi triển liên hoàn vô ảnh cước của phái Thiếu Lâm đá vào hông chàng, nếu bị đá trúng, Đường Hiểu Lan không chết cũng bị thương. Khi Đường Hiểu Lan ra tay, Hầu Tam Biến cũng nhảy lên, cú đá này trúng ngay vào đầu, lập tức bể đầu mất mạng. Nhưng Ung Chính đã bị Hầu Tam Biến cản lại, Đường Hiểu Lan lập tức vung tay điểm trúng huyệt đạo của y. Ung Chính vừa giở chân trái lên đã mềm nhũn.
Té ra Hầu Tam Biến và Đường Hiểu Lan sử dụng khổ nhục kế. Sau khi đại náo đại hoa viên, Hầu Tam Biến âm thầm điều tra, nghe được lời đồn, tưởng rằng Cam Phụng Trì đã bị bắt. Mọi người bàn bạc tìm cách cứu chàng, cho nên Hầu Tam Biến đã nghĩ ra kế khổ nhục mạo hiểm vào cung chuẩn bị bắt Hoàng đế.
Trên mình Đường Hiểu Lan mặc áo giáp tơ vàng mượn của Phùng Anh, sau khi bị Ngạch Âm Hòa Bố đâm kim vào, lập tức vận dụng nội công thượng thừa rút kình lực lại, làm cho mồ hôi tuôn ra, Ngạch Âm Hòa Bố và Ung Chính đã bị chàng qua mặt, còn Hầu Tam Biến thì đã mất võ công thực sự, liều chết chặn một cước cho Đường Hiểu Lan.
Hai bên động thủ nhanh như điện chớp, khi Ngạch Âm Hòa Bố xông vào, Ung Chính đã bị Đường Hiểu Lan chế phục chẳng thể động đậy nỗi. Ngạch Âm Hòa Bố kinh hãi, chỉ thấy kiếm của Đường Hiểu Lan đã kề vào cổ Ung Chính, y sợ ném chuột bể đồ nên không dám tiến tới trước.
Trái lại Ung Chính rất chấn tĩnh, chợt cười ha hả nói: “Hiểu Lan, ngươi giỏi lắm! Ta đã sớm đoán được các ngươi sẽ sử dụng kế khổ nhục, nhưng không ngờ ngươi có mang theo bảo vật phòng thân. Ta đã thua, các người muốn gì cứ nói ra!”
Đường Hiểu Lan lớn giọng nói: “Hãy thả Cam đại hiệp ra!” Ung Chính nói: “Được, mạng trẫm đổi mạng của Cam Phụng Trì cũng đáng lắm. Ngạch Âm Hòa Bố, hãy trả Cam Phụng Trì cho bọn chúng”. Ngạch Âm Hòa Bố vâng lệnh lui ra, quả nhiên một lát sau dắt theo một người, đầu bịt khăn xanh chỉ để lộ ra nửa mặt, Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Cam Phụng Trì bị thương trên đầu, vốn là phải nghỉ ngơi. Nếu y có gì bất trắc, chớ trách ta không nói trước”.
Đường Hiểu Lan nheo mắt nhìn, dưới ánh đèn vàng vọt, chỉ thấy người này thân hình cao ngũ đoản, tuy bị thương nhưng hai mắt rất có thần, quả nhiên đó là Cam Phụng Trì. Đường Hiểu Lan gọi: “Cam đại ca”. Người ấy trả lời: “Đường hiền đệ”, giọng nói nghe rất nhỏ, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Y đã bị trọng thương, lại uống nhiều nước lạnh, chả trách nào tiều tụy như thế”. Đang định bước đến xem thử vết thương của Cam Phụng Trì, lại sợ Ung Chính bỏ chạy, nói: “Ngươi phải đưa bọn ta ra khỏi cung từ Thần Võ môn. Bọn ta ra khỏi cửa sẽ lập tức thả ngươi”. Ung Chính nói: “Nhưng bọn chúng có chịu hay không? Ngoài Thần Võ môn chắc còn nhiều đồng bọn của ngươi. Bọn chúng đang muốn ăn tươi nuốt sống trẫm, ngươi có thể quyết định được sao?” Đường Hiểu Lan tức giận nói: “Bọn ta không giống ngươi, chỉ làm chuyện lừa bịp. Quân tử nhất ngôn...” Ung Chính tiếp lời cười nói: “Xe bốn ngựa khó đuổi. Được, trẫm đã từng đi lại trên giang hồ, chúng ta cứ làm theo quy củ trên giang hồ”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi bảo một tên nội giám đỡ Cam đại hiệp đi trước, bọn Ngạch Âm Hòa Bố không được đi bên cạnh”. Ung Chính cười nói: “Ngươi đúng là đa nghi”. Rồi nháy mắt bảo: “Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi hãy ra ngoài đi”. Đường Hiểu Lan lại nói: “Các người không làm được làm càng, nếu ngươi bảo Ngạch Âm Hòa Bố ra Thần Võ môn tra xét, làm hại người của bọn ta, đừng trách ta vô tình”. Ung Chính vẫn ung dung cười lạnh: “Có thực không? Trẫm đã bị ngươi kiềm chế, lẽ ra ngươi không nên đa nghi như thế”.
Nội giám đưa người ấy đi ở phía trước, Đường Hiểu Lan dùng kiếm kề lên cổ Ung Chính, từ nội viện đi đến Thần Võ môn, được nửa canh giờ quả nhiên chẳng thấy ai tra xét.
Trên đường đi Cam Phụng Trì cũng quay đầu lại nhìn mấy lần, trong mắt đầy vẻ cảm kích, ra đến Thần Võ môn, Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp, huynh có thể đi được hay không?” Cam Phụng Trì vung tay tóm tên nội giám ném qua một bên, Đường Hiểu Lan mừng rỡ nói: “Cam đại hiệp bị trọng thương mà võ công vẫn còn”. Thần Võ môn chậm rãi mở ra, Đường Hiểu Lan nói: “Đại hiệp đến đây vịn một bên vai của tôi, Lữ tỉ tỉ đang ở trên Cảnh Sơn, chúng ta ra khỏi cửa này, tỉ ấy sẽ ra tiếp ứng”. Ung Chính nói: “Các người chưa chịu thả trẫm sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Ra khỏi đây rồi tính tiếp”. Cam Phụng Trì xoay người, bước đến gần Đường Hiểu Lan, hai tay vịn vai chàng, Đường Hiểu Lan thấy trong lòng chua xót, nghiêng người cho Cam Phụng Trì dựa vào, đang định lên tiếng an ủi, chợt thấy vai đau nhói, cổ tay cầm kiếm đã bị Cam Phụng Trì giật ra, Đường Hiểu Lan kinh hãi kêu: “Cam đại hiệp, huynh làm gì thế?” chỉ nghe người ấy quát: “Ai là đại ca của ngươi!” rồi một tay bóp vai, một tay bẻ cổ tay của Đường Hiểu Lan, Ung Chính cười ha hả vọt người ra, khi người ấy áp sát vào đã dùng cùi chỏ giải huyệt đạo cho y.
Người ấy đâu phải là Cam Phụng Trì mà chính là một tên thị vệ trong cung, vì thân hình thấp bé như Cam Phụng Trì cho nên Ung Chính mới bảo y giả dạng chờ sẵn, vì Đường Hiểu Lan không quan sát kỹ càng nên bị y lừa.
May mà tên thị vệ này không phải là ca bu mà là nhất lưu, Đường Hiểu Lan tuy bị y bóp trúng vai nhưng vẫn có thể vùng vẫy được.
Ung Chính thoát thân, kêu lớn: “Mau đóng cửa thành!” bọn Ngạch Âm Hòa Bố, Hàn Trọng Sơn, Cáp Bố Đà từ trong xó tối nhảy ra, té ra bọn chúng đã mai phục sẵn từ lâu.
Đường Hiểu Lan ôm người ấy lộn xuống đất, rồi vùng ra vung kiếm chém đứt người ấy thành hai đoạn, chỉ thấy Cáp Bố Đà vung Lưu Tinh chùy đánh tới, cánh cửa sắt của Thần Võ môn đã dần dần đóng lại.
Đường Hiểu Lan liều mình vung kiếm lao tới, chợt nghe ối chao một tiếng, người đóng cửa thành tựa như bị trúng ám khí ngã xuống, Ngạch Âm Hòa Bố và Hàn Trọng Sơn vội vàng nhảy lên tường thành, chỉ nghe một tiếng huýt sáo lanh lảnh, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh cùng Phùng Lâm từ bên ngoài nhảy vào, Quan Đông tứ hiệp cũng xông vào. Ngạch Âm Hòa Bố vung phất trần chặn kiếm của Lữ Tứ Nương, quát: “Mau đóng cửa thành!” Hàn Trọng Sơn tay trái cầm tị vân trợ phòng thân, tay phải đè vào cái then bằng sắt, Quan Đông tứ hiệp đã xông vào trong, Phùng Anh và Phùng Lâm cũng nhảy đến bên cạnh Đường Hiểu Lan.
Trên thành tên bắn xuống rào rào, binh lính mai phục trong vườn cũng ùa ra, không những tên bắn mà còn có cả ống phun lửa của bọn Lạt ma Hồng giáo.
Mọi người vừa phải tránh tên vừa phải tránh ống phun lửa nên tình thế rất nguy hiểm. Phùng Anh hỏi: “Huynh chạy ra được không?” Đường Hiểu Lan lắc đầu. Lúc này cái then sắt đã rơi xuống, trên đầu tường lại có vô số cung tiễn thủ và câu liêm thủ, trong số Quan Đông tứ hiệp, ngoại trừ Huyền Phong đại nhân và Liễu Tiên Khai, khinh công hai người còn lại kém hơn, e rằng không thể thoát ra được.
Lữ Tứ Nương vung kiếm múa tiếp, đánh Ngạch Âm Hòa Bố khiến y chỉ có nước chống đỡ, Phùng Lâm vung tay, ba mũi độc mệnh thần đao bay về phía Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn thấy phi đao bay tới đành lách người qua. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Trần Nguyên Bá nhảy vào cửa thành, hai tay từ từ nâng cánh cửa lên. Huyền Phong cùng bọn Phùng Anh và Lang Nguyệt đánh lui bọn thị vệ bên cạnh, nhất tề xông ra. Phùng Lâm không ngừng phóng phi đao khiến Hàn Trọng Sơn không thể cài cái then sắt lại.
Nhưng Phùng Lâm chỉ mang theo hai mươi bốn mũi phi đao, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh chạy cuối cùng, đến bên cửa phi đao của Phùng Lâm đã hết. Hàn Trọng Sơn cười hềnh hệch, vung tay kêu vù một cái, hai cái hồi hoàn đao đồng thời bắn ra bay về phía Phùng Anh và Đường Hiểu Lan, hai người Đường Phùng phải lách người, trong khoảng sát na này, Hàn Trọng Sơn đè cái then sắt xuống, Trần Nguyên Bá trán nổi gân xanh, kêu lớn: “Chạy mau!” Phùng Anh và Đường Hiểu Lan vung hai kiếm lên, cái hồi hoàn câu không bay ra được, lập tức bị chặt thành bốn đoạn. Cả hai người phóng vọt lên, lướt qua bên cạnh Trần Nguyên Bá, chỉ nghe a một tiếng, hai tiếng kêu thảm vang lên, Đường Hiểu Lan quay lại nhìn chỉ thấy Lữ Tứ Nương xách một cái đầu người, chạy theo phía sau kêu: “Chạy mau!” chính là:
Đại nội phi đầu khó giải hận, nhạn bay dãy tránh đau lòng hơn.
Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.
Ngạch Âm Hòa Bố chợt nổi giận, bỗng nghe tiếng chuông leng keng bên ngoài vọng vào, tiếp theo là mấy tiếng kêu thảm, Phùng Anh cả mừng: “Võ lão tiền bối đã đến!” Ngạch Âm Hòa Bố cả giận nhảy vọt ra cửa chùa, dưới ánh trăng chỉ thấy một lang trung giang hồ tay phải cầm một cây gậy, tay trái lắc cái chuông đồng bước thẳng về phía mình, bọn lính canh ở ngoài đều bị người ấy đánh ngã.
Ngạch Âm Hòa Bố trừng mắt quát: “Ai? Đứng lại!” té ra người đó là Võ Thành Hóa, chỉ thấy ông ta cười lạnh nói: “Phách lối thật! Ngươi muốn hỏi ta là ai? Ta là sứ giả chiêu hồn cho ngươi!” rồi lắc cái chuông kêu lên leng keng. Ngạch Âm Hòa Bố cả giận đẩy vù ra một chưởng, Võ Thành Hóa không hề nhúc nhích, cười ha hả giơ cây gậy đánh tới, Ngạch Âm Hòa Bố quét cây phất trần cuộn trúng cây gậy của ông ta nhưng vẫn bị ông ta đẩy lui hai bước. Ngạch Âm Hòa Bố cả kinh, ngầm vận nội lực kéo sang một bên; Võ Thành Hóa cũng thất kinh, tuy cây gậy không vụt ra khỏi tay nhưng ông ta cũng không thể đánh tới được. Hai người đều ngầm vận nội lực hạ nhau.
Phùng Anh lướt tới, kêu: “Võ tiền bối, người đến thật đúng lúc!” Võ Thành Hóa nói: “Có phải tên này cậy người đông bức hiếp ngươi không?” Phùng Anh cười nói: “Y làm gì có bản lĩnh ấy!” rồi quay mặt sang nhìn Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Ngươi có muốn đấu nữa không?” Ngạch Âm Hòa Bố thâu cây phất trần, nhảy vọt qua hai bước, nói: “Được, chúng ta dừng tay, sau này gặp lại ta sẽ không tha cho ngươi”. Phùng Anh cười nói: “Vậy chờ sau này hẳn tính”. Võ Thành Hóa quét mắt nhìn Ngạch Âm Hòa Bố rồi nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Đáng tiếc thế này!” Võ Thành Hóa nói: “Chả lẽ ngươi không biết kết cuộc của Liễu Ân?” Ngạch Âm Hòa Bố nghe thế giật mình, giơ cao cây phất trần, Võ Thành Hóa nói: “Có phải còn muốn đánh với ta không?” Ngạch Âm Hòa Bố chẳng nói lời nào, quay mình dắt bọn lính đi nhanh xuống núi. Dận Đường bị vặn gãy xương cổ tay, đau đến nỗi ngất đi, cũng được bọn lính cõng xuống núi.
Võ Thành Hóa cười nói: “Ta nghe nói các người lại xuống Thiên Sơn, biết thể nào cũng đến tìm Lữ Tứ Nương nhưng không ngờ gặp ở đây. Sư phụ của ngươi khỏe không?” Phùng Anh nói: “Chúng ta khoan nói chuyện này, xem thử Đường Kim Phong đã thế nào!” Võ Thành Hóa nói: “Đường Kim Phong là ai?” Phùng Anh nói: “Là một tiền bối võ lâm, ám khí thiên hạ vô song”. Võ Thành Hóa nói: “Ồ, thế là người của Đường gia tứ xuyên rồi, làm sao các ngươi quen y?”
Họ vừa đi vào trong miếu, chỉ thấy Đường Kim Phong vẫn ngồi xếp bằng, sắc mặt tái nhợt. Đường Trại Hoa bế Niên Thọ, mặt đầy vẻ lo lắng, khẽ hỏi: “Cha, thế nào rồi?” Đường Kim Phong mỉm cười nói: “May mà vẫn còn giữ được mạng của đứa trẻ. Ta không xong rồi. Con hãy bế nó về. Ta nhận nó làm cháu ngoại”. Đường Trại Hoa rơi nước mắt như mưa, nói: “Cha, có phải cha đã bị thương rất nặng không? Chúng ta mang theo toàn là thuốc tốt”. Đường Kim Phong cười khổ nói: “Thuốc tốt chẳng ích gì, ta bị chưởng lực của tên ấy chấn động, lại khổ chiến một hồi, sức cùng lực kiệt, tựa như đèn khô dầu cạn, làm sao có thuốc nào chữa nỗi!” Phùng Anh chợt nói: “Thuốc của tôi có thể cứu nỗi”. Đường Trại Hoa cả mừng, không màng đến thù hận trước kia, vội nói: “Vậy xin cô nương hãy mau cứu!” Đường Kim Phong có vẻ không tin, hỏi: “Thuốc gì?” Phùng Anh lấy ra một cái bình bạc nhỏ xíu, đổ ra ba viên thuốc màu xanh lục, lập tức hương thơm xông vào mũi, tinh thần sảng khoái, Phùng Anh đưa viên thuốc cho Đường Kim Phong nói: “Đây là Bích linh đơn được bào chế từ Thiên Sơn tuyết liên, bổ khí ích huyết, trị thương giải độc đều có hiệu quả. Lão tiền bối có căn cơ vững chắc, được nó cố bản bùi nguyên, không những chẳng lo đến tính mạng mà võ công cũng không đến nỗi giảm sút”.
Đường Kim Phong nuốt ba viên Bích linh đơn, chỉ cảm thấy một luồng khí mát mẻ dâng lên đang điền, cười rằng: “Thiên Sơn tuyết liên quả nhiên danh đồn không oa, đúng là linh đơn diệu dược”. Niên Thọ mở mắt nhìn Đường Kim Phong, Phùng Anh nói: “Cậu bé, ngươi đã thoát chết, ngươi biết có nên đáp tạ ai không?” Niên Thọ rất ngoan ngoãn, bước tới quỳ xuống đất, dập đầu ba cái truớc Đường Trại Hoa, kêu một tiếng “mẹ”. Đường Trại Hoa mừng rỡ nói: “Con ngoan, con ngoan”. Niên Thọ lại dập đầu trước Đường Kim Phong ba cái kêu: “Công công”. Đường Trại Hoa cười nói: “Phải kêu là ngoại công”. Đường Kim Phong cười ôm cậu bé vào lòng.
Đường Hiểu Lan nói: “Đứa bé này rất thông minh, giống như cha nó”. Phùng Anh nói: “Cũng mong nó không hoàn toàn giống cha”. Võ Thành Hóa nhìn sắc trời, thấy đã hơi hửng sáng, cười nói: “Chúng tôi phải đi trước một bước, ông cứ ngồi đã tọa một lúc, khí lực sẽ hồi phục ngay, xin thứ chúng tôi không thể đi cùng”. Đường Trại Hoa nói lời tạ ơn với Phùng Anh, giờ đây mối thù hận giữa cha con họ Đường với chị em họ Phùng đã tiêu biến.
Võ Thành Hóa và hai người Phùng Đường xuống Tung Sơn, Võ Thành Hóa nói: “Có phải các ngươi lên Mang Sơn không?” Phùng Anh nói: “Đúng thế. Mẹ của vãn bối đang ở Mang Sơn, người có biết không?” Võ Thành Hóa cười nói: “Mẹ của ngươi đã không còn ở Mang Sơn nữa. Ngươi có muốn gặp bà ta không?” Phùng Anh kinh hãi hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?” Võ Thành Hóa cười nói: “Vốn là xảy ra chuyện nhưng giờ không hề gì nữa. Tên tiểu tử Ung Chính này thật độc ác, sau khi tước binh quyền của Niên Canh Nghiêu, lùng bắt các chí sĩ càng nghiêm ngặt hơn, y biết ở Mang Sơn có anh hùng hào kiệt tụ hội liền phái đại quân bao vây, may mà Lữ Tứ Nương biết được tin này đã đưa mọi người đến Thiên Sơn”. Đường Hiểu Lan nói: “Sắp xếp rất tốt, nửa đời họ gặp hoạn nạn, cũng nên an hưởng tuổi già. Võ tiền bối, ông gặp Lữ Tứ Nương ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Ở gần kinh thành. Lữ Tứ Nương muốn vào kinh ám sát Ung Chính nhưng trong cung canh gác nghiêm ngặt, chẳng có cơ hội ra tay. Ta vốn muốn đi tìm Lý Trị, gặp Lữ Tứ Nương mới biết họ đã đi Tứ Xuyên”. Phùng Anh nói: “Vậy mẹ của vãn bối lúc này ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Họ chia nhau lên đường, ta đi trước dò đường, đêm qua đi ngang qua Tung Sơn, họ đang ở một nơi dưới chân núi”. Phùng Anh cả mừng, lập tức cùng Đường Hiểu Lan đến gặp mẹ.
Lại nói Lý Trị và bọn Quan Đông tứ hiệp đi được hơn một tháng đến Mang Sơn, nhưng thấy trên núi là một đống đổ nát hoang tàn, ai nấy đều trợn mắt há mồm, tưởng rằng Mang Sơn cũng bị hỏa thiêu như chùa Thiếu Lâm, Phùng Lâm và Lý Trị càng lo hơn, chợt nghe trong đám cây xum xuê um tùm chim chóc bay lên, trong chớp mắt nghe tiếng vù vù, chỉ thấy hai con chim đại bàng một trắng một đen dang cánh chao lượn trên đầu họ, Huyền Phong kêu: “Đây là hai con chim đại bàng của Độc tý thần ni, không ngờ đến nay vẫn còn sống”. Hai con chim đại bàng lượn một hồi rồi bay xuống núi. Mọi người chạy theo hướng chim bay, đi qua nơi góc hẹp, chợt thấy rộng rãi, trước mắt toàn là hoa dại, trên núi đối diện có dòng thác buông xuống, Huyền Phong nói: “Từ nơi này đi tiếp chính là mộ địa của Độc tý thần ni. Chắc là nơi này thấy núi hiểm yếu, bọn quan quân không thấy ai vả lại chẳng thấy nhà cửa nên không phóng hỏa”. Khi đang nói chợt nghe một tràng cười dài, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đã xuất hiện, cười rằng: “Tôi tưởng là ai, té ra là các vị”. Đường Hiểu Lan cũng bước ra gặp gỡ mọi người, ai nấy đều mừng rỡ.
Lữ Tứ Nương nói: “Tháng trước Mang Sơn đã bị hỏa thiêu, bọn quan quân thấy trên núi không có ai, sau khi phóng hỏa đã bỏ đi. Lăng mộ sư phụ tôi vẫn nguyên vẹn, đúng là may mắn. Tôi liệu rằng Phùng Anh sẽ trở về nên một mình lên Mang Sơn đợi mọi người, không ngờ Hiểu Lan và Phùng Anh đến trước”.
Mọi người trò chuyện một hồi, Huyền Phong hỏi: “Nữ hiệp vừa từ kinh thành trở về, chắc có tin tức gì?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Tin tức thì có nhưng chắc là mọi người đã đoán ra”. Huyền Phong nói: “Có phải Niên Canh Nghiêu bị xử tử không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế. Sau khi Niên Canh Nghiêu bị áp giải về kinh, tấu chương vạch tội của tướng quân thành Hàng Châu Lục Hổ Thần cũng được dâng lên, đúng là dậu đỗ bìm leo, các đại thần trong triều đều dâng sớ hạch tội Niên Canh Nghiêu, tính ra y có chín mươi hai tội!” Phùng Lâm lè lưỡi kêu: “Ồ, nhiều đến thế ư!” Lữ Tứ Nương nói: “Ung Chính đích thân ra chỉ dụ, bảo rằng y có năm tội đại nghịch, chín tội khi quân, mười sáu tội lạm quyền, ba mươi tội cuồng vọng, sáu tội ngang ngược, mười tám tội tham ô, sáu tội đố kỵ, mười lăm tội đục khoét, bốn tội tàn nhẫn, vì thế Ung Chính đã ra lệnh xử trảm Niên Canh Nghiêu”.
Sau khi giết Niên Canh Nghiêu, Ung Chính sợ có thích khách hành thích, không những cho canh phòng nghiêm ngặt hơn mà còn cấm ngặt cả những hoạt động trong cung, hàng đêm phải thay đổi chỗ ngủ, lúc nào cũng lo lắng đề phòng.
Nhưng là một Hoàng đế như thế thật đau khổ. Hơn nửa năm sau, Ung Chính thấy yên bình chẳng có việc gì nên định cấm thả lỏng, thời gian qua mau, đông đi thu đến, đã đến ngày tết, trong chớp mắt lại đến tết nguyên tiêu, mẹ ruột của Ung Chính vốn là một phi tử của Khang Hy, nay đã là thái hậu. Nửa năm qua ngồi bó gối trong cung, rất khó chịu, nhân lúc nguyên tiêu sắp đến lại liền bỏ Ung Chính bỏ lệnh cấm. Ngoài các nhạc sư cung đình, có thể gọi thêm cao thủ giáp vườn bên ngoài vào diễn, lại còn cho phép các bối lạc thân cận đến góp vui. Ung Chính nghĩ, những người có thể đối chọi với mình đều đã bị trừ, những kẻ còn lại không dám hai lòng, thế là bỏ lệnh cấm. Tin tức này rất bí mật, đến trước đêm nguyên tiêu mới báo cho các bối lạc biết. Điều đó khiến một người mừng hơn.
Người này chính là thân vương Dận Anh, con thứ mười sáu của Khang Hy. Y là huynh đệ cùng cha cùng mẹ với Ung Chính, trong số các bối lạc, tuổi tác nhỏ nhất, cho nên khi Khang Hy còn sống, y không tranh giành ngôi báu cho nên giữ được mạng.
Dận Anh trẻ tuổi thích chơi bời, cũng thích luyện võ, một tháng trước, có người tiến cử một võ sư cho y, người võ sư này thân hình bình thường, mặt mũi không có gì lạ, Dận Anh không tin y có bản lĩnh, nhất thời nổi hứng tỉ thí với y, quyền cước vừa mới chạm vào người y đã bị y quật ngã. Người ấy tự xưng là Đường Long, không những tinh thông võ công mà còn giỏi các tạp nghệ, Dận Anh rất thích, giữ luôn y trong phủ. Ung Chính bỏ lệnh cấm, Dận Anh hỏi Đường Long có trò gì hay không, Đường Long đáp: “Có, có!” rồi lập tức trổ tài. Dận Anh thích lắm, Đường Long lại bảo phải mời thêm vài trợ thủ, Dận Anh cũng chấp nhận.
Trong đêm nguyên tiêu, cấm thành treo đèn kết hoa, cực kỳ náo nhiệt, trong ngự hoa viên đã dựng hí đài, các hoàng thân quốc thích ngồi xung quanh, bên hí đài còn bắt một khán đài, Ung Chính và các phi tần cùng thái hậu ngồi trên đài thưởng thức.
Thái hậu rất thích các loại tạp kỹ, hễ thấy trò nào hay là thưởng tiền, đến khi đám người của Dận Anh lên đài, thái hậu càng vui hơn, cười nói với Ung Chính: “Tiểu đệ của con xưa nay thích bày trò, xem thử hắn có gì hay?”
Chỉ thấy đám người ăn mặc lòe loẹt lên đài, thái hậu hỏi: “Diễn tuồng gì mà ăn mặc kỳ quặc đến thế?” Dận Anh trả lời: “Không phải diễn tuồng mà là tạp kỹ”. Ung Chính giật mình, nhưng thấy hai người đứng trên đài, kéo tay so vai, một người nhảy lên, hai chân đạp lên hai vai của hai người này, một người nữa lại nhảy lên vai của người lúc nãy, Ung Chính nói: “Công phu của bọn người này thật giỏi...” nói chưa dứt lời, chỉ thấy một hán tử người thấp bé cuối cùng nhảy vọt lên, trên đầu đặt một cái bát nước, hai tay cũng cầm hai cái bát nước, y hơi nghiêng người, nước trong ba cái bát sánh ra ngoài, chứng minh trong bát chứa đầy nước. Chỉ thấy y vung hai tay, hai cái bát nước bay lên không trung, lại ném vù ra hai sợi dây màu cuộn lấy bát nước trên không trung, không những bát nước trên đỉnh đầu chẳng rơi ra giọt nào mà cả hai bát nước trên không trung cũng hạ xuống đất không vãi ra một giọt nước.
Trong tiếng reo hò, người ấy lại múa sợi dây, hai bát nước bay lượn, càng lúc càng nhanh, thái hậu cao giọng khen hay, người ấy buông tay. Bát nước quay hai vòng trên đỉnh đầu của y, y lại đưa tay chụp đoạn giữa của sợi dây màu, vừa múa sợi dây vừa xoay bát nước, thái hậu khen liền miệng. Ung Chính ngưng thần nhìn kỹ, không hề reo hò, chợt hỏi Dận Anh: “Những người này vốn là trong phủ của đệ phải không?” Dận Anh đang ngưng thần xem, không kịp trả lời, chỉ thấy sợi dây chợt chuyển hướng trên không trung, xếp thành bốn chữ “Thiên hạ thái bình”, thái hậu mừng rỡ nói: “Đúng là thần kỹ, thưởng tiền!” thái giám liền vãi hai nắm bạc trên sân khấu, Ung Chính chợt kêu lên: “Bắt những kẻ này xuống tra hỏi!”
Bạc bay như mưa lên hí đài, người xem bên dưới lại reo hò ỏm tỏi, tiếng hét của Ung Chính khiến mọi người đều thất kinh, tiếng reo hò ngừng lại, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy hán tử người thấp bé vung sợi dây kêu vù một tiếng, hai luồng bạch quang bay tới như điện xẹt lướt vào mặt Ung Chính. Té ra trong sợi dây màu có giấu hai mũi trủy thủ.
Ung Chính đã đề phòng trước, sau khi quát một tiếng thì người đã lách vào trong đám phi tần, hai mũi trủy thủ đâm vào xương vai của hai ả phi tần, đột nhiên tiếng kêu kinh hãi vang lên, hoàng thái hậu bất tỉnh, các phi tần phát hoảng dồn vào nhau. Trong khoảng sát na này, hán tử lại vọt người lên, lao bổ lên khán đài như một con chim, ba bát nước đều tạt vào người Ung Chính, Ung Chính chẳng mở mắt ra nỗi, chỉ thấy một luồng hàn phong quét tới, khí lạnh căm căm, một thanh đoản kiếm bén ngót đã chạm vào lưng.
Nhưng trái lại Ung Chính rất lanh lẹ, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, y co hai tay kéo hai ả phi tần đẩy ra sau lưng mình, hán tử rút tay không kịp, thấy hai người phụ nữ yếu ớt đổ máu, vừa kinh vừa giận, quát lớn một tiếng rút kiếm lao bổ tới, Ung Chính đã phóng người lên lan can lầu.
Hán tử chính là Cam Phụng Trì. Chàng lẫn vào trong phủ Dận Trinh, khó khăn lắm mới chờ được cơ hội, nào có thể bỏ qua, biết rõ cực kỳ nguy hiểm nhưng cũng đuổi theo không rời.
Bốn người đi cùng Cam Phụng Trì chẳng phải ai khác mà chính là Đường Hiểu Lan, Lý Trị, Bạch Thái Quan và Ngư Xác. Họ chậm một bước, đã bị bọn lính dưới hí đài chặn lại, Cáp Bố Đà múa cây trùy Lưu Tinh, Hàn Trọng Sơn rút cây tị vân trợ, trong lúc gấp gáp, bọn họ chẳng thể nào xông ra được.
Đường Hiểu Lan nóng lòng, lia cây Du Long kiếm một vòng, kêu một tiếng, ánh lửa tóe ra, cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn đã bị chặt mất một mảng. Hàn Trọng Sơn nói: “Hừ, té ra là ngươi, phản nghịch thật lớn gan!” tuy Đường Hiểu Lan có kiếm bén nhưng công lực lại không đủ, bị y đẩy lùi hai bước. Một tên lính phía sau múa hỗn nguyên thiết bài bổ xuống đầu chàng, chợt bị Lý Trị đâm xéo một kiếm, cái thiết bài vọt khỏi tay bay ra, đánh trúng một tên khác.
Lý Trị lại múa tiếp thanh kiếm, đâm thêm hai tên lính nữa. Cáp Bố Đà múa chùy nghênh địch, Lý Trị dùng đoản kiếm nên không áp sát vào được, bị hai cái chùy Lưu Tinh của y dồn ép nên không thể thi triển thân thủ.
Bạch Thái Quan thấy Cam Phụng Trì đã phóng lên Thưởng âm các rồi mất dạng, cũng không nghe thấy tiếng chém giết, lại không thấy bóng người nên càng lo hơn. Chàng phóng ra mai hoa trâm, tuy đả thương được vài người nhưng Thiên Diệp Tản Nhân đã đuổi tới, vận chưởng lực dồn ép chàng. Đang lúc căng thẳng tột độ, chợt nghe thấy một tiếng kêu, chỉ thấy từ Thưởng âm các có người nhảy ra như sao sẹt, ngã xuống dòng Ngự Hà.
Bạch Thái Quan kinh hoảng kêu: “Không xong, thất ca bị hại!” chỉ nghe trên lầu vang lên tiếng cười ha hả, Ung Chính lại bước ra, cao giọng quát: “Cam Phụng Trì hôm nay đã bị giết, trẫm mở lượng khoan thứ, những kẻ phản nghịch còn lại nếu bỏ binh khí đầu hàng có thể miễn tội”. Ngư Xác cả giận quát: “Ai tin lời ngươi!” rồi vung đao chém tới, chặt một tên lính thành hai đoạn, khi vung tiếp đao thứ hai thì đã bị Hàn Trọng Sơn vung trợ chặn lại.
Ung Chính cười ha hả, kêu lớn: “Giết chết bọn phản nghịch cho trẫm!” chỉ nghe một tiếng “lãnh chỉ” trong Thưởng âm các lại có một người phóng ra, tay múa cây phất trần từ trên không đánh xuống, phất trần vừa triển khai, lập tức đã cuộn cây đao của Ngư Xác kéo lên không trung, Đường Hiểu Lan thất kinh, vẫy nhẹ cây Du Long kiếm, sử dụng tuyệt chiêu Đại Mạc Lưu Sa trong Thiên Sơn kiếm pháp, chỉ thấy khắp người toàn là kiếm quang, Ngạch Âm Hòa Bố đã biết kiếm của chàng lợi hại không dám đánh tới mà lướt ra phía sau Bạch Thái Quan thi triển đòn sát thủ!
Bạch Thái Quan xoay bước lướt qua một bên, chợt trở tay phóng tới một nắm Mai Hoa châm, ánh ngân quang loang loáng, toàn bay vào mặt của Ngạch Âm Hòa Bố, nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần lên một vòng, chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, toàn bộ số mai hoa trâm đã bị y cuộn mất.
Lý Trị thấy thế không xong, vung kiếm đâm vào hai mắt của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần, nào ngờ kiếm của Lý Trị rõ ràng là đâm vào bên trái nhưng chợt xoay một vòng đâm sang bên phải, Ngạch Âm Hòa Bố khom người mới tránh được. Lý Trị vung kiếm đâm tiếp, Thiên Diệp Tản Nhân bất ngờ phóng ra đẩy hai chưởng như sấm sét, Lý Trị bất đồ thoái lui hai bước, Ngạch Âm Hòa Bố vươn người quét phất trần đánh vù một tiếng chụp xuống đầu chàng.
Đang lúc nguy cấp, chợt nghe một tiếng quát trong trẻo từ trên không vọng xuống, Thiên Diệp Tản Nhân kêu: “Thượng nhân cẩn thận, ả tiện tì lại tới!” nói chưa dứt lời, ở góc ngự hoa viên lại có mấy người nữa phóng ra, nhìn kỹ lại thì ra đó là ba thiếu nữ, quần áo của các nàng phấp phới tựa như thiên tiên. Ba người này chính là Lữ Tứ Nương, Phùng Anh và Phùng Lâm.
Ngạch Âm Hòa Bố kêu mộ tiếng không xong, chạy đến chặn lại, Đường Hiểu Lan đã kêu lớn: “Ung Chính đang ở Thưởng âm các”. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân phóng vọt lên, chỉ trong chớp mắt đã lao lên lan can lầu, nhảy vào trong các, nhưng chẳng thấy ai, nàng vừa vào bên trong đã đánh một chiêu Dạ Chiến Bát Phương, lập tức đảo người vọt trở ra, tên bay tới như mưa nhưng vẫn bị nàng chặt gãy cả.
Phùng Anh và Phùng Lâm đi sau một bước, vừa vặn chạm phải Ngạch Âm Hòa Bố, Phùng Anh lia cây đoản kiếm nhanh như điện chớp, một chiêu hai thức, vừa điểm vào mặt, vừa đâm vào ngực của y, Ngạch Âm Hòa Bố xoay người theo kiếm thế, cây phất trần đánh xéo ra, tay phất trần chụp tới, y ra tay đến mức khó hình dung. Phùng Anh không hề lo lắng, nàng chỉ lấy tĩnh chế động, chỉ hơi lách người, kiếm quang chợt tỏa ra, liên tục dùng hai chiêu Lưu Tinh Cản Nguyệt, Phi Vân Ma Điện, cây kiếm của nàng đâm xuyên qua màng lướt của phất trần, xỉa vào huyệt Kỳ Môn dưới hông của y, Ngạch Âm Hòa Bố không ngờ kiếm pháp của Phùng Anh lại tinh thông như thế, phất trần vừa thu, chưởng lực đã phát ra ngoài, chỉ thấy ánh ngân quang lướt tới kêu lên vù vù, Phùng Anh liên tục dùng kình lấy nhu chế cương, cắt đứt một đoạn phất trần của Ngạch Âm Hòa Bố nhưng cũng bị chưởng lực của y đánh lảo đảo.
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Anh múa kiếm đâm vào huyệt Mệnh Môn của Ngạch Âm Hòa Bố. Ngạch Âm Hòa Bố thấy thế thất kinh, vội vàng vận nội gia chân lực đánh ra một chưởng hoành giá kim lương, toan đánh vỡ xương cổ tay của Phùng Lâm, nào ngờ Phùng Anh vừa đứng vững thì đã quét kiếm tới, nội công của Phùng Anh cao hơn Phùng Lâm, trong tay nàng lại có thanh bảo kiếm, Ngạch Âm Hòa Bố không dám đánh liều, chỉ đành vận chưởng đánh ngược về phía Phùng Anh, nội công của y cao hơn Phùng Anh, Phùng Anh cũng không dám tiếp, chỉ lách người lướt bước nhảy qua một bên, Ngạch Âm Hòa Bố đã định đuổi theo, Phùng Lâm lại đâm vào huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy của y, Ngạch Âm Hòa Bố tức đến nỗi kêu lên oai oái, nhưng chẳng làm cách nào, chỉ đành thu phất trần rút chưởng phòng thủ huyệt đạo.
Lúc này Lữ Tứ Nương đã nhảy ra khỏi Thưởng âm các, thấy Ngạch Âm Hòa Bố đang giằng co với chị em họ Phùng, liền múa kiếm xông vào bọn lính, lớn giọng quát: “Chạy mau, Ung Chính đã thoát”. Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp...” Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca đã mất tích, hôm nay chúng ta coi như thất bại”. Ngư Xác lúc này đã cướp được một cây hoa thương, lao về phía trước nói: “Được, giết được tên nào hay tên ấy, chúng ta báo thù cho Cam đại hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca chưa chắc gặp bất trắc. Chúng ta phải xông ra trước”. Nàng vừa nói vừa lia kiếm, bọn lính áp sát với nàng đều bị gãy chân què tay, đầu rơi máu chảy!
Hàn Trọng Sơn cả giận nhảy lên đánh ra một chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh bổ xuống đầu Lữ Tứ Nương, nàng lia xéo thanh kiếm dẫn cây trợ của Hàn Trọng Sơn ra ngoài, rồi trầm cổ tay xuống, kiếm chiêu lại phát ra, Cáp Bố Đà kêu: “Không xong!” rồi vội vàng múa cây truỳ đánh tới, nào ngờ Lữ Tứ Nương nhanh đến khó hình dung, chùy của Cáp Bố Đà rõ ràng là đã bổ vào đầu nàng, không ngờ nàng lại lách qua, cổ tay trầm xuống, thanh kiếm lướt xéo lên kêu soạt một tiếng, chém đứt hai ngón tay của Hàn Trọng Sơn, cây tị vân trợ bay ra trúng vào một tên lính, tiện đứt đôi người y.
Lúc này công lực của Lữ Tứ Nương đã cao hơn Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn không biết tưởng rằng nàng cũng như trước, thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương dù kiếm pháp tinh diệu, nhưng công lực cũng kém mình”. Nào ngờ y tính sai, phòng thủ sơ hở cho nên vốn có thể đánh được năm mươi chiêu, nào ngờ trong vòng ba mươi chiêu đã bị thương. Cáp Bố Đà thấy Hàn Trọng Sơn bị thương cả kinh xoay người bỏ chạy. Thiên Diệp Tản Nhân không dám ham đánh, chỉ đành hiểm hộ Hàn Trọng Sơn lui xuống.
Bọn Cáp Bố Đà vừa lui, bọn lính cũng chẳng dám đuổi theo, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh lao ra, Ngạch Âm Hòa Bố một tay khó vỗ nên kêu, cũng không dám đuổi theo, vội vàng bảo bọn lính cứu chữa những kẻ bị thương còn mình thì vào cung gặp Ung Chính.
Lúc này Ung Chính đã nấp trong mật thất, số là y phòng bị cực kỳ cẩn thận, đã sớm bày binh bố trận ở Thưởng âm các, lại sắp đặt cơ quan, đào địa đạo thông vào cung, còn bảo bọn Ngạch Âm Hòa Bố mai phục ở đây. Cam Phụng Trì trong lúc nóng lòng đã đuổi vào Thưởng âm các, trúng ám toán còn Ung Chính thì chạy ra khỏi địa đạo.
Ngạch Âm Hòa Bố vào trong gặp Ung Chính, khấu đầu thỉnh tội. Ung Chính nói: “Ngươi cứu giá có công, có đáng tội gì? Trẫm chỉ hận tên tiểu súc sinh Dận Anh dám cho người đến ám toán trẫm”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Tiểu thân vương chưa chắc có ý này”. Ung Chính nói: “Dù y hữu ý hay vô ý, không thể không phạt. Giờ đây thái hậu vẫn còn đang hôn mê, ngươi hãy mau đi gọi tên tiểu súc sinh đến, nếu không thái hậu tỉnh dậy lại ngăn cản”. Ngạch Âm Hòa Bố kêu vâng một tiếng, đang định lui ra, Ung Chính lại nói: “Ngươi hãy cho người đến Ngự Hà tìm kiếm, xem thử Cam Phụng Trì đã chết hay chưa!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Y đã bị trúng tên, lại trúng một chưởng của nô tài, rơi xuống Ngự Hà dù không chết cũng không thể vận nội công, lúc này trời đang lạnh có lẽ y không chống chọi được”. Ung Chính nói: “Tuy nói thế nhưng thấy xác trẫm mới yên lòng”. Ngạch Âm Hòa Bố lại vâng một tiếng, nói: “Hoàng thượng còn có dặn dò gì không?” Ung Chính nghĩ ngợi rồi chợt nói: “Dù có tìm được xác của Cam Phụng Trì hay không, ngươi cũng phải cho người phao tin Cam Phụng Trì đã bị chúng ta bắt sống”.
Sau một đêm, sáng mai Ung Chính hạ lệnh tra xét ở chín cửu vào thành Bắc Kinh, đồng thời phòng bị nghiêm ngặt hơn, cuối cùng chẳng bắt được một kẻ phản nghịch nào. Ung Chính đang lấy làm lạ, đến chạng vạng tối chợt có một tên nội giám vào báo: “Hầu Tam Biến xin gặp Hoàng thượng”.
Ngạch Âm Hòa Bố đứng một bên, nghe nói y cầu kiến thì chưng hửng, Ung Chính nói: “Gọi y vào”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Chỉ e có gian trá”. Ung Chính cười nói: “Trẫm đang muốn tương kế tựu kế, sợ gì gian trá”. Rồi hỏi nội giám: “Y thế nào rồi?” tên nội giám báo: “Y tự trói tay, xin gặp nội đình tổng quản, bảo rằng có việc cơ mật muốn bẩm với Hoàng thượng. Y còn mang theo một người bịt mặt, nghe nói bí mật là ở người này. Tổng quản không dám làm chủ, xin Hoàng thượng ra lệnh”. Ung Chính cười ha hả nói: “Gọi tất cả vào đây”.
Một lúc sau nội giám dắt Hầu Tam Biến và người che mặt vào, Ung Chính gằng giọng quát: “Hầu Tam Biến, ngươi còn có gan đến gặp ta sao?” Hầu Tam Biến dập đầu nói: “Nô tài đã biết lỗi, xin lấy công chuộc tội”. Ung Chính ừ một tiếng rồi nói: “Hay lắm! Trẫm xưa nay rộng lượng, nếu ngươi đã hối hận, trẫm sẽ cho ngươi một con đường sáng, nói đi!” Hầu Tam Biến nói: “Xin Hoàng thượng cho tả hữu lui ra”. Ung Chính cười lớn nói: “Ngươi tưởng ta là con nít ba tuổi sao?” Hầu Tam Biến nói: “Nếu Hoàng thượng nghi ngờ, xin hãy đâm thủng xương tỳ bà của nô tài”. Ung Chính nói: “Ngươi đã mau mắn như thế, ta cũng không cần đâm thủng xương tỳ bà của ngươi để ngươi khỏi tàn phế. Ngạch Âm Hòa Bố, hãy phế võ công của hai người này!” Ngạch Âm Hòa Bố vâng một tiếng, lấy ra một cây kim dài khoảng một thước, ánh ngân quang loang loáng, y chẳng nói chẳng rằng đâm lên người Hầu Tam Biến và người che mặt ba mũi châm, rồi lập tức bóp vào lưng của mỗi người một cái, Hầu Tam Biến loạng choạng suýt nữa ngã xuống, người che mặt cũng lảo đảo, trên trán hai người đều toát mồ hôi, Ung Chính mỉm cười nói: “Được, giờ đây các ngươi tuy tạm thời chịu khổ, nhưng miễn khỏi tàn phế, từ rày về sau các người sẽ sống yên phận. Các người thấy trẫm có rộng lượng hay không?” Hầu Tam Biến khấu đầu nói: “Nô tài tạ ơn”. Ung Chính phẩy tay nói: “Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi hãy ra ngoài”.
Ngạch Âm Hòa Bố lẳng lặng lui ra. Té ra Ngạch Âm Hòa Bố có một loại võ công độc môn có thể dùng ngân châm đâm vào huyệt qua lớp áo, khiến chân khí của kẻ địch phát tiết, dù võ công cao đến mức nào cũng không còn. Lúc trước Ngạch Âm Hòa Bố đã từng đâm Phùng Anh nhưng vì nàng mặc cái áo giáp nên không có hiệu quả, bởi vậy lần này đâm huyệt xong lại bóp vào lưng của hai người xem thử họ có còn võ công hay không.
Ung Chính đợi Ngạch Âm Hòa Bố ra khỏi mật thất, lập tức nói: “Ngươi có chuyện cơ mật gì nói cho trẫm nghe”. Hầu Tam Biến nói: “Cơ mật là ở người này”. Rồi đưa tay rồi kéo khăn bịt mặt của người bên cạnh, nói: “Hoàng thượng có còn nhận ra người này không?” Ung Chính mỉm cười nói: “Ta tưởng là ai, té ra là Đường Hiểu Lan, Đường hiệp sĩ, chúng ta là bằng hữu!” Hầu Tam Biến nói: “Hoàng thượng có biết lai lịch của Đường Hiểu Lan không?” Ung Chính lại mỉm cười nói: “Tại sao không biết? Nói ra chúng ta không chỉ là bằng hữu mà còn là huynh đệ ruột thịt! Ngươi đã biết lai lịch của mình, vậy nên ở trong cung hưởng phước, đừng theo bọn người Hán làm càn nữa”. Đường Hiểu Lan và Hầu Tam Biến đều chưng hửng, trong nhất thời nói không ra lời.
Số là Khang Hy chết đi, Ung Chính lục tìm các bí mật của ông ta, phát hiện trong nhật ký có một đoạn nói về Đường Hiểu Lan, lại còn bảo chàng là người có nhân phẩm tốt nhất trong mười mấy người con.
Đường Hiểu Lan nghiến răng, lớn giọng mắng: “Hầu lão tặc, ta bị ngươi lừa bắt vào cung, ta hận không ăn tươi nuốt sống ngươi!” Ung Chính mỉm cười nói: “Ngươi đúng là cổng rắn cắn gà nhà, bọn người Hán làm càng ở đâu? Trẫm sẽ lập tức nhận ngươi làm hoàng đệ, phong ngươi làm thân vương”. Đường Hiểu Lan im lặng, Ung Chính lại nói: “Trong thiên hạ có ai dám chống lại lệnh trẫm? Ngươi có biết kết quả của Dận Đường và Dận Nga không? Bọn họ chạy ra khỏi cung, bị trẫm bắt về, lúc này xương cốt đã hóa thành tro bụi, ngươi có muốn giống như bọn chúng không?” rồi lớn giọng kêu: “Ngạch Âm Hòa Bố!” sau đó lại mềm mỏng mỉm cười: “Ngươi muốn trở thành thân vương hay muốn xương cốt tiêu tan, cứ chọn đi!”
Đường Hiểu Lan cúi đầu có vẻ như đang suy nghĩ, rất lâu sau mới ngẩng đầu nói: “Được, ta nói, ở đây có một danh sách, ta đưa cho ngươi”. Ung Chính bước tới mấy bước, đưa tay nói: “Đưa đây!” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đường Hiểu Lan chợt vung tay chụp lấy cổ tay của Ung Chính, Ung Chính cũng rất lợi hại, chân phải giở lên thi triển liên hoàn vô ảnh cước của phái Thiếu Lâm đá vào hông chàng, nếu bị đá trúng, Đường Hiểu Lan không chết cũng bị thương. Khi Đường Hiểu Lan ra tay, Hầu Tam Biến cũng nhảy lên, cú đá này trúng ngay vào đầu, lập tức bể đầu mất mạng. Nhưng Ung Chính đã bị Hầu Tam Biến cản lại, Đường Hiểu Lan lập tức vung tay điểm trúng huyệt đạo của y. Ung Chính vừa giở chân trái lên đã mềm nhũn.
Té ra Hầu Tam Biến và Đường Hiểu Lan sử dụng khổ nhục kế. Sau khi đại náo đại hoa viên, Hầu Tam Biến âm thầm điều tra, nghe được lời đồn, tưởng rằng Cam Phụng Trì đã bị bắt. Mọi người bàn bạc tìm cách cứu chàng, cho nên Hầu Tam Biến đã nghĩ ra kế khổ nhục mạo hiểm vào cung chuẩn bị bắt Hoàng đế.
Trên mình Đường Hiểu Lan mặc áo giáp tơ vàng mượn của Phùng Anh, sau khi bị Ngạch Âm Hòa Bố đâm kim vào, lập tức vận dụng nội công thượng thừa rút kình lực lại, làm cho mồ hôi tuôn ra, Ngạch Âm Hòa Bố và Ung Chính đã bị chàng qua mặt, còn Hầu Tam Biến thì đã mất võ công thực sự, liều chết chặn một cước cho Đường Hiểu Lan.
Hai bên động thủ nhanh như điện chớp, khi Ngạch Âm Hòa Bố xông vào, Ung Chính đã bị Đường Hiểu Lan chế phục chẳng thể động đậy nỗi. Ngạch Âm Hòa Bố kinh hãi, chỉ thấy kiếm của Đường Hiểu Lan đã kề vào cổ Ung Chính, y sợ ném chuột bể đồ nên không dám tiến tới trước.
Trái lại Ung Chính rất chấn tĩnh, chợt cười ha hả nói: “Hiểu Lan, ngươi giỏi lắm! Ta đã sớm đoán được các ngươi sẽ sử dụng kế khổ nhục, nhưng không ngờ ngươi có mang theo bảo vật phòng thân. Ta đã thua, các người muốn gì cứ nói ra!”
Đường Hiểu Lan lớn giọng nói: “Hãy thả Cam đại hiệp ra!” Ung Chính nói: “Được, mạng trẫm đổi mạng của Cam Phụng Trì cũng đáng lắm. Ngạch Âm Hòa Bố, hãy trả Cam Phụng Trì cho bọn chúng”. Ngạch Âm Hòa Bố vâng lệnh lui ra, quả nhiên một lát sau dắt theo một người, đầu bịt khăn xanh chỉ để lộ ra nửa mặt, Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Cam Phụng Trì bị thương trên đầu, vốn là phải nghỉ ngơi. Nếu y có gì bất trắc, chớ trách ta không nói trước”.
Đường Hiểu Lan nheo mắt nhìn, dưới ánh đèn vàng vọt, chỉ thấy người này thân hình cao ngũ đoản, tuy bị thương nhưng hai mắt rất có thần, quả nhiên đó là Cam Phụng Trì. Đường Hiểu Lan gọi: “Cam đại ca”. Người ấy trả lời: “Đường hiền đệ”, giọng nói nghe rất nhỏ, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Y đã bị trọng thương, lại uống nhiều nước lạnh, chả trách nào tiều tụy như thế”. Đang định bước đến xem thử vết thương của Cam Phụng Trì, lại sợ Ung Chính bỏ chạy, nói: “Ngươi phải đưa bọn ta ra khỏi cung từ Thần Võ môn. Bọn ta ra khỏi cửa sẽ lập tức thả ngươi”. Ung Chính nói: “Nhưng bọn chúng có chịu hay không? Ngoài Thần Võ môn chắc còn nhiều đồng bọn của ngươi. Bọn chúng đang muốn ăn tươi nuốt sống trẫm, ngươi có thể quyết định được sao?” Đường Hiểu Lan tức giận nói: “Bọn ta không giống ngươi, chỉ làm chuyện lừa bịp. Quân tử nhất ngôn...” Ung Chính tiếp lời cười nói: “Xe bốn ngựa khó đuổi. Được, trẫm đã từng đi lại trên giang hồ, chúng ta cứ làm theo quy củ trên giang hồ”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi bảo một tên nội giám đỡ Cam đại hiệp đi trước, bọn Ngạch Âm Hòa Bố không được đi bên cạnh”. Ung Chính cười nói: “Ngươi đúng là đa nghi”. Rồi nháy mắt bảo: “Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi hãy ra ngoài đi”. Đường Hiểu Lan lại nói: “Các người không làm được làm càng, nếu ngươi bảo Ngạch Âm Hòa Bố ra Thần Võ môn tra xét, làm hại người của bọn ta, đừng trách ta vô tình”. Ung Chính vẫn ung dung cười lạnh: “Có thực không? Trẫm đã bị ngươi kiềm chế, lẽ ra ngươi không nên đa nghi như thế”.
Nội giám đưa người ấy đi ở phía trước, Đường Hiểu Lan dùng kiếm kề lên cổ Ung Chính, từ nội viện đi đến Thần Võ môn, được nửa canh giờ quả nhiên chẳng thấy ai tra xét.
Trên đường đi Cam Phụng Trì cũng quay đầu lại nhìn mấy lần, trong mắt đầy vẻ cảm kích, ra đến Thần Võ môn, Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp, huynh có thể đi được hay không?” Cam Phụng Trì vung tay tóm tên nội giám ném qua một bên, Đường Hiểu Lan mừng rỡ nói: “Cam đại hiệp bị trọng thương mà võ công vẫn còn”. Thần Võ môn chậm rãi mở ra, Đường Hiểu Lan nói: “Đại hiệp đến đây vịn một bên vai của tôi, Lữ tỉ tỉ đang ở trên Cảnh Sơn, chúng ta ra khỏi cửa này, tỉ ấy sẽ ra tiếp ứng”. Ung Chính nói: “Các người chưa chịu thả trẫm sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Ra khỏi đây rồi tính tiếp”. Cam Phụng Trì xoay người, bước đến gần Đường Hiểu Lan, hai tay vịn vai chàng, Đường Hiểu Lan thấy trong lòng chua xót, nghiêng người cho Cam Phụng Trì dựa vào, đang định lên tiếng an ủi, chợt thấy vai đau nhói, cổ tay cầm kiếm đã bị Cam Phụng Trì giật ra, Đường Hiểu Lan kinh hãi kêu: “Cam đại hiệp, huynh làm gì thế?” chỉ nghe người ấy quát: “Ai là đại ca của ngươi!” rồi một tay bóp vai, một tay bẻ cổ tay của Đường Hiểu Lan, Ung Chính cười ha hả vọt người ra, khi người ấy áp sát vào đã dùng cùi chỏ giải huyệt đạo cho y.
Người ấy đâu phải là Cam Phụng Trì mà chính là một tên thị vệ trong cung, vì thân hình thấp bé như Cam Phụng Trì cho nên Ung Chính mới bảo y giả dạng chờ sẵn, vì Đường Hiểu Lan không quan sát kỹ càng nên bị y lừa.
May mà tên thị vệ này không phải là ca bu mà là nhất lưu, Đường Hiểu Lan tuy bị y bóp trúng vai nhưng vẫn có thể vùng vẫy được.
Ung Chính thoát thân, kêu lớn: “Mau đóng cửa thành!” bọn Ngạch Âm Hòa Bố, Hàn Trọng Sơn, Cáp Bố Đà từ trong xó tối nhảy ra, té ra bọn chúng đã mai phục sẵn từ lâu.
Đường Hiểu Lan ôm người ấy lộn xuống đất, rồi vùng ra vung kiếm chém đứt người ấy thành hai đoạn, chỉ thấy Cáp Bố Đà vung Lưu Tinh chùy đánh tới, cánh cửa sắt của Thần Võ môn đã dần dần đóng lại.
Đường Hiểu Lan liều mình vung kiếm lao tới, chợt nghe ối chao một tiếng, người đóng cửa thành tựa như bị trúng ám khí ngã xuống, Ngạch Âm Hòa Bố và Hàn Trọng Sơn vội vàng nhảy lên tường thành, chỉ nghe một tiếng huýt sáo lanh lảnh, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh cùng Phùng Lâm từ bên ngoài nhảy vào, Quan Đông tứ hiệp cũng xông vào. Ngạch Âm Hòa Bố vung phất trần chặn kiếm của Lữ Tứ Nương, quát: “Mau đóng cửa thành!” Hàn Trọng Sơn tay trái cầm tị vân trợ phòng thân, tay phải đè vào cái then bằng sắt, Quan Đông tứ hiệp đã xông vào trong, Phùng Anh và Phùng Lâm cũng nhảy đến bên cạnh Đường Hiểu Lan.
Trên thành tên bắn xuống rào rào, binh lính mai phục trong vườn cũng ùa ra, không những tên bắn mà còn có cả ống phun lửa của bọn Lạt ma Hồng giáo.
Mọi người vừa phải tránh tên vừa phải tránh ống phun lửa nên tình thế rất nguy hiểm. Phùng Anh hỏi: “Huynh chạy ra được không?” Đường Hiểu Lan lắc đầu. Lúc này cái then sắt đã rơi xuống, trên đầu tường lại có vô số cung tiễn thủ và câu liêm thủ, trong số Quan Đông tứ hiệp, ngoại trừ Huyền Phong đại nhân và Liễu Tiên Khai, khinh công hai người còn lại kém hơn, e rằng không thể thoát ra được.
Lữ Tứ Nương vung kiếm múa tiếp, đánh Ngạch Âm Hòa Bố khiến y chỉ có nước chống đỡ, Phùng Lâm vung tay, ba mũi độc mệnh thần đao bay về phía Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn thấy phi đao bay tới đành lách người qua. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Trần Nguyên Bá nhảy vào cửa thành, hai tay từ từ nâng cánh cửa lên. Huyền Phong cùng bọn Phùng Anh và Lang Nguyệt đánh lui bọn thị vệ bên cạnh, nhất tề xông ra. Phùng Lâm không ngừng phóng phi đao khiến Hàn Trọng Sơn không thể cài cái then sắt lại.
Nhưng Phùng Lâm chỉ mang theo hai mươi bốn mũi phi đao, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh chạy cuối cùng, đến bên cửa phi đao của Phùng Lâm đã hết. Hàn Trọng Sơn cười hềnh hệch, vung tay kêu vù một cái, hai cái hồi hoàn đao đồng thời bắn ra bay về phía Phùng Anh và Đường Hiểu Lan, hai người Đường Phùng phải lách người, trong khoảng sát na này, Hàn Trọng Sơn đè cái then sắt xuống, Trần Nguyên Bá trán nổi gân xanh, kêu lớn: “Chạy mau!” Phùng Anh và Đường Hiểu Lan vung hai kiếm lên, cái hồi hoàn câu không bay ra được, lập tức bị chặt thành bốn đoạn. Cả hai người phóng vọt lên, lướt qua bên cạnh Trần Nguyên Bá, chỉ nghe a một tiếng, hai tiếng kêu thảm vang lên, Đường Hiểu Lan quay lại nhìn chỉ thấy Lữ Tứ Nương xách một cái đầu người, chạy theo phía sau kêu: “Chạy mau!” chính là:
Đại nội phi đầu khó giải hận, nhạn bay dãy tránh đau lòng hơn.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Ngạch Âm Hòa Bố chợt nổi giận, bỗng nghe tiếng chuông leng keng bên ngoài vọng vào, tiếp theo là mấy tiếng kêu thảm, Phùng Anh cả mừng: “Võ lão tiền bối đã đến!” Ngạch Âm Hòa Bố cả giận nhảy vọt ra cửa chùa, dưới ánh trăng chỉ thấy một lang trung giang hồ tay phải cầm một cây gậy, tay trái lắc cái chuông đồng bước thẳng về phía mình, bọn lính canh ở ngoài đều bị người ấy đánh ngã.
Ngạch Âm Hòa Bố trừng mắt quát: “Ai? Đứng lại!” té ra người đó là Võ Thành Hóa, chỉ thấy ông ta cười lạnh nói: “Phách lối thật! Ngươi muốn hỏi ta là ai? Ta là sứ giả chiêu hồn cho ngươi!” rồi lắc cái chuông kêu lên leng keng. Ngạch Âm Hòa Bố cả giận đẩy vù ra một chưởng, Võ Thành Hóa không hề nhúc nhích, cười ha hả giơ cây gậy đánh tới, Ngạch Âm Hòa Bố quét cây phất trần cuộn trúng cây gậy của ông ta nhưng vẫn bị ông ta đẩy lui hai bước. Ngạch Âm Hòa Bố cả kinh, ngầm vận nội lực kéo sang một bên; Võ Thành Hóa cũng thất kinh, tuy cây gậy không vụt ra khỏi tay nhưng ông ta cũng không thể đánh tới được. Hai người đều ngầm vận nội lực hạ nhau.
Phùng Anh lướt tới, kêu: “Võ tiền bối, người đến thật đúng lúc!” Võ Thành Hóa nói: “Có phải tên này cậy người đông bức hiếp ngươi không?” Phùng Anh cười nói: “Y làm gì có bản lĩnh ấy!” rồi quay mặt sang nhìn Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Ngươi có muốn đấu nữa không?” Ngạch Âm Hòa Bố thâu cây phất trần, nhảy vọt qua hai bước, nói: “Được, chúng ta dừng tay, sau này gặp lại ta sẽ không tha cho ngươi”. Phùng Anh cười nói: “Vậy chờ sau này hẳn tính”. Võ Thành Hóa quét mắt nhìn Ngạch Âm Hòa Bố rồi nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Đáng tiếc thế này!” Võ Thành Hóa nói: “Chả lẽ ngươi không biết kết cuộc của Liễu Ân?” Ngạch Âm Hòa Bố nghe thế giật mình, giơ cao cây phất trần, Võ Thành Hóa nói: “Có phải còn muốn đánh với ta không?” Ngạch Âm Hòa Bố chẳng nói lời nào, quay mình dắt bọn lính đi nhanh xuống núi. Dận Đường bị vặn gãy xương cổ tay, đau đến nỗi ngất đi, cũng được bọn lính cõng xuống núi.
Võ Thành Hóa cười nói: “Ta nghe nói các người lại xuống Thiên Sơn, biết thể nào cũng đến tìm Lữ Tứ Nương nhưng không ngờ gặp ở đây. Sư phụ của ngươi khỏe không?” Phùng Anh nói: “Chúng ta khoan nói chuyện này, xem thử Đường Kim Phong đã thế nào!” Võ Thành Hóa nói: “Đường Kim Phong là ai?” Phùng Anh nói: “Là một tiền bối võ lâm, ám khí thiên hạ vô song”. Võ Thành Hóa nói: “Ồ, thế là người của Đường gia tứ xuyên rồi, làm sao các ngươi quen y?”
Họ vừa đi vào trong miếu, chỉ thấy Đường Kim Phong vẫn ngồi xếp bằng, sắc mặt tái nhợt. Đường Trại Hoa bế Niên Thọ, mặt đầy vẻ lo lắng, khẽ hỏi: “Cha, thế nào rồi?” Đường Kim Phong mỉm cười nói: “May mà vẫn còn giữ được mạng của đứa trẻ. Ta không xong rồi. Con hãy bế nó về. Ta nhận nó làm cháu ngoại”. Đường Trại Hoa rơi nước mắt như mưa, nói: “Cha, có phải cha đã bị thương rất nặng không? Chúng ta mang theo toàn là thuốc tốt”. Đường Kim Phong cười khổ nói: “Thuốc tốt chẳng ích gì, ta bị chưởng lực của tên ấy chấn động, lại khổ chiến một hồi, sức cùng lực kiệt, tựa như đèn khô dầu cạn, làm sao có thuốc nào chữa nỗi!” Phùng Anh chợt nói: “Thuốc của tôi có thể cứu nỗi”. Đường Trại Hoa cả mừng, không màng đến thù hận trước kia, vội nói: “Vậy xin cô nương hãy mau cứu!” Đường Kim Phong có vẻ không tin, hỏi: “Thuốc gì?” Phùng Anh lấy ra một cái bình bạc nhỏ xíu, đổ ra ba viên thuốc màu xanh lục, lập tức hương thơm xông vào mũi, tinh thần sảng khoái, Phùng Anh đưa viên thuốc cho Đường Kim Phong nói: “Đây là Bích linh đơn được bào chế từ Thiên Sơn tuyết liên, bổ khí ích huyết, trị thương giải độc đều có hiệu quả. Lão tiền bối có căn cơ vững chắc, được nó cố bản bùi nguyên, không những chẳng lo đến tính mạng mà võ công cũng không đến nỗi giảm sút”.
Đường Kim Phong nuốt ba viên Bích linh đơn, chỉ cảm thấy một luồng khí mát mẻ dâng lên đang điền, cười rằng: “Thiên Sơn tuyết liên quả nhiên danh đồn không oa, đúng là linh đơn diệu dược”. Niên Thọ mở mắt nhìn Đường Kim Phong, Phùng Anh nói: “Cậu bé, ngươi đã thoát chết, ngươi biết có nên đáp tạ ai không?” Niên Thọ rất ngoan ngoãn, bước tới quỳ xuống đất, dập đầu ba cái truớc Đường Trại Hoa, kêu một tiếng “mẹ”. Đường Trại Hoa mừng rỡ nói: “Con ngoan, con ngoan”. Niên Thọ lại dập đầu trước Đường Kim Phong ba cái kêu: “Công công”. Đường Trại Hoa cười nói: “Phải kêu là ngoại công”. Đường Kim Phong cười ôm cậu bé vào lòng.
Đường Hiểu Lan nói: “Đứa bé này rất thông minh, giống như cha nó”. Phùng Anh nói: “Cũng mong nó không hoàn toàn giống cha”. Võ Thành Hóa nhìn sắc trời, thấy đã hơi hửng sáng, cười nói: “Chúng tôi phải đi trước một bước, ông cứ ngồi đã tọa một lúc, khí lực sẽ hồi phục ngay, xin thứ chúng tôi không thể đi cùng”. Đường Trại Hoa nói lời tạ ơn với Phùng Anh, giờ đây mối thù hận giữa cha con họ Đường với chị em họ Phùng đã tiêu biến.
Võ Thành Hóa và hai người Phùng Đường xuống Tung Sơn, Võ Thành Hóa nói: “Có phải các ngươi lên Mang Sơn không?” Phùng Anh nói: “Đúng thế. Mẹ của vãn bối đang ở Mang Sơn, người có biết không?” Võ Thành Hóa cười nói: “Mẹ của ngươi đã không còn ở Mang Sơn nữa. Ngươi có muốn gặp bà ta không?” Phùng Anh kinh hãi hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?” Võ Thành Hóa cười nói: “Vốn là xảy ra chuyện nhưng giờ không hề gì nữa. Tên tiểu tử Ung Chính này thật độc ác, sau khi tước binh quyền của Niên Canh Nghiêu, lùng bắt các chí sĩ càng nghiêm ngặt hơn, y biết ở Mang Sơn có anh hùng hào kiệt tụ hội liền phái đại quân bao vây, may mà Lữ Tứ Nương biết được tin này đã đưa mọi người đến Thiên Sơn”. Đường Hiểu Lan nói: “Sắp xếp rất tốt, nửa đời họ gặp hoạn nạn, cũng nên an hưởng tuổi già. Võ tiền bối, ông gặp Lữ Tứ Nương ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Ở gần kinh thành. Lữ Tứ Nương muốn vào kinh ám sát Ung Chính nhưng trong cung canh gác nghiêm ngặt, chẳng có cơ hội ra tay. Ta vốn muốn đi tìm Lý Trị, gặp Lữ Tứ Nương mới biết họ đã đi Tứ Xuyên”. Phùng Anh nói: “Vậy mẹ của vãn bối lúc này ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Họ chia nhau lên đường, ta đi trước dò đường, đêm qua đi ngang qua Tung Sơn, họ đang ở một nơi dưới chân núi”. Phùng Anh cả mừng, lập tức cùng Đường Hiểu Lan đến gặp mẹ.
Lại nói Lý Trị và bọn Quan Đông tứ hiệp đi được hơn một tháng đến Mang Sơn, nhưng thấy trên núi là một đống đổ nát hoang tàn, ai nấy đều trợn mắt há mồm, tưởng rằng Mang Sơn cũng bị hỏa thiêu như chùa Thiếu Lâm, Phùng Lâm và Lý Trị càng lo hơn, chợt nghe trong đám cây xum xuê um tùm chim chóc bay lên, trong chớp mắt nghe tiếng vù vù, chỉ thấy hai con chim đại bàng một trắng một đen dang cánh chao lượn trên đầu họ, Huyền Phong kêu: “Đây là hai con chim đại bàng của Độc tý thần ni, không ngờ đến nay vẫn còn sống”. Hai con chim đại bàng lượn một hồi rồi bay xuống núi. Mọi người chạy theo hướng chim bay, đi qua nơi góc hẹp, chợt thấy rộng rãi, trước mắt toàn là hoa dại, trên núi đối diện có dòng thác buông xuống, Huyền Phong nói: “Từ nơi này đi tiếp chính là mộ địa của Độc tý thần ni. Chắc là nơi này thấy núi hiểm yếu, bọn quan quân không thấy ai vả lại chẳng thấy nhà cửa nên không phóng hỏa”. Khi đang nói chợt nghe một tràng cười dài, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đã xuất hiện, cười rằng: “Tôi tưởng là ai, té ra là các vị”. Đường Hiểu Lan cũng bước ra gặp gỡ mọi người, ai nấy đều mừng rỡ.
Lữ Tứ Nương nói: “Tháng trước Mang Sơn đã bị hỏa thiêu, bọn quan quân thấy trên núi không có ai, sau khi phóng hỏa đã bỏ đi. Lăng mộ sư phụ tôi vẫn nguyên vẹn, đúng là may mắn. Tôi liệu rằng Phùng Anh sẽ trở về nên một mình lên Mang Sơn đợi mọi người, không ngờ Hiểu Lan và Phùng Anh đến trước”.
Mọi người trò chuyện một hồi, Huyền Phong hỏi: “Nữ hiệp vừa từ kinh thành trở về, chắc có tin tức gì?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Tin tức thì có nhưng chắc là mọi người đã đoán ra”. Huyền Phong nói: “Có phải Niên Canh Nghiêu bị xử tử không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế. Sau khi Niên Canh Nghiêu bị áp giải về kinh, tấu chương vạch tội của tướng quân thành Hàng Châu Lục Hổ Thần cũng được dâng lên, đúng là dậu đỗ bìm leo, các đại thần trong triều đều dâng sớ hạch tội Niên Canh Nghiêu, tính ra y có chín mươi hai tội!” Phùng Lâm lè lưỡi kêu: “Ồ, nhiều đến thế ư!” Lữ Tứ Nương nói: “Ung Chính đích thân ra chỉ dụ, bảo rằng y có năm tội đại nghịch, chín tội khi quân, mười sáu tội lạm quyền, ba mươi tội cuồng vọng, sáu tội ngang ngược, mười tám tội tham ô, sáu tội đố kỵ, mười lăm tội đục khoét, bốn tội tàn nhẫn, vì thế Ung Chính đã ra lệnh xử trảm Niên Canh Nghiêu”.
Sau khi giết Niên Canh Nghiêu, Ung Chính sợ có thích khách hành thích, không những cho canh phòng nghiêm ngặt hơn mà còn cấm ngặt cả những hoạt động trong cung, hàng đêm phải thay đổi chỗ ngủ, lúc nào cũng lo lắng đề phòng.
Nhưng là một Hoàng đế như thế thật đau khổ. Hơn nửa năm sau, Ung Chính thấy yên bình chẳng có việc gì nên định cấm thả lỏng, thời gian qua mau, đông đi thu đến, đã đến ngày tết, trong chớp mắt lại đến tết nguyên tiêu, mẹ ruột của Ung Chính vốn là một phi tử của Khang Hy, nay đã là thái hậu. Nửa năm qua ngồi bó gối trong cung, rất khó chịu, nhân lúc nguyên tiêu sắp đến lại liền bỏ Ung Chính bỏ lệnh cấm. Ngoài các nhạc sư cung đình, có thể gọi thêm cao thủ giáp vườn bên ngoài vào diễn, lại còn cho phép các bối lạc thân cận đến góp vui. Ung Chính nghĩ, những người có thể đối chọi với mình đều đã bị trừ, những kẻ còn lại không dám hai lòng, thế là bỏ lệnh cấm. Tin tức này rất bí mật, đến trước đêm nguyên tiêu mới báo cho các bối lạc biết. Điều đó khiến một người mừng hơn.
Người này chính là thân vương Dận Anh, con thứ mười sáu của Khang Hy. Y là huynh đệ cùng cha cùng mẹ với Ung Chính, trong số các bối lạc, tuổi tác nhỏ nhất, cho nên khi Khang Hy còn sống, y không tranh giành ngôi báu cho nên giữ được mạng.
Dận Anh trẻ tuổi thích chơi bời, cũng thích luyện võ, một tháng trước, có người tiến cử một võ sư cho y, người võ sư này thân hình bình thường, mặt mũi không có gì lạ, Dận Anh không tin y có bản lĩnh, nhất thời nổi hứng tỉ thí với y, quyền cước vừa mới chạm vào người y đã bị y quật ngã. Người ấy tự xưng là Đường Long, không những tinh thông võ công mà còn giỏi các tạp nghệ, Dận Anh rất thích, giữ luôn y trong phủ. Ung Chính bỏ lệnh cấm, Dận Anh hỏi Đường Long có trò gì hay không, Đường Long đáp: “Có, có!” rồi lập tức trổ tài. Dận Anh thích lắm, Đường Long lại bảo phải mời thêm vài trợ thủ, Dận Anh cũng chấp nhận.
Trong đêm nguyên tiêu, cấm thành treo đèn kết hoa, cực kỳ náo nhiệt, trong ngự hoa viên đã dựng hí đài, các hoàng thân quốc thích ngồi xung quanh, bên hí đài còn bắt một khán đài, Ung Chính và các phi tần cùng thái hậu ngồi trên đài thưởng thức.
Thái hậu rất thích các loại tạp kỹ, hễ thấy trò nào hay là thưởng tiền, đến khi đám người của Dận Anh lên đài, thái hậu càng vui hơn, cười nói với Ung Chính: “Tiểu đệ của con xưa nay thích bày trò, xem thử hắn có gì hay?”
Chỉ thấy đám người ăn mặc lòe loẹt lên đài, thái hậu hỏi: “Diễn tuồng gì mà ăn mặc kỳ quặc đến thế?” Dận Anh trả lời: “Không phải diễn tuồng mà là tạp kỹ”. Ung Chính giật mình, nhưng thấy hai người đứng trên đài, kéo tay so vai, một người nhảy lên, hai chân đạp lên hai vai của hai người này, một người nữa lại nhảy lên vai của người lúc nãy, Ung Chính nói: “Công phu của bọn người này thật giỏi...” nói chưa dứt lời, chỉ thấy một hán tử người thấp bé cuối cùng nhảy vọt lên, trên đầu đặt một cái bát nước, hai tay cũng cầm hai cái bát nước, y hơi nghiêng người, nước trong ba cái bát sánh ra ngoài, chứng minh trong bát chứa đầy nước. Chỉ thấy y vung hai tay, hai cái bát nước bay lên không trung, lại ném vù ra hai sợi dây màu cuộn lấy bát nước trên không trung, không những bát nước trên đỉnh đầu chẳng rơi ra giọt nào mà cả hai bát nước trên không trung cũng hạ xuống đất không vãi ra một giọt nước.
Trong tiếng reo hò, người ấy lại múa sợi dây, hai bát nước bay lượn, càng lúc càng nhanh, thái hậu cao giọng khen hay, người ấy buông tay. Bát nước quay hai vòng trên đỉnh đầu của y, y lại đưa tay chụp đoạn giữa của sợi dây màu, vừa múa sợi dây vừa xoay bát nước, thái hậu khen liền miệng. Ung Chính ngưng thần nhìn kỹ, không hề reo hò, chợt hỏi Dận Anh: “Những người này vốn là trong phủ của đệ phải không?” Dận Anh đang ngưng thần xem, không kịp trả lời, chỉ thấy sợi dây chợt chuyển hướng trên không trung, xếp thành bốn chữ “Thiên hạ thái bình”, thái hậu mừng rỡ nói: “Đúng là thần kỹ, thưởng tiền!” thái giám liền vãi hai nắm bạc trên sân khấu, Ung Chính chợt kêu lên: “Bắt những kẻ này xuống tra hỏi!”
Bạc bay như mưa lên hí đài, người xem bên dưới lại reo hò ỏm tỏi, tiếng hét của Ung Chính khiến mọi người đều thất kinh, tiếng reo hò ngừng lại, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy hán tử người thấp bé vung sợi dây kêu vù một tiếng, hai luồng bạch quang bay tới như điện xẹt lướt vào mặt Ung Chính. Té ra trong sợi dây màu có giấu hai mũi trủy thủ.
Ung Chính đã đề phòng trước, sau khi quát một tiếng thì người đã lách vào trong đám phi tần, hai mũi trủy thủ đâm vào xương vai của hai ả phi tần, đột nhiên tiếng kêu kinh hãi vang lên, hoàng thái hậu bất tỉnh, các phi tần phát hoảng dồn vào nhau. Trong khoảng sát na này, hán tử lại vọt người lên, lao bổ lên khán đài như một con chim, ba bát nước đều tạt vào người Ung Chính, Ung Chính chẳng mở mắt ra nỗi, chỉ thấy một luồng hàn phong quét tới, khí lạnh căm căm, một thanh đoản kiếm bén ngót đã chạm vào lưng.
Nhưng trái lại Ung Chính rất lanh lẹ, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, y co hai tay kéo hai ả phi tần đẩy ra sau lưng mình, hán tử rút tay không kịp, thấy hai người phụ nữ yếu ớt đổ máu, vừa kinh vừa giận, quát lớn một tiếng rút kiếm lao bổ tới, Ung Chính đã phóng người lên lan can lầu.
Hán tử chính là Cam Phụng Trì. Chàng lẫn vào trong phủ Dận Trinh, khó khăn lắm mới chờ được cơ hội, nào có thể bỏ qua, biết rõ cực kỳ nguy hiểm nhưng cũng đuổi theo không rời.
Bốn người đi cùng Cam Phụng Trì chẳng phải ai khác mà chính là Đường Hiểu Lan, Lý Trị, Bạch Thái Quan và Ngư Xác. Họ chậm một bước, đã bị bọn lính dưới hí đài chặn lại, Cáp Bố Đà múa cây trùy Lưu Tinh, Hàn Trọng Sơn rút cây tị vân trợ, trong lúc gấp gáp, bọn họ chẳng thể nào xông ra được.
Đường Hiểu Lan nóng lòng, lia cây Du Long kiếm một vòng, kêu một tiếng, ánh lửa tóe ra, cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn đã bị chặt mất một mảng. Hàn Trọng Sơn nói: “Hừ, té ra là ngươi, phản nghịch thật lớn gan!” tuy Đường Hiểu Lan có kiếm bén nhưng công lực lại không đủ, bị y đẩy lùi hai bước. Một tên lính phía sau múa hỗn nguyên thiết bài bổ xuống đầu chàng, chợt bị Lý Trị đâm xéo một kiếm, cái thiết bài vọt khỏi tay bay ra, đánh trúng một tên khác.
Lý Trị lại múa tiếp thanh kiếm, đâm thêm hai tên lính nữa. Cáp Bố Đà múa chùy nghênh địch, Lý Trị dùng đoản kiếm nên không áp sát vào được, bị hai cái chùy Lưu Tinh của y dồn ép nên không thể thi triển thân thủ.
Bạch Thái Quan thấy Cam Phụng Trì đã phóng lên Thưởng âm các rồi mất dạng, cũng không nghe thấy tiếng chém giết, lại không thấy bóng người nên càng lo hơn. Chàng phóng ra mai hoa trâm, tuy đả thương được vài người nhưng Thiên Diệp Tản Nhân đã đuổi tới, vận chưởng lực dồn ép chàng. Đang lúc căng thẳng tột độ, chợt nghe thấy một tiếng kêu, chỉ thấy từ Thưởng âm các có người nhảy ra như sao sẹt, ngã xuống dòng Ngự Hà.
Bạch Thái Quan kinh hoảng kêu: “Không xong, thất ca bị hại!” chỉ nghe trên lầu vang lên tiếng cười ha hả, Ung Chính lại bước ra, cao giọng quát: “Cam Phụng Trì hôm nay đã bị giết, trẫm mở lượng khoan thứ, những kẻ phản nghịch còn lại nếu bỏ binh khí đầu hàng có thể miễn tội”. Ngư Xác cả giận quát: “Ai tin lời ngươi!” rồi vung đao chém tới, chặt một tên lính thành hai đoạn, khi vung tiếp đao thứ hai thì đã bị Hàn Trọng Sơn vung trợ chặn lại.
Ung Chính cười ha hả, kêu lớn: “Giết chết bọn phản nghịch cho trẫm!” chỉ nghe một tiếng “lãnh chỉ” trong Thưởng âm các lại có một người phóng ra, tay múa cây phất trần từ trên không đánh xuống, phất trần vừa triển khai, lập tức đã cuộn cây đao của Ngư Xác kéo lên không trung, Đường Hiểu Lan thất kinh, vẫy nhẹ cây Du Long kiếm, sử dụng tuyệt chiêu Đại Mạc Lưu Sa trong Thiên Sơn kiếm pháp, chỉ thấy khắp người toàn là kiếm quang, Ngạch Âm Hòa Bố đã biết kiếm của chàng lợi hại không dám đánh tới mà lướt ra phía sau Bạch Thái Quan thi triển đòn sát thủ!
Bạch Thái Quan xoay bước lướt qua một bên, chợt trở tay phóng tới một nắm Mai Hoa châm, ánh ngân quang loang loáng, toàn bay vào mặt của Ngạch Âm Hòa Bố, nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần lên một vòng, chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, toàn bộ số mai hoa trâm đã bị y cuộn mất.
Lý Trị thấy thế không xong, vung kiếm đâm vào hai mắt của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần, nào ngờ kiếm của Lý Trị rõ ràng là đâm vào bên trái nhưng chợt xoay một vòng đâm sang bên phải, Ngạch Âm Hòa Bố khom người mới tránh được. Lý Trị vung kiếm đâm tiếp, Thiên Diệp Tản Nhân bất ngờ phóng ra đẩy hai chưởng như sấm sét, Lý Trị bất đồ thoái lui hai bước, Ngạch Âm Hòa Bố vươn người quét phất trần đánh vù một tiếng chụp xuống đầu chàng.
Đang lúc nguy cấp, chợt nghe một tiếng quát trong trẻo từ trên không vọng xuống, Thiên Diệp Tản Nhân kêu: “Thượng nhân cẩn thận, ả tiện tì lại tới!” nói chưa dứt lời, ở góc ngự hoa viên lại có mấy người nữa phóng ra, nhìn kỹ lại thì ra đó là ba thiếu nữ, quần áo của các nàng phấp phới tựa như thiên tiên. Ba người này chính là Lữ Tứ Nương, Phùng Anh và Phùng Lâm.
Ngạch Âm Hòa Bố kêu mộ tiếng không xong, chạy đến chặn lại, Đường Hiểu Lan đã kêu lớn: “Ung Chính đang ở Thưởng âm các”. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân phóng vọt lên, chỉ trong chớp mắt đã lao lên lan can lầu, nhảy vào trong các, nhưng chẳng thấy ai, nàng vừa vào bên trong đã đánh một chiêu Dạ Chiến Bát Phương, lập tức đảo người vọt trở ra, tên bay tới như mưa nhưng vẫn bị nàng chặt gãy cả.
Phùng Anh và Phùng Lâm đi sau một bước, vừa vặn chạm phải Ngạch Âm Hòa Bố, Phùng Anh lia cây đoản kiếm nhanh như điện chớp, một chiêu hai thức, vừa điểm vào mặt, vừa đâm vào ngực của y, Ngạch Âm Hòa Bố xoay người theo kiếm thế, cây phất trần đánh xéo ra, tay phất trần chụp tới, y ra tay đến mức khó hình dung. Phùng Anh không hề lo lắng, nàng chỉ lấy tĩnh chế động, chỉ hơi lách người, kiếm quang chợt tỏa ra, liên tục dùng hai chiêu Lưu Tinh Cản Nguyệt, Phi Vân Ma Điện, cây kiếm của nàng đâm xuyên qua màng lướt của phất trần, xỉa vào huyệt Kỳ Môn dưới hông của y, Ngạch Âm Hòa Bố không ngờ kiếm pháp của Phùng Anh lại tinh thông như thế, phất trần vừa thu, chưởng lực đã phát ra ngoài, chỉ thấy ánh ngân quang lướt tới kêu lên vù vù, Phùng Anh liên tục dùng kình lấy nhu chế cương, cắt đứt một đoạn phất trần của Ngạch Âm Hòa Bố nhưng cũng bị chưởng lực của y đánh lảo đảo.
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Anh múa kiếm đâm vào huyệt Mệnh Môn của Ngạch Âm Hòa Bố. Ngạch Âm Hòa Bố thấy thế thất kinh, vội vàng vận nội gia chân lực đánh ra một chưởng hoành giá kim lương, toan đánh vỡ xương cổ tay của Phùng Lâm, nào ngờ Phùng Anh vừa đứng vững thì đã quét kiếm tới, nội công của Phùng Anh cao hơn Phùng Lâm, trong tay nàng lại có thanh bảo kiếm, Ngạch Âm Hòa Bố không dám đánh liều, chỉ đành vận chưởng đánh ngược về phía Phùng Anh, nội công của y cao hơn Phùng Anh, Phùng Anh cũng không dám tiếp, chỉ lách người lướt bước nhảy qua một bên, Ngạch Âm Hòa Bố đã định đuổi theo, Phùng Lâm lại đâm vào huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy của y, Ngạch Âm Hòa Bố tức đến nỗi kêu lên oai oái, nhưng chẳng làm cách nào, chỉ đành thu phất trần rút chưởng phòng thủ huyệt đạo.
Lúc này Lữ Tứ Nương đã nhảy ra khỏi Thưởng âm các, thấy Ngạch Âm Hòa Bố đang giằng co với chị em họ Phùng, liền múa kiếm xông vào bọn lính, lớn giọng quát: “Chạy mau, Ung Chính đã thoát”. Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp...” Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca đã mất tích, hôm nay chúng ta coi như thất bại”. Ngư Xác lúc này đã cướp được một cây hoa thương, lao về phía trước nói: “Được, giết được tên nào hay tên ấy, chúng ta báo thù cho Cam đại hiệp”. Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca chưa chắc gặp bất trắc. Chúng ta phải xông ra trước”. Nàng vừa nói vừa lia kiếm, bọn lính áp sát với nàng đều bị gãy chân què tay, đầu rơi máu chảy!
Hàn Trọng Sơn cả giận nhảy lên đánh ra một chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh bổ xuống đầu Lữ Tứ Nương, nàng lia xéo thanh kiếm dẫn cây trợ của Hàn Trọng Sơn ra ngoài, rồi trầm cổ tay xuống, kiếm chiêu lại phát ra, Cáp Bố Đà kêu: “Không xong!” rồi vội vàng múa cây truỳ đánh tới, nào ngờ Lữ Tứ Nương nhanh đến khó hình dung, chùy của Cáp Bố Đà rõ ràng là đã bổ vào đầu nàng, không ngờ nàng lại lách qua, cổ tay trầm xuống, thanh kiếm lướt xéo lên kêu soạt một tiếng, chém đứt hai ngón tay của Hàn Trọng Sơn, cây tị vân trợ bay ra trúng vào một tên lính, tiện đứt đôi người y.
Lúc này công lực của Lữ Tứ Nương đã cao hơn Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn không biết tưởng rằng nàng cũng như trước, thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương dù kiếm pháp tinh diệu, nhưng công lực cũng kém mình”. Nào ngờ y tính sai, phòng thủ sơ hở cho nên vốn có thể đánh được năm mươi chiêu, nào ngờ trong vòng ba mươi chiêu đã bị thương. Cáp Bố Đà thấy Hàn Trọng Sơn bị thương cả kinh xoay người bỏ chạy. Thiên Diệp Tản Nhân không dám ham đánh, chỉ đành hiểm hộ Hàn Trọng Sơn lui xuống.
Bọn Cáp Bố Đà vừa lui, bọn lính cũng chẳng dám đuổi theo, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh lao ra, Ngạch Âm Hòa Bố một tay khó vỗ nên kêu, cũng không dám đuổi theo, vội vàng bảo bọn lính cứu chữa những kẻ bị thương còn mình thì vào cung gặp Ung Chính.
Lúc này Ung Chính đã nấp trong mật thất, số là y phòng bị cực kỳ cẩn thận, đã sớm bày binh bố trận ở Thưởng âm các, lại sắp đặt cơ quan, đào địa đạo thông vào cung, còn bảo bọn Ngạch Âm Hòa Bố mai phục ở đây. Cam Phụng Trì trong lúc nóng lòng đã đuổi vào Thưởng âm các, trúng ám toán còn Ung Chính thì chạy ra khỏi địa đạo.
Ngạch Âm Hòa Bố vào trong gặp Ung Chính, khấu đầu thỉnh tội. Ung Chính nói: “Ngươi cứu giá có công, có đáng tội gì? Trẫm chỉ hận tên tiểu súc sinh Dận Anh dám cho người đến ám toán trẫm”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Tiểu thân vương chưa chắc có ý này”. Ung Chính nói: “Dù y hữu ý hay vô ý, không thể không phạt. Giờ đây thái hậu vẫn còn đang hôn mê, ngươi hãy mau đi gọi tên tiểu súc sinh đến, nếu không thái hậu tỉnh dậy lại ngăn cản”. Ngạch Âm Hòa Bố kêu vâng một tiếng, đang định lui ra, Ung Chính lại nói: “Ngươi hãy cho người đến Ngự Hà tìm kiếm, xem thử Cam Phụng Trì đã chết hay chưa!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Y đã bị trúng tên, lại trúng một chưởng của nô tài, rơi xuống Ngự Hà dù không chết cũng không thể vận nội công, lúc này trời đang lạnh có lẽ y không chống chọi được”. Ung Chính nói: “Tuy nói thế nhưng thấy xác trẫm mới yên lòng”. Ngạch Âm Hòa Bố lại vâng một tiếng, nói: “Hoàng thượng còn có dặn dò gì không?” Ung Chính nghĩ ngợi rồi chợt nói: “Dù có tìm được xác của Cam Phụng Trì hay không, ngươi cũng phải cho người phao tin Cam Phụng Trì đã bị chúng ta bắt sống”.
Sau một đêm, sáng mai Ung Chính hạ lệnh tra xét ở chín cửu vào thành Bắc Kinh, đồng thời phòng bị nghiêm ngặt hơn, cuối cùng chẳng bắt được một kẻ phản nghịch nào. Ung Chính đang lấy làm lạ, đến chạng vạng tối chợt có một tên nội giám vào báo: “Hầu Tam Biến xin gặp Hoàng thượng”.
Ngạch Âm Hòa Bố đứng một bên, nghe nói y cầu kiến thì chưng hửng, Ung Chính nói: “Gọi y vào”. Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Chỉ e có gian trá”. Ung Chính cười nói: “Trẫm đang muốn tương kế tựu kế, sợ gì gian trá”. Rồi hỏi nội giám: “Y thế nào rồi?” tên nội giám báo: “Y tự trói tay, xin gặp nội đình tổng quản, bảo rằng có việc cơ mật muốn bẩm với Hoàng thượng. Y còn mang theo một người bịt mặt, nghe nói bí mật là ở người này. Tổng quản không dám làm chủ, xin Hoàng thượng ra lệnh”. Ung Chính cười ha hả nói: “Gọi tất cả vào đây”.
Một lúc sau nội giám dắt Hầu Tam Biến và người che mặt vào, Ung Chính gằng giọng quát: “Hầu Tam Biến, ngươi còn có gan đến gặp ta sao?” Hầu Tam Biến dập đầu nói: “Nô tài đã biết lỗi, xin lấy công chuộc tội”. Ung Chính ừ một tiếng rồi nói: “Hay lắm! Trẫm xưa nay rộng lượng, nếu ngươi đã hối hận, trẫm sẽ cho ngươi một con đường sáng, nói đi!” Hầu Tam Biến nói: “Xin Hoàng thượng cho tả hữu lui ra”. Ung Chính cười lớn nói: “Ngươi tưởng ta là con nít ba tuổi sao?” Hầu Tam Biến nói: “Nếu Hoàng thượng nghi ngờ, xin hãy đâm thủng xương tỳ bà của nô tài”. Ung Chính nói: “Ngươi đã mau mắn như thế, ta cũng không cần đâm thủng xương tỳ bà của ngươi để ngươi khỏi tàn phế. Ngạch Âm Hòa Bố, hãy phế võ công của hai người này!” Ngạch Âm Hòa Bố vâng một tiếng, lấy ra một cây kim dài khoảng một thước, ánh ngân quang loang loáng, y chẳng nói chẳng rằng đâm lên người Hầu Tam Biến và người che mặt ba mũi châm, rồi lập tức bóp vào lưng của mỗi người một cái, Hầu Tam Biến loạng choạng suýt nữa ngã xuống, người che mặt cũng lảo đảo, trên trán hai người đều toát mồ hôi, Ung Chính mỉm cười nói: “Được, giờ đây các ngươi tuy tạm thời chịu khổ, nhưng miễn khỏi tàn phế, từ rày về sau các người sẽ sống yên phận. Các người thấy trẫm có rộng lượng hay không?” Hầu Tam Biến khấu đầu nói: “Nô tài tạ ơn”. Ung Chính phẩy tay nói: “Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi hãy ra ngoài”.
Ngạch Âm Hòa Bố lẳng lặng lui ra. Té ra Ngạch Âm Hòa Bố có một loại võ công độc môn có thể dùng ngân châm đâm vào huyệt qua lớp áo, khiến chân khí của kẻ địch phát tiết, dù võ công cao đến mức nào cũng không còn. Lúc trước Ngạch Âm Hòa Bố đã từng đâm Phùng Anh nhưng vì nàng mặc cái áo giáp nên không có hiệu quả, bởi vậy lần này đâm huyệt xong lại bóp vào lưng của hai người xem thử họ có còn võ công hay không.
Ung Chính đợi Ngạch Âm Hòa Bố ra khỏi mật thất, lập tức nói: “Ngươi có chuyện cơ mật gì nói cho trẫm nghe”. Hầu Tam Biến nói: “Cơ mật là ở người này”. Rồi đưa tay rồi kéo khăn bịt mặt của người bên cạnh, nói: “Hoàng thượng có còn nhận ra người này không?” Ung Chính mỉm cười nói: “Ta tưởng là ai, té ra là Đường Hiểu Lan, Đường hiệp sĩ, chúng ta là bằng hữu!” Hầu Tam Biến nói: “Hoàng thượng có biết lai lịch của Đường Hiểu Lan không?” Ung Chính lại mỉm cười nói: “Tại sao không biết? Nói ra chúng ta không chỉ là bằng hữu mà còn là huynh đệ ruột thịt! Ngươi đã biết lai lịch của mình, vậy nên ở trong cung hưởng phước, đừng theo bọn người Hán làm càn nữa”. Đường Hiểu Lan và Hầu Tam Biến đều chưng hửng, trong nhất thời nói không ra lời.
Số là Khang Hy chết đi, Ung Chính lục tìm các bí mật của ông ta, phát hiện trong nhật ký có một đoạn nói về Đường Hiểu Lan, lại còn bảo chàng là người có nhân phẩm tốt nhất trong mười mấy người con.
Đường Hiểu Lan nghiến răng, lớn giọng mắng: “Hầu lão tặc, ta bị ngươi lừa bắt vào cung, ta hận không ăn tươi nuốt sống ngươi!” Ung Chính mỉm cười nói: “Ngươi đúng là cổng rắn cắn gà nhà, bọn người Hán làm càng ở đâu? Trẫm sẽ lập tức nhận ngươi làm hoàng đệ, phong ngươi làm thân vương”. Đường Hiểu Lan im lặng, Ung Chính lại nói: “Trong thiên hạ có ai dám chống lại lệnh trẫm? Ngươi có biết kết quả của Dận Đường và Dận Nga không? Bọn họ chạy ra khỏi cung, bị trẫm bắt về, lúc này xương cốt đã hóa thành tro bụi, ngươi có muốn giống như bọn chúng không?” rồi lớn giọng kêu: “Ngạch Âm Hòa Bố!” sau đó lại mềm mỏng mỉm cười: “Ngươi muốn trở thành thân vương hay muốn xương cốt tiêu tan, cứ chọn đi!”
Đường Hiểu Lan cúi đầu có vẻ như đang suy nghĩ, rất lâu sau mới ngẩng đầu nói: “Được, ta nói, ở đây có một danh sách, ta đưa cho ngươi”. Ung Chính bước tới mấy bước, đưa tay nói: “Đưa đây!” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đường Hiểu Lan chợt vung tay chụp lấy cổ tay của Ung Chính, Ung Chính cũng rất lợi hại, chân phải giở lên thi triển liên hoàn vô ảnh cước của phái Thiếu Lâm đá vào hông chàng, nếu bị đá trúng, Đường Hiểu Lan không chết cũng bị thương. Khi Đường Hiểu Lan ra tay, Hầu Tam Biến cũng nhảy lên, cú đá này trúng ngay vào đầu, lập tức bể đầu mất mạng. Nhưng Ung Chính đã bị Hầu Tam Biến cản lại, Đường Hiểu Lan lập tức vung tay điểm trúng huyệt đạo của y. Ung Chính vừa giở chân trái lên đã mềm nhũn.
Té ra Hầu Tam Biến và Đường Hiểu Lan sử dụng khổ nhục kế. Sau khi đại náo đại hoa viên, Hầu Tam Biến âm thầm điều tra, nghe được lời đồn, tưởng rằng Cam Phụng Trì đã bị bắt. Mọi người bàn bạc tìm cách cứu chàng, cho nên Hầu Tam Biến đã nghĩ ra kế khổ nhục mạo hiểm vào cung chuẩn bị bắt Hoàng đế.
Trên mình Đường Hiểu Lan mặc áo giáp tơ vàng mượn của Phùng Anh, sau khi bị Ngạch Âm Hòa Bố đâm kim vào, lập tức vận dụng nội công thượng thừa rút kình lực lại, làm cho mồ hôi tuôn ra, Ngạch Âm Hòa Bố và Ung Chính đã bị chàng qua mặt, còn Hầu Tam Biến thì đã mất võ công thực sự, liều chết chặn một cước cho Đường Hiểu Lan.
Hai bên động thủ nhanh như điện chớp, khi Ngạch Âm Hòa Bố xông vào, Ung Chính đã bị Đường Hiểu Lan chế phục chẳng thể động đậy nỗi. Ngạch Âm Hòa Bố kinh hãi, chỉ thấy kiếm của Đường Hiểu Lan đã kề vào cổ Ung Chính, y sợ ném chuột bể đồ nên không dám tiến tới trước.
Trái lại Ung Chính rất chấn tĩnh, chợt cười ha hả nói: “Hiểu Lan, ngươi giỏi lắm! Ta đã sớm đoán được các ngươi sẽ sử dụng kế khổ nhục, nhưng không ngờ ngươi có mang theo bảo vật phòng thân. Ta đã thua, các người muốn gì cứ nói ra!”
Đường Hiểu Lan lớn giọng nói: “Hãy thả Cam đại hiệp ra!” Ung Chính nói: “Được, mạng trẫm đổi mạng của Cam Phụng Trì cũng đáng lắm. Ngạch Âm Hòa Bố, hãy trả Cam Phụng Trì cho bọn chúng”. Ngạch Âm Hòa Bố vâng lệnh lui ra, quả nhiên một lát sau dắt theo một người, đầu bịt khăn xanh chỉ để lộ ra nửa mặt, Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Cam Phụng Trì bị thương trên đầu, vốn là phải nghỉ ngơi. Nếu y có gì bất trắc, chớ trách ta không nói trước”.
Đường Hiểu Lan nheo mắt nhìn, dưới ánh đèn vàng vọt, chỉ thấy người này thân hình cao ngũ đoản, tuy bị thương nhưng hai mắt rất có thần, quả nhiên đó là Cam Phụng Trì. Đường Hiểu Lan gọi: “Cam đại ca”. Người ấy trả lời: “Đường hiền đệ”, giọng nói nghe rất nhỏ, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Y đã bị trọng thương, lại uống nhiều nước lạnh, chả trách nào tiều tụy như thế”. Đang định bước đến xem thử vết thương của Cam Phụng Trì, lại sợ Ung Chính bỏ chạy, nói: “Ngươi phải đưa bọn ta ra khỏi cung từ Thần Võ môn. Bọn ta ra khỏi cửa sẽ lập tức thả ngươi”. Ung Chính nói: “Nhưng bọn chúng có chịu hay không? Ngoài Thần Võ môn chắc còn nhiều đồng bọn của ngươi. Bọn chúng đang muốn ăn tươi nuốt sống trẫm, ngươi có thể quyết định được sao?” Đường Hiểu Lan tức giận nói: “Bọn ta không giống ngươi, chỉ làm chuyện lừa bịp. Quân tử nhất ngôn...” Ung Chính tiếp lời cười nói: “Xe bốn ngựa khó đuổi. Được, trẫm đã từng đi lại trên giang hồ, chúng ta cứ làm theo quy củ trên giang hồ”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi bảo một tên nội giám đỡ Cam đại hiệp đi trước, bọn Ngạch Âm Hòa Bố không được đi bên cạnh”. Ung Chính cười nói: “Ngươi đúng là đa nghi”. Rồi nháy mắt bảo: “Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi hãy ra ngoài đi”. Đường Hiểu Lan lại nói: “Các người không làm được làm càng, nếu ngươi bảo Ngạch Âm Hòa Bố ra Thần Võ môn tra xét, làm hại người của bọn ta, đừng trách ta vô tình”. Ung Chính vẫn ung dung cười lạnh: “Có thực không? Trẫm đã bị ngươi kiềm chế, lẽ ra ngươi không nên đa nghi như thế”.
Nội giám đưa người ấy đi ở phía trước, Đường Hiểu Lan dùng kiếm kề lên cổ Ung Chính, từ nội viện đi đến Thần Võ môn, được nửa canh giờ quả nhiên chẳng thấy ai tra xét.
Trên đường đi Cam Phụng Trì cũng quay đầu lại nhìn mấy lần, trong mắt đầy vẻ cảm kích, ra đến Thần Võ môn, Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp, huynh có thể đi được hay không?” Cam Phụng Trì vung tay tóm tên nội giám ném qua một bên, Đường Hiểu Lan mừng rỡ nói: “Cam đại hiệp bị trọng thương mà võ công vẫn còn”. Thần Võ môn chậm rãi mở ra, Đường Hiểu Lan nói: “Đại hiệp đến đây vịn một bên vai của tôi, Lữ tỉ tỉ đang ở trên Cảnh Sơn, chúng ta ra khỏi cửa này, tỉ ấy sẽ ra tiếp ứng”. Ung Chính nói: “Các người chưa chịu thả trẫm sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Ra khỏi đây rồi tính tiếp”. Cam Phụng Trì xoay người, bước đến gần Đường Hiểu Lan, hai tay vịn vai chàng, Đường Hiểu Lan thấy trong lòng chua xót, nghiêng người cho Cam Phụng Trì dựa vào, đang định lên tiếng an ủi, chợt thấy vai đau nhói, cổ tay cầm kiếm đã bị Cam Phụng Trì giật ra, Đường Hiểu Lan kinh hãi kêu: “Cam đại hiệp, huynh làm gì thế?” chỉ nghe người ấy quát: “Ai là đại ca của ngươi!” rồi một tay bóp vai, một tay bẻ cổ tay của Đường Hiểu Lan, Ung Chính cười ha hả vọt người ra, khi người ấy áp sát vào đã dùng cùi chỏ giải huyệt đạo cho y.
Người ấy đâu phải là Cam Phụng Trì mà chính là một tên thị vệ trong cung, vì thân hình thấp bé như Cam Phụng Trì cho nên Ung Chính mới bảo y giả dạng chờ sẵn, vì Đường Hiểu Lan không quan sát kỹ càng nên bị y lừa.
May mà tên thị vệ này không phải là ca bu mà là nhất lưu, Đường Hiểu Lan tuy bị y bóp trúng vai nhưng vẫn có thể vùng vẫy được.
Ung Chính thoát thân, kêu lớn: “Mau đóng cửa thành!” bọn Ngạch Âm Hòa Bố, Hàn Trọng Sơn, Cáp Bố Đà từ trong xó tối nhảy ra, té ra bọn chúng đã mai phục sẵn từ lâu.
Đường Hiểu Lan ôm người ấy lộn xuống đất, rồi vùng ra vung kiếm chém đứt người ấy thành hai đoạn, chỉ thấy Cáp Bố Đà vung Lưu Tinh chùy đánh tới, cánh cửa sắt của Thần Võ môn đã dần dần đóng lại.
Đường Hiểu Lan liều mình vung kiếm lao tới, chợt nghe ối chao một tiếng, người đóng cửa thành tựa như bị trúng ám khí ngã xuống, Ngạch Âm Hòa Bố và Hàn Trọng Sơn vội vàng nhảy lên tường thành, chỉ nghe một tiếng huýt sáo lanh lảnh, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh cùng Phùng Lâm từ bên ngoài nhảy vào, Quan Đông tứ hiệp cũng xông vào. Ngạch Âm Hòa Bố vung phất trần chặn kiếm của Lữ Tứ Nương, quát: “Mau đóng cửa thành!” Hàn Trọng Sơn tay trái cầm tị vân trợ phòng thân, tay phải đè vào cái then bằng sắt, Quan Đông tứ hiệp đã xông vào trong, Phùng Anh và Phùng Lâm cũng nhảy đến bên cạnh Đường Hiểu Lan.
Trên thành tên bắn xuống rào rào, binh lính mai phục trong vườn cũng ùa ra, không những tên bắn mà còn có cả ống phun lửa của bọn Lạt ma Hồng giáo.
Mọi người vừa phải tránh tên vừa phải tránh ống phun lửa nên tình thế rất nguy hiểm. Phùng Anh hỏi: “Huynh chạy ra được không?” Đường Hiểu Lan lắc đầu. Lúc này cái then sắt đã rơi xuống, trên đầu tường lại có vô số cung tiễn thủ và câu liêm thủ, trong số Quan Đông tứ hiệp, ngoại trừ Huyền Phong đại nhân và Liễu Tiên Khai, khinh công hai người còn lại kém hơn, e rằng không thể thoát ra được.
Lữ Tứ Nương vung kiếm múa tiếp, đánh Ngạch Âm Hòa Bố khiến y chỉ có nước chống đỡ, Phùng Lâm vung tay, ba mũi độc mệnh thần đao bay về phía Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn thấy phi đao bay tới đành lách người qua. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Trần Nguyên Bá nhảy vào cửa thành, hai tay từ từ nâng cánh cửa lên. Huyền Phong cùng bọn Phùng Anh và Lang Nguyệt đánh lui bọn thị vệ bên cạnh, nhất tề xông ra. Phùng Lâm không ngừng phóng phi đao khiến Hàn Trọng Sơn không thể cài cái then sắt lại.
Nhưng Phùng Lâm chỉ mang theo hai mươi bốn mũi phi đao, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh chạy cuối cùng, đến bên cửa phi đao của Phùng Lâm đã hết. Hàn Trọng Sơn cười hềnh hệch, vung tay kêu vù một cái, hai cái hồi hoàn đao đồng thời bắn ra bay về phía Phùng Anh và Đường Hiểu Lan, hai người Đường Phùng phải lách người, trong khoảng sát na này, Hàn Trọng Sơn đè cái then sắt xuống, Trần Nguyên Bá trán nổi gân xanh, kêu lớn: “Chạy mau!” Phùng Anh và Đường Hiểu Lan vung hai kiếm lên, cái hồi hoàn câu không bay ra được, lập tức bị chặt thành bốn đoạn. Cả hai người phóng vọt lên, lướt qua bên cạnh Trần Nguyên Bá, chỉ nghe a một tiếng, hai tiếng kêu thảm vang lên, Đường Hiểu Lan quay lại nhìn chỉ thấy Lữ Tứ Nương xách một cái đầu người, chạy theo phía sau kêu: “Chạy mau!” chính là:
Đại nội phi đầu khó giải hận, nhạn bay dãy tránh đau lòng hơn.