Hai mươi lăm năm về trước.
Một ngày mưa phùn.
Dưới chiếc ô đen bị phủ kín bởi những giọt nước mưa mùa đông lạnh buốt, người mẹ với mái tóc đen dài buộc gọn đằng sau dắt tay cậu bé bốn tuổi từng bước chầm chậm tiến về căn biệt thự cổ kính nằm trên đỉnh ngọn đồi bao quanh bởi rừng cây xanh rậm rạp.
– Mẹ ơi, cái nhà to kia là nhà của ông nội hả mẹ? – Cậu bé hỏi bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu, giọng trong veo không giấu nổi sự háo hức.
– Ừm… – Người mẹ hiền dịu nở một nụ cười.
– Oà, to quá! – Cậu bé trầm trồ. – Vậy chắc giường nhà ông phải to gấp đôi giường nhà mình mẹ nhỉ!
Người mẹ nghiêng chiếc ô về phía trước cố tránh những hạt mưa vừa đổi chiều, dịu dàng hỏi:
– Con có thích không?
– Thích, thích chứ! Vậy thì lúc ngủ con có thể lăn thoải mái mà không sợ bị rơi xuống đất. – Mắt cậu bé sáng lên. – Nhưng mẹ yên tâm, dù giường to thế nào thì con vẫn sẽ ôm chặt mẹ không rời.
Người mẹ không nói gì, đáy mắt ánh lên một sự đau đớn không thể diễn tả bằng lời.
Chẳng mấy chốc hai mẹ con đã đến cửa lớn của dinh thự. Người mẹ nắm lấy thanh móc sắt trên cánh cửa gỗ đập đập ba tiếng. Chỉ một phút sau cánh cửa hé mở, người quản gia trẻ tuổi trong bộ đồng phục đen trắng dường như đã đợi hai mẹ con từ lâu, lịch sự cúi đầu chào. Người mẹ gật đầu chào lại rồi ngồi xuống nắm lấy tay cậu con trai:
– William, con theo anh vào nhà gặp ông nội đi.
– Còn mẹ thì sao? – William ngơ ngác hỏi.
Người mẹ lặng yên một hồi như cố nén những giọt nước mắt chực chảy ra.
– Mẹ có chút chuyện cần làm, sẽ vào sau.
– Vậy mẹ làm xong chuyện đi rồi hai mẹ con mình cùng vào gặp ông. – Cậu bé ngây thơ lắc lắc tay mẹ mình.
– Nghe lời mẹ, William. – Bàn tay người mẹ trẻ vuốt nhẹ mái tóc mềm mại hơi rủ xuống vì nước mưa của cậu bé.
Cậu bé đắn đo rồi khẽ gật đầu ra vẻ người lớn dặn dò:
– Vậy mẹ đừng lâu quá đấy nhé. Con sẽ đợi mẹ ở trong.
Anh quản gia dù không biết tiếng Việt, nhưng nhìn cử chỉ của hai mẹ con cũng đoán được cậu bé đã đồng ý vào trong. Anh nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của William dẫn đi. Cậu bé miễn cưỡng bước theo, đầu liên tục ngoái lại nhìn bóng hình của mẹ mình khuất dần sau cánh cửa.
Vẻ đẹp lộng lẫy của toà nhà nhanh chóng đóng chiếm tâm trí khiến nỗi lo sợ vơi dần. Trong suốt bốn năm cuộc đời, cậu chưa từng nhìn thấy nơi nào to và đẹp như nơi này, gần giống lâu đài của công chúa hoàng tử trong các câu truyện cổ tích mà mẹ vẫn đọc cho cậu nghe mỗi tối trước khi đi ngủ. Dọc hành lang treo đầy những khung tranh lớn đủ thể loại chủ đề từ phong cảnh, chân dung cho tới tĩnh vật. Chùm đèn pha lê sang trọng trên trần nhà tỏa ra một thứ ánh sáng vàng lóng lánh huyền ảo. Những bình hoa rực rỡ màu sắc ở khắp mọi nơi mang đến mùi thơm đồng nội thoang thoảng quyến rũ.
Anh quản gia dẫn cậu lên tầng trên, sau khi bước qua không biết bao nhiêu là cửa, cuối cùng cũng dừng lại ở một cánh cửa đóng hờ. Anh đưa tay gõ nhẹ rồi mở cửa bước vào. William đứng thậm thụt ở phía sau lén ngước đầu quan sát căn phòng. Đôi mắt trong veo dưới hàng lông mi dài cong vút mở to tròn đầy thán phục khi nhìn thấy giá sách khổng lồ đầy ắp những cuốn sách dày cộp chen chúc nhau bao phủ cả bốn bức tường. Một người đàn ông lớn tuổi đeo kính, mái tóc vàng óng ả đã lấm tấm bạc, ngồi tại bàn làm việc lớn giữa phòng. Gương mặt ông lạnh lùng không biểu lộ cảm xúc. Ông đưa mắt nhìn xuống William qua tròng kính một lúc, rồi cất tiếng hỏi:
– Có hiểu tiếng Anh không?
Chất giọng trầm vang đầy uy quyền khiến William hơi co người vì sợ. Cậu khẽ gật gật đầu.
– Từ giờ trở đi cậu sẽ ở đây với ta. – Ông tiếp tục nói, vẻ mặt nghiêm nghị lạnh lùng vẫn không đổi.
– Mẹ cháu sẽ vào bây giờ ông ạ. – William vội vã nói. – Mẹ cháu và cháu sẽ…
Không để William nói hết câu, giọng nói của ông sắc lạnh như một lời ra lệnh:
– Người phụ nữ đó không còn là mẹ cậu nữa.
– Ông nói thế nghĩa là thế nào? – Cảm thấy có điều không ổn, William run rẩy. – Ông để cháu ra tìm mẹ cháu vào.
Đôi mắt nghiêm khắc vẫn không rời cậu bé:
– Sẽ không tìm thấy đâu. Cô ta đi rồi.
– Ông nói dối! – William hét to, hai bàn tay nắm chặt lại, đôi mắt ầng ậng nước. – Mẹ bảo sẽ vào gặp cháu.
Nói rồi cậu xoay người chạy hộc tốc ra ngoài, qua dãy hành lang dài, xuống cầu thang gỗ về phía cửa chính. Cậu dùng hết sức bình sinh mở toang cánh cửa gỗ nặng trịch to gấp ba, gấp bốn lần cơ thể nhỏ bé của mình.
– Mẹ ơi! – Cậu gọi to khi cánh cửa bật mở.
Mưa vẫn rơi…
Nhưng mẹ đã không còn ở đó.
– Mẹ ơi, mẹ đâu rồi? – Cậu hoang mang chồm ra phía cửa.
Nhưng trước khi cậu kịp chạy ra ngoài, anh quản gia đã đuổi tới nơi ôm cậu nhấc bổng lên.
– Anh bỏ tôi ra. – William giẫy giụa liên tục đấm vào người anh. – Mẹ tôi đang đợi ở bên ngoài.
Anh quản gia làm như không nghe thấy tiếng la hét, nhanh chóng đóng cánh cửa chính lại ngăn những cơn gió lạnh thổi thốc vào bên trong toà nhà.
– Mẹ ơi, đừng bỏ con! – William hét lên thật to như hi vọng mẹ ở bên ngoài sẽ nghe thấy. Nước mắt nước mũi giàn giụa trên gương mặt tái nhợt. – Con sai rồi… Con xin lỗi mẹ… Con không thích giường to đâu… Con chỉ cần mẹ thôi… Mẹ ơi…
Không có tiếng đáp trả. Chỉ có tiếng gió rít lên từng cơn bên ngoài. Đêm đó William đã khóc đến khi mệt lả và thiếp đi trong làn nước mắt.
Phải đến mãi sau này cậu mới hiểu vì sao mẹ lại không thể vào cùng cậu đêm đó. Ông nội cậu, huân tước Charles Henderson, là thượng nghị sỹ quốc hội, thuộc vào hàng thượng lưu dòng dõi quý tộc. Vợ mất sớm, một mình ông nuôi nấng hai người con trai: Con lớn Richard, sau này trở thành bố nuôi của William, và con thứ Edward, bố ruột của anh. Trái với người cha luôn tự hào hãnh diện về nguồn gốc tổ tông, hai cậu con trai lại mang trong mình tư tưởng tân tiến của thời đại, chán ghét sự phô trương trưởng giả của xã hội thượng lưu. Người con trai lớn, Richard, học thành bác sỹ với ước mơ trị bệnh cứu người ở những nơi xa xôi nghèo khó. Còn người con thứ, Edward, học ngành chính sách công khao khát mang đến sự công bằng bình đẳng cho xã hội.
Trong những tháng ngày ngồi ghế giảng đường, Edward làm rất nhiều các công việc tình nguyện khác nhau. Một trong số đó là dạy học tiếng cho những người tị nạn. Ở trung tâm cứu trợ tị nạn, Edward tình cờ gặp Ái Lan, một cô gái trẻ người Việt được chấp nhận vào Anh Quốc theo dạng tị nạn chiến tranh. Anh dạy cô học tiếng, hướng dẫn cô đăng ký học nghề. Rào cản về ngôn ngữ và văn hoá không ngăn được tình cảm chớm nở và mỗi lúc một mạnh mẽ hơn. Ngày Edward tốt nghiệp đại học cũng là ngày anh mang nhẫn cầu hôn người con gái Việt hồn hậu từ lần đầu gặp mặt đã chiếm trọn trái tim và tâm hồn anh. Trong sự vui sướng tột độ, Ái Lan đã gật đầu đồng ý.
Tuy nhiên niềm vui đến không được trọn vẹn. Là một người coi trọng dòng dõi gia phả, huân tước Charles Henderson không đời nào chấp nhận một cô gái tị nạn ngoại quốc da vàng không rõ nguồn gốc, cũng chẳng có bằng cấp nghề nghiệp tử tế, làm con dâu. Trước sự ngăn cấm kịch liệt của cha, Edward dẫn Ái Lan chạy trốn về một vùng quê xa xôi hẻo lánh cùng nhau chăm chút cho gia đình nhỏ. Cuộc sống mặc dù thiếu thốn về vật chất nhưng luôn ngập tràn hạnh phúc tiếng cười. Trớ trêu thay, Edward mệnh yểu, qua đời sau một cơn bạo bệnh, để lại đứa con trai, William, mới tròn một tuổi cho người vợ trẻ một mình nuôi nấng. Đến khi William lên bốn tuổi thì mẹ dẫn cậu tới gặp ông nội. Và từ đấy trở đi cậu không bao giờ gặp lại mẹ nữa.
Anh trai của bố William, ông Richard, cùng vợ, là bà Sue, nhận nuôi cậu không lâu sau khi cậu đến ở chỗ ông nội. Họ hết lòng yêu thương bảo bọc cậu, và không hề có ý định có con cái của riêng mình. Đến tận bây giờ William vẫn không rõ nguyên do đơn giản là vì họ không muốn có thêm con, hay cũng vì lo nghĩ cho cảm giác của anh.
Mối quan hệ với bố mẹ nuôi tốt bao nhiêu, thì mối quan hệ với ông nội xấu bấy nhiêu. Dường như có một khoảng cách vô hình không thể vượt qua được. Ông chưa bao giờ cười với William. Ánh mắt luôn nghiêm khắc lạnh lùng như cái lần đầu tiên gặp cậu. Đừng nói tới nắm tay, vuốt tóc, thậm chí ông còn chưa bao giờ động vào cậu, như thể trên người cậu mang một thứ bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Mà cũng có thể chính dòng máu Á Đông nóng chảy trong cơ thể cậu là thứ bệnh nguy hiểm nhất.
Năm William bảy tuổi, bố mẹ nuôi gửi cậu tới học ở trường cấp một gần nhà. Trong những thập niên tám mươi, ở tỉnh lẻ xa xôi này nơi phần lớn dân cư thuộc vào tầng lớp khá giả, người nhập cư gần như không có. William, mặc dù có nước da trắng không khác gì người gốc Anh, nhưng đôi mắt và mái tóc khi ấy tối màu hơn rất nhiều so với bây giờ, cộng thêm vẻ Á Đông huyền bí pha trộn trên từng đường nét, không khó để nhận ra sự khác biệt với những đứa trẻ mắt xanh tóc vàng xung quanh. Sự khác biệt này mang đến rất nhiều phiền phức.
Cậu đã quá quen với những ánh mắt tò mò lén liếc nhìn, những tiếng xì xầm bàn tán ở bất cứ nơi nào cậu đi đến. Giờ ăn trưa, mỗi khi cầm khay đồ ăn bước tới thì lũ học sinh lại tản ra tránh né như thể cậu là một sinh vật lạ. Bút thước tự dưng không cánh mà bay đã trở thành chuyện hàng ngày. Bị ngáng chân, bị đẩy ngã tới chảy máu đầu gối cũng không phải ít. Thỉnh thoảng cậu còn tìm thấy những mẩu giấy gấp làm tư trong ngăn bàn với lời lẽ độc địa: “Đồ lạc loài”, “Đồ cặn bã”, “Đồ quái dị”… và thậm chí “Chết đi”.
Mỗi lần như vậy, William luôn yên lặng chịu đựng. Không phải vì cậu sợ chúng nó, mà vì cậu sợ ông. Nếu sự phản kháng làm to chuyện đến tai ông nội, ông sẽ chỉ ghét cậu hơn mà thôi.
Cho đến một hôm…
William ôm cặp sách đi thật nhanh qua hành lang tới lớp học như mọi ngày, cố tránh những cái nhìn hướng về phía mình. Bỗng ba thằng nhóc con đầu tóc chải chuốt, giầy tất bóng lộn không biết từ đâu nhảy ra chặn đường. William đứng sững lại. Cậu vừa nhìn đã biết chẳng phải chuyện hay ho gì, liền quay đầu tính bỏ đi. Chưa đi được bước nào thì hai trong số ba thằng nhóc đã chạy ra phía sau tạo thành rào cản.
Thấy không thể thoát được, William quay người đối mặt với thằng nhóc mái lệch mà cậu đoán là thằng đầu trò:
– Chúng mày muốn gì?
Ba thằng lại dàn thành một hàng. Chúng gườm gườm cậu một lúc. Cuối cùng thằng mái lệch ở giữa lên tiếng:
– Tao nghe mẹ tao nói mày là thằng mồ côi, không cha không mẹ?
Ở cái tỉnh nhỏ nơi mà không có chuyện gì mà giấu được tai mắt thiên hạ, William khá ngạc nhiên là đến tận bây giờ mới có đứa lôi điều này ra hạch sách cậu. William không trả lời, kinh nghiệm cho thấy im lặng là vàng, càng nhiều lời càng phát sinh rắc rối.
– Mẹ mày là người ngoại quốc da vàng? – Thằng bên phải chêm vào, hỏi theo kiểu muốn sinh sự hơn là muốn nghe câu trả lời.
William vẫn im lặng.
– Thể nào mà mày trông thật quái dị. – Thằng bên trái gật gù ra vẻ thông hiểu.
– Có khi mẹ mày bỏ rơi mày cũng là vì cái bộ dạng kỳ quái này của mày. – Thằng ở giữa nhếch mép cười độc địa.
Lần này thì William không thể giả vờ không nghe thấy. Sự đau đớn dằn vặt mà cậu cố chôn giấu trong sâu thẳm bỗng trào lên cuồn cuộn như sóng vỡ bờ. Tại sao ngày đấy mẹ lại bỏ mình? Tại sao mẹ không dẫn mình theo? Mình đã làm gì sai? Những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu luôn đay đi nghiến lại trái tim non nớt từng giây từng phút tới rỉ máu.
Cậu trừng mắt nhìn thẳng vào nó. Thằng nhóc cũng không phải dạng vừa. Nó trợn mắt thẳng tay tát mạnh vào mặt William, cao giọng:
– Dạng cặn bã như mày mà dám nhìn tao bằng con mắt láo xược thế sao?!
Má William nóng rát lên vì cái tát, nhưng đầu cậu lúc này còn nóng hơn. Sự tức giận không còn kiềm chế được mà bộc phát ra. Cậu lao thẳng vào thằng nhóc nắm lấy cổ áo liên tục đấm lên mặt lên đầu. Hai thằng kia thấy ẩu đả vội nhảy vào bảo vệ đồng bọn. William cũng không màng. Tất cả nỗi đau ấp ủ sâu kín trong lòng, cậu xả ra hết. Cứ thế một đấm, một đá không biết trời đất là gì, cho tới khi bảo vệ của trường ghìm tay ghìm chân lôi ra.
Sau vụ ngày hôm đó, William bầm tím mặt mày nhưng ba thằng kia thì phải vào viện nằm mấy ngày. Bố mẹ nuôi của William bị nhà trường gọi lên khiển trách. Cậu bị đình chỉ học một tuần. Bố mẹ nuôi không nói gì nhiều, nhưng William nhìn thấy sự thoáng buồn trong ánh mắt hai người.
Tất nhiên, chuyện này tới tai ông nội. Ông gọi William tới thư phòng.
Vẫn là cánh cửa phòng đóng hờ như lần đầu tiên cậu tới gặp ông, vẫn là anh quản gia gõ cửa rồi đưa cậu vào, và ông vẫn ngồi đấy, sống lưng thẳng tắp uy nghiêm.
– Ta nghe nói cậu đánh nhau ở trường?
Giọng nói nghiêm khắc khiến sống lưng William lạnh toát. Cậu nuốt nước bọt, cúi gằm mặt không dám lên tiếng.
– Cậu muốn chứng minh cho người khác thấy cậu đúng là thứ vô học cặn bã từ tầng lớp dưới sao?
Từng lời nói đều đều chậm rãi nhưng lại như những mũi tên sắc nhọn đâm vào trái tim William đau đớn. Cậu nắm chặt tay, lấy hết dũng khí ngẩng đầu lên giải thích:
– Tại chúng nó gây sự trước…
– Không cần biết ai gây sự trước. – Ông ngắt lời. – Người ta sẽ chỉ nhìn vào hành động để đánh giá cậu thôi.
William lại cúi đầu. Ánh nắng chiều nhàn nhạt xuyên qua khung cửa sổ lớn trải dài trên sàn nhà gỗ sồi. Không khí trong căn phòng rộng yên ắng ngột ngạt đến khó thở. Cậu đứng chôn chân tại chỗ không dám động đậy, thậm chí dù chỉ một ngón tay, chờ đợi hình phạt khủng khiếp nhất giáng xuống cho mình.
Song trái với tưởng tượng của William, ông không đánh, không mắng, mà chỉ cho cậu một câu:
– Nếu cậu muốn được chấp nhận là một trong số bọn họ, – Giọng ông từ tốn, nhưng vẫn mang âm hưởng uy quyền của một người bề trên. – thì hãy làm theo cách của họ.
Sau cuộc nói chuyện với ông nội ngày hôm ấy, William gác tay suy nghĩ trằn trọc suốt đêm. Buổi sáng hôm sau, cậu ôm đống sách vở cao tới cằm vào thư viện, ngồi tới tối mịt mới chịu đi về. Ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa, và ngày hôm sau nữa… Cậu lao đầu vào học. Với tố chất thông minh và sự kiên trì bền bỉ, cậu nhanh chóng đạt được điểm tối đa trong các kỳ kiểm tra, thậm chí còn hoàn thành sớm chương trình phổ thông trước hai năm. Cũng biết chỉ kiến thức thôi thì không đủ, cậu miệt mài hoàn thiện mình trong tất cả các lãnh vực: kỹ năng mềm, thể thao, âm nhạc, và nghệ thuật.
Sự cố gắng cuối cùng cũng được bù đáp xứng đáng. Cậu nghiễm nhiên được nhận vào trường đại học Oxford danh giá, nơi liên tục sản sinh ra các nhân vật nổi tiếng: Hai mươi bảy người đoạt giải Nobel, hai mươi sáu thủ tướng Anh, và nhiều nguyên thủ quốc gia ở các nước. Trong quãng thời gian ngồi ghế nhà trường, cậu không chỉ xuất sắc trong việc học, mà còn chiếm được sự tín nhiệm của các sinh viên khác, nắm lấy ghế chủ tịch của những câu lạc bộ có tiếng tăm. Thành công vang dội này khiến cậu, ngay từ trước khi tốt nghiệp, trở thành đối tượng được săn đón hàng đầu của các “ông lớn” trong ngành ngân hàng. Với đầu óc sắc bén cùng sự tự tin quyết đoán của mình, cậu nhanh chóng giúp ngân hàng mở rộng thị trường đầu tư phát triển gấp ba, gấp bốn lần, và từng bước từng bước trở thành giám đốc trẻ tuổi nhất trong khu vực toàn châu Âu.
Ở tuổi hai mươi sáu, William có tất cả mọi thứ mà người khác phải ganh tị. Tiền bạc. Quyền lực. Danh tiếng. Anh đã trở thành một trong số họ, thậm chí là một thành viên xuất sắc ưu tú đi đầu trong số họ.
– Nhưng cái gì cũng có cái giá của nó… – Giọng kể của William vẫn đều đều vang lên.
Để đạt được những thành công này, William tự đặt lên bản thân mình một áp lực rất lớn. Trong đầu anh chỉ có mục tiêu, mục tiêu, và mục tiêu. Đạt được cái này rồi thì luôn có bước tiếp theo để tiến. Một cuộc chạy đua không ngừng nghỉ. Anh chưa bao giờ dừng lại dù chỉ là một giây để tận hưởng cuộc sống, hay suy nghĩ xem cái mình thực sự cần là gì. Cứ thế hoạt động như một cỗ máy, nhưng bên trong thì trống rỗng không có gì. Lúc đó dường như anh đã quên mất “sống” là như thế nào.
– Vậy đấy… Câu chuyện hơi dài, nhưng tóm lại là tôi đã từng trải qua áp lực nên rất hiểu cảm giác của em. – William đóng lại câu chuyện bằng một lời kết. – Hãy suy nghĩ kỹ về cái gì mới thực sự quan trọng. Đừng để áp lực ăn mòn cuộc sống của mình. Một chút áp lực là cần thiết để giúp con người ta tiến lên, nhưng quá nhiều áp lực có thể khiến con người ta dừng sống.
– Vậy điều gì khiến anh nhận ra và thay đổi? – Khánh An tò mò hỏi. Con người William bây giờ luôn toát lên phong thái ung dung tự tại. Vậy chắc hẳn anh đã vượt qua được cái áp lực kia.
William hướng mắt về phía trước, giọng nói thoảng nỗi buồn:
– Ông mất…
Phải, ông mất. Đột ngột. Ba năm trước vì một cơn suy tim nặng. Bỗng chốc tất cả dừng lại. Trong anh như có một cái gì đó vỡ vụn. William bàng hoàng nhận ra lý do thực sự đằng sau những cố gắng không ngừng nghỉ của mình. Đó là để có sự chấp nhận từ một người duy nhất.
Ông nội.
Vậy sau từng ấy năm, anh đã đạt được gì?
Không gì cả. Không một lời trìu mến. Không một tiếng tán dương khen thưởng. Thậm chí không một cái gật đầu.
William nén tiếng thở dài. Anh quay sang nhìn Khánh An nói thêm:
– Nếu nỗi sợ của em là sự thất bại, thì em nên biết rằng em sẽ học hỏi được nhiều từ thất bại hơn thành công. Và một khi đã có thể đứng lên từ thất bại, con người sẽ trở nên mạnh mẽ.
Khánh An trầm ngâm nghiền ngẫm lời anh nói.
– Và điều quan trọng nhất mà tôi muốn em luôn ghi nhớ… – Anh nắm lấy tay cô siết nhẹ. – Đó là em không chỉ có một mình.
—
William đã đứng bên cửa kính nhìn ra dòng sông Thames một lúc lâu. Trời bắt đầu nhá nhem tối. Càng gần Giáng Sinh, trời càng tối nhanh hơn. Những ngọn đèn dọc hai bên bờ sông và thành cầu rực sáng từ lúc nào, phản chiếu lấp lánh trên lòng sông sóng sánh.
Anh đã kể tất cả quá khứ của mình cho Khánh An nghe. Duy chỉ có một điều anh giữ lại. Đó là sau khi ông mất, anh bỏ sau lưng cuộc sống phồn hoa nơi đây, chạy trốn về miền quê xa xôi ven biển xinh đẹp ấy.
Nơi anh gặp cô. Nơi anh đã có những tháng ngày thanh thản hạnh phúc nhất. Nhưng cũng là nơi anh để lại trong tim anh một hố đen trống rỗng không thể lấp đầy, một vết thương hằn sâu mà đến bây giờ anh cũng không biết đã lành lại chưa.
Tuy nhiên, lý do anh vẫn luôn tìm mọi cách tránh né đoạn quá khứ này không phải là vì muốn quên đi sự đau đớn của vết thương rỉ máu. Mà là vì anh sợ.
Phải, anh sợ rằng một khi cô nhớ ra…
Về vụ tai nạn năm đó… Về người đàn ông ấy…
Cô sẽ không tha thứ cho anh.
Chắc chắn… sẽ không bao giờ tha thứ cho anh.
Một ngày mưa phùn.
Dưới chiếc ô đen bị phủ kín bởi những giọt nước mưa mùa đông lạnh buốt, người mẹ với mái tóc đen dài buộc gọn đằng sau dắt tay cậu bé bốn tuổi từng bước chầm chậm tiến về căn biệt thự cổ kính nằm trên đỉnh ngọn đồi bao quanh bởi rừng cây xanh rậm rạp.
– Mẹ ơi, cái nhà to kia là nhà của ông nội hả mẹ? – Cậu bé hỏi bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu, giọng trong veo không giấu nổi sự háo hức.
– Ừm… – Người mẹ hiền dịu nở một nụ cười.
– Oà, to quá! – Cậu bé trầm trồ. – Vậy chắc giường nhà ông phải to gấp đôi giường nhà mình mẹ nhỉ!
Người mẹ nghiêng chiếc ô về phía trước cố tránh những hạt mưa vừa đổi chiều, dịu dàng hỏi:
– Con có thích không?
– Thích, thích chứ! Vậy thì lúc ngủ con có thể lăn thoải mái mà không sợ bị rơi xuống đất. – Mắt cậu bé sáng lên. – Nhưng mẹ yên tâm, dù giường to thế nào thì con vẫn sẽ ôm chặt mẹ không rời.
Người mẹ không nói gì, đáy mắt ánh lên một sự đau đớn không thể diễn tả bằng lời.
Chẳng mấy chốc hai mẹ con đã đến cửa lớn của dinh thự. Người mẹ nắm lấy thanh móc sắt trên cánh cửa gỗ đập đập ba tiếng. Chỉ một phút sau cánh cửa hé mở, người quản gia trẻ tuổi trong bộ đồng phục đen trắng dường như đã đợi hai mẹ con từ lâu, lịch sự cúi đầu chào. Người mẹ gật đầu chào lại rồi ngồi xuống nắm lấy tay cậu con trai:
– William, con theo anh vào nhà gặp ông nội đi.
– Còn mẹ thì sao? – William ngơ ngác hỏi.
Người mẹ lặng yên một hồi như cố nén những giọt nước mắt chực chảy ra.
– Mẹ có chút chuyện cần làm, sẽ vào sau.
– Vậy mẹ làm xong chuyện đi rồi hai mẹ con mình cùng vào gặp ông. – Cậu bé ngây thơ lắc lắc tay mẹ mình.
– Nghe lời mẹ, William. – Bàn tay người mẹ trẻ vuốt nhẹ mái tóc mềm mại hơi rủ xuống vì nước mưa của cậu bé.
Cậu bé đắn đo rồi khẽ gật đầu ra vẻ người lớn dặn dò:
– Vậy mẹ đừng lâu quá đấy nhé. Con sẽ đợi mẹ ở trong.
Anh quản gia dù không biết tiếng Việt, nhưng nhìn cử chỉ của hai mẹ con cũng đoán được cậu bé đã đồng ý vào trong. Anh nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của William dẫn đi. Cậu bé miễn cưỡng bước theo, đầu liên tục ngoái lại nhìn bóng hình của mẹ mình khuất dần sau cánh cửa.
Vẻ đẹp lộng lẫy của toà nhà nhanh chóng đóng chiếm tâm trí khiến nỗi lo sợ vơi dần. Trong suốt bốn năm cuộc đời, cậu chưa từng nhìn thấy nơi nào to và đẹp như nơi này, gần giống lâu đài của công chúa hoàng tử trong các câu truyện cổ tích mà mẹ vẫn đọc cho cậu nghe mỗi tối trước khi đi ngủ. Dọc hành lang treo đầy những khung tranh lớn đủ thể loại chủ đề từ phong cảnh, chân dung cho tới tĩnh vật. Chùm đèn pha lê sang trọng trên trần nhà tỏa ra một thứ ánh sáng vàng lóng lánh huyền ảo. Những bình hoa rực rỡ màu sắc ở khắp mọi nơi mang đến mùi thơm đồng nội thoang thoảng quyến rũ.
Anh quản gia dẫn cậu lên tầng trên, sau khi bước qua không biết bao nhiêu là cửa, cuối cùng cũng dừng lại ở một cánh cửa đóng hờ. Anh đưa tay gõ nhẹ rồi mở cửa bước vào. William đứng thậm thụt ở phía sau lén ngước đầu quan sát căn phòng. Đôi mắt trong veo dưới hàng lông mi dài cong vút mở to tròn đầy thán phục khi nhìn thấy giá sách khổng lồ đầy ắp những cuốn sách dày cộp chen chúc nhau bao phủ cả bốn bức tường. Một người đàn ông lớn tuổi đeo kính, mái tóc vàng óng ả đã lấm tấm bạc, ngồi tại bàn làm việc lớn giữa phòng. Gương mặt ông lạnh lùng không biểu lộ cảm xúc. Ông đưa mắt nhìn xuống William qua tròng kính một lúc, rồi cất tiếng hỏi:
– Có hiểu tiếng Anh không?
Chất giọng trầm vang đầy uy quyền khiến William hơi co người vì sợ. Cậu khẽ gật gật đầu.
– Từ giờ trở đi cậu sẽ ở đây với ta. – Ông tiếp tục nói, vẻ mặt nghiêm nghị lạnh lùng vẫn không đổi.
– Mẹ cháu sẽ vào bây giờ ông ạ. – William vội vã nói. – Mẹ cháu và cháu sẽ…
Không để William nói hết câu, giọng nói của ông sắc lạnh như một lời ra lệnh:
– Người phụ nữ đó không còn là mẹ cậu nữa.
– Ông nói thế nghĩa là thế nào? – Cảm thấy có điều không ổn, William run rẩy. – Ông để cháu ra tìm mẹ cháu vào.
Đôi mắt nghiêm khắc vẫn không rời cậu bé:
– Sẽ không tìm thấy đâu. Cô ta đi rồi.
– Ông nói dối! – William hét to, hai bàn tay nắm chặt lại, đôi mắt ầng ậng nước. – Mẹ bảo sẽ vào gặp cháu.
Nói rồi cậu xoay người chạy hộc tốc ra ngoài, qua dãy hành lang dài, xuống cầu thang gỗ về phía cửa chính. Cậu dùng hết sức bình sinh mở toang cánh cửa gỗ nặng trịch to gấp ba, gấp bốn lần cơ thể nhỏ bé của mình.
– Mẹ ơi! – Cậu gọi to khi cánh cửa bật mở.
Mưa vẫn rơi…
Nhưng mẹ đã không còn ở đó.
– Mẹ ơi, mẹ đâu rồi? – Cậu hoang mang chồm ra phía cửa.
Nhưng trước khi cậu kịp chạy ra ngoài, anh quản gia đã đuổi tới nơi ôm cậu nhấc bổng lên.
– Anh bỏ tôi ra. – William giẫy giụa liên tục đấm vào người anh. – Mẹ tôi đang đợi ở bên ngoài.
Anh quản gia làm như không nghe thấy tiếng la hét, nhanh chóng đóng cánh cửa chính lại ngăn những cơn gió lạnh thổi thốc vào bên trong toà nhà.
– Mẹ ơi, đừng bỏ con! – William hét lên thật to như hi vọng mẹ ở bên ngoài sẽ nghe thấy. Nước mắt nước mũi giàn giụa trên gương mặt tái nhợt. – Con sai rồi… Con xin lỗi mẹ… Con không thích giường to đâu… Con chỉ cần mẹ thôi… Mẹ ơi…
Không có tiếng đáp trả. Chỉ có tiếng gió rít lên từng cơn bên ngoài. Đêm đó William đã khóc đến khi mệt lả và thiếp đi trong làn nước mắt.
Phải đến mãi sau này cậu mới hiểu vì sao mẹ lại không thể vào cùng cậu đêm đó. Ông nội cậu, huân tước Charles Henderson, là thượng nghị sỹ quốc hội, thuộc vào hàng thượng lưu dòng dõi quý tộc. Vợ mất sớm, một mình ông nuôi nấng hai người con trai: Con lớn Richard, sau này trở thành bố nuôi của William, và con thứ Edward, bố ruột của anh. Trái với người cha luôn tự hào hãnh diện về nguồn gốc tổ tông, hai cậu con trai lại mang trong mình tư tưởng tân tiến của thời đại, chán ghét sự phô trương trưởng giả của xã hội thượng lưu. Người con trai lớn, Richard, học thành bác sỹ với ước mơ trị bệnh cứu người ở những nơi xa xôi nghèo khó. Còn người con thứ, Edward, học ngành chính sách công khao khát mang đến sự công bằng bình đẳng cho xã hội.
Trong những tháng ngày ngồi ghế giảng đường, Edward làm rất nhiều các công việc tình nguyện khác nhau. Một trong số đó là dạy học tiếng cho những người tị nạn. Ở trung tâm cứu trợ tị nạn, Edward tình cờ gặp Ái Lan, một cô gái trẻ người Việt được chấp nhận vào Anh Quốc theo dạng tị nạn chiến tranh. Anh dạy cô học tiếng, hướng dẫn cô đăng ký học nghề. Rào cản về ngôn ngữ và văn hoá không ngăn được tình cảm chớm nở và mỗi lúc một mạnh mẽ hơn. Ngày Edward tốt nghiệp đại học cũng là ngày anh mang nhẫn cầu hôn người con gái Việt hồn hậu từ lần đầu gặp mặt đã chiếm trọn trái tim và tâm hồn anh. Trong sự vui sướng tột độ, Ái Lan đã gật đầu đồng ý.
Tuy nhiên niềm vui đến không được trọn vẹn. Là một người coi trọng dòng dõi gia phả, huân tước Charles Henderson không đời nào chấp nhận một cô gái tị nạn ngoại quốc da vàng không rõ nguồn gốc, cũng chẳng có bằng cấp nghề nghiệp tử tế, làm con dâu. Trước sự ngăn cấm kịch liệt của cha, Edward dẫn Ái Lan chạy trốn về một vùng quê xa xôi hẻo lánh cùng nhau chăm chút cho gia đình nhỏ. Cuộc sống mặc dù thiếu thốn về vật chất nhưng luôn ngập tràn hạnh phúc tiếng cười. Trớ trêu thay, Edward mệnh yểu, qua đời sau một cơn bạo bệnh, để lại đứa con trai, William, mới tròn một tuổi cho người vợ trẻ một mình nuôi nấng. Đến khi William lên bốn tuổi thì mẹ dẫn cậu tới gặp ông nội. Và từ đấy trở đi cậu không bao giờ gặp lại mẹ nữa.
Anh trai của bố William, ông Richard, cùng vợ, là bà Sue, nhận nuôi cậu không lâu sau khi cậu đến ở chỗ ông nội. Họ hết lòng yêu thương bảo bọc cậu, và không hề có ý định có con cái của riêng mình. Đến tận bây giờ William vẫn không rõ nguyên do đơn giản là vì họ không muốn có thêm con, hay cũng vì lo nghĩ cho cảm giác của anh.
Mối quan hệ với bố mẹ nuôi tốt bao nhiêu, thì mối quan hệ với ông nội xấu bấy nhiêu. Dường như có một khoảng cách vô hình không thể vượt qua được. Ông chưa bao giờ cười với William. Ánh mắt luôn nghiêm khắc lạnh lùng như cái lần đầu tiên gặp cậu. Đừng nói tới nắm tay, vuốt tóc, thậm chí ông còn chưa bao giờ động vào cậu, như thể trên người cậu mang một thứ bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Mà cũng có thể chính dòng máu Á Đông nóng chảy trong cơ thể cậu là thứ bệnh nguy hiểm nhất.
Năm William bảy tuổi, bố mẹ nuôi gửi cậu tới học ở trường cấp một gần nhà. Trong những thập niên tám mươi, ở tỉnh lẻ xa xôi này nơi phần lớn dân cư thuộc vào tầng lớp khá giả, người nhập cư gần như không có. William, mặc dù có nước da trắng không khác gì người gốc Anh, nhưng đôi mắt và mái tóc khi ấy tối màu hơn rất nhiều so với bây giờ, cộng thêm vẻ Á Đông huyền bí pha trộn trên từng đường nét, không khó để nhận ra sự khác biệt với những đứa trẻ mắt xanh tóc vàng xung quanh. Sự khác biệt này mang đến rất nhiều phiền phức.
Cậu đã quá quen với những ánh mắt tò mò lén liếc nhìn, những tiếng xì xầm bàn tán ở bất cứ nơi nào cậu đi đến. Giờ ăn trưa, mỗi khi cầm khay đồ ăn bước tới thì lũ học sinh lại tản ra tránh né như thể cậu là một sinh vật lạ. Bút thước tự dưng không cánh mà bay đã trở thành chuyện hàng ngày. Bị ngáng chân, bị đẩy ngã tới chảy máu đầu gối cũng không phải ít. Thỉnh thoảng cậu còn tìm thấy những mẩu giấy gấp làm tư trong ngăn bàn với lời lẽ độc địa: “Đồ lạc loài”, “Đồ cặn bã”, “Đồ quái dị”… và thậm chí “Chết đi”.
Mỗi lần như vậy, William luôn yên lặng chịu đựng. Không phải vì cậu sợ chúng nó, mà vì cậu sợ ông. Nếu sự phản kháng làm to chuyện đến tai ông nội, ông sẽ chỉ ghét cậu hơn mà thôi.
Cho đến một hôm…
William ôm cặp sách đi thật nhanh qua hành lang tới lớp học như mọi ngày, cố tránh những cái nhìn hướng về phía mình. Bỗng ba thằng nhóc con đầu tóc chải chuốt, giầy tất bóng lộn không biết từ đâu nhảy ra chặn đường. William đứng sững lại. Cậu vừa nhìn đã biết chẳng phải chuyện hay ho gì, liền quay đầu tính bỏ đi. Chưa đi được bước nào thì hai trong số ba thằng nhóc đã chạy ra phía sau tạo thành rào cản.
Thấy không thể thoát được, William quay người đối mặt với thằng nhóc mái lệch mà cậu đoán là thằng đầu trò:
– Chúng mày muốn gì?
Ba thằng lại dàn thành một hàng. Chúng gườm gườm cậu một lúc. Cuối cùng thằng mái lệch ở giữa lên tiếng:
– Tao nghe mẹ tao nói mày là thằng mồ côi, không cha không mẹ?
Ở cái tỉnh nhỏ nơi mà không có chuyện gì mà giấu được tai mắt thiên hạ, William khá ngạc nhiên là đến tận bây giờ mới có đứa lôi điều này ra hạch sách cậu. William không trả lời, kinh nghiệm cho thấy im lặng là vàng, càng nhiều lời càng phát sinh rắc rối.
– Mẹ mày là người ngoại quốc da vàng? – Thằng bên phải chêm vào, hỏi theo kiểu muốn sinh sự hơn là muốn nghe câu trả lời.
William vẫn im lặng.
– Thể nào mà mày trông thật quái dị. – Thằng bên trái gật gù ra vẻ thông hiểu.
– Có khi mẹ mày bỏ rơi mày cũng là vì cái bộ dạng kỳ quái này của mày. – Thằng ở giữa nhếch mép cười độc địa.
Lần này thì William không thể giả vờ không nghe thấy. Sự đau đớn dằn vặt mà cậu cố chôn giấu trong sâu thẳm bỗng trào lên cuồn cuộn như sóng vỡ bờ. Tại sao ngày đấy mẹ lại bỏ mình? Tại sao mẹ không dẫn mình theo? Mình đã làm gì sai? Những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu luôn đay đi nghiến lại trái tim non nớt từng giây từng phút tới rỉ máu.
Cậu trừng mắt nhìn thẳng vào nó. Thằng nhóc cũng không phải dạng vừa. Nó trợn mắt thẳng tay tát mạnh vào mặt William, cao giọng:
– Dạng cặn bã như mày mà dám nhìn tao bằng con mắt láo xược thế sao?!
Má William nóng rát lên vì cái tát, nhưng đầu cậu lúc này còn nóng hơn. Sự tức giận không còn kiềm chế được mà bộc phát ra. Cậu lao thẳng vào thằng nhóc nắm lấy cổ áo liên tục đấm lên mặt lên đầu. Hai thằng kia thấy ẩu đả vội nhảy vào bảo vệ đồng bọn. William cũng không màng. Tất cả nỗi đau ấp ủ sâu kín trong lòng, cậu xả ra hết. Cứ thế một đấm, một đá không biết trời đất là gì, cho tới khi bảo vệ của trường ghìm tay ghìm chân lôi ra.
Sau vụ ngày hôm đó, William bầm tím mặt mày nhưng ba thằng kia thì phải vào viện nằm mấy ngày. Bố mẹ nuôi của William bị nhà trường gọi lên khiển trách. Cậu bị đình chỉ học một tuần. Bố mẹ nuôi không nói gì nhiều, nhưng William nhìn thấy sự thoáng buồn trong ánh mắt hai người.
Tất nhiên, chuyện này tới tai ông nội. Ông gọi William tới thư phòng.
Vẫn là cánh cửa phòng đóng hờ như lần đầu tiên cậu tới gặp ông, vẫn là anh quản gia gõ cửa rồi đưa cậu vào, và ông vẫn ngồi đấy, sống lưng thẳng tắp uy nghiêm.
– Ta nghe nói cậu đánh nhau ở trường?
Giọng nói nghiêm khắc khiến sống lưng William lạnh toát. Cậu nuốt nước bọt, cúi gằm mặt không dám lên tiếng.
– Cậu muốn chứng minh cho người khác thấy cậu đúng là thứ vô học cặn bã từ tầng lớp dưới sao?
Từng lời nói đều đều chậm rãi nhưng lại như những mũi tên sắc nhọn đâm vào trái tim William đau đớn. Cậu nắm chặt tay, lấy hết dũng khí ngẩng đầu lên giải thích:
– Tại chúng nó gây sự trước…
– Không cần biết ai gây sự trước. – Ông ngắt lời. – Người ta sẽ chỉ nhìn vào hành động để đánh giá cậu thôi.
William lại cúi đầu. Ánh nắng chiều nhàn nhạt xuyên qua khung cửa sổ lớn trải dài trên sàn nhà gỗ sồi. Không khí trong căn phòng rộng yên ắng ngột ngạt đến khó thở. Cậu đứng chôn chân tại chỗ không dám động đậy, thậm chí dù chỉ một ngón tay, chờ đợi hình phạt khủng khiếp nhất giáng xuống cho mình.
Song trái với tưởng tượng của William, ông không đánh, không mắng, mà chỉ cho cậu một câu:
– Nếu cậu muốn được chấp nhận là một trong số bọn họ, – Giọng ông từ tốn, nhưng vẫn mang âm hưởng uy quyền của một người bề trên. – thì hãy làm theo cách của họ.
Sau cuộc nói chuyện với ông nội ngày hôm ấy, William gác tay suy nghĩ trằn trọc suốt đêm. Buổi sáng hôm sau, cậu ôm đống sách vở cao tới cằm vào thư viện, ngồi tới tối mịt mới chịu đi về. Ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa, và ngày hôm sau nữa… Cậu lao đầu vào học. Với tố chất thông minh và sự kiên trì bền bỉ, cậu nhanh chóng đạt được điểm tối đa trong các kỳ kiểm tra, thậm chí còn hoàn thành sớm chương trình phổ thông trước hai năm. Cũng biết chỉ kiến thức thôi thì không đủ, cậu miệt mài hoàn thiện mình trong tất cả các lãnh vực: kỹ năng mềm, thể thao, âm nhạc, và nghệ thuật.
Sự cố gắng cuối cùng cũng được bù đáp xứng đáng. Cậu nghiễm nhiên được nhận vào trường đại học Oxford danh giá, nơi liên tục sản sinh ra các nhân vật nổi tiếng: Hai mươi bảy người đoạt giải Nobel, hai mươi sáu thủ tướng Anh, và nhiều nguyên thủ quốc gia ở các nước. Trong quãng thời gian ngồi ghế nhà trường, cậu không chỉ xuất sắc trong việc học, mà còn chiếm được sự tín nhiệm của các sinh viên khác, nắm lấy ghế chủ tịch của những câu lạc bộ có tiếng tăm. Thành công vang dội này khiến cậu, ngay từ trước khi tốt nghiệp, trở thành đối tượng được săn đón hàng đầu của các “ông lớn” trong ngành ngân hàng. Với đầu óc sắc bén cùng sự tự tin quyết đoán của mình, cậu nhanh chóng giúp ngân hàng mở rộng thị trường đầu tư phát triển gấp ba, gấp bốn lần, và từng bước từng bước trở thành giám đốc trẻ tuổi nhất trong khu vực toàn châu Âu.
Ở tuổi hai mươi sáu, William có tất cả mọi thứ mà người khác phải ganh tị. Tiền bạc. Quyền lực. Danh tiếng. Anh đã trở thành một trong số họ, thậm chí là một thành viên xuất sắc ưu tú đi đầu trong số họ.
– Nhưng cái gì cũng có cái giá của nó… – Giọng kể của William vẫn đều đều vang lên.
Để đạt được những thành công này, William tự đặt lên bản thân mình một áp lực rất lớn. Trong đầu anh chỉ có mục tiêu, mục tiêu, và mục tiêu. Đạt được cái này rồi thì luôn có bước tiếp theo để tiến. Một cuộc chạy đua không ngừng nghỉ. Anh chưa bao giờ dừng lại dù chỉ là một giây để tận hưởng cuộc sống, hay suy nghĩ xem cái mình thực sự cần là gì. Cứ thế hoạt động như một cỗ máy, nhưng bên trong thì trống rỗng không có gì. Lúc đó dường như anh đã quên mất “sống” là như thế nào.
– Vậy đấy… Câu chuyện hơi dài, nhưng tóm lại là tôi đã từng trải qua áp lực nên rất hiểu cảm giác của em. – William đóng lại câu chuyện bằng một lời kết. – Hãy suy nghĩ kỹ về cái gì mới thực sự quan trọng. Đừng để áp lực ăn mòn cuộc sống của mình. Một chút áp lực là cần thiết để giúp con người ta tiến lên, nhưng quá nhiều áp lực có thể khiến con người ta dừng sống.
– Vậy điều gì khiến anh nhận ra và thay đổi? – Khánh An tò mò hỏi. Con người William bây giờ luôn toát lên phong thái ung dung tự tại. Vậy chắc hẳn anh đã vượt qua được cái áp lực kia.
William hướng mắt về phía trước, giọng nói thoảng nỗi buồn:
– Ông mất…
Phải, ông mất. Đột ngột. Ba năm trước vì một cơn suy tim nặng. Bỗng chốc tất cả dừng lại. Trong anh như có một cái gì đó vỡ vụn. William bàng hoàng nhận ra lý do thực sự đằng sau những cố gắng không ngừng nghỉ của mình. Đó là để có sự chấp nhận từ một người duy nhất.
Ông nội.
Vậy sau từng ấy năm, anh đã đạt được gì?
Không gì cả. Không một lời trìu mến. Không một tiếng tán dương khen thưởng. Thậm chí không một cái gật đầu.
William nén tiếng thở dài. Anh quay sang nhìn Khánh An nói thêm:
– Nếu nỗi sợ của em là sự thất bại, thì em nên biết rằng em sẽ học hỏi được nhiều từ thất bại hơn thành công. Và một khi đã có thể đứng lên từ thất bại, con người sẽ trở nên mạnh mẽ.
Khánh An trầm ngâm nghiền ngẫm lời anh nói.
– Và điều quan trọng nhất mà tôi muốn em luôn ghi nhớ… – Anh nắm lấy tay cô siết nhẹ. – Đó là em không chỉ có một mình.
—
William đã đứng bên cửa kính nhìn ra dòng sông Thames một lúc lâu. Trời bắt đầu nhá nhem tối. Càng gần Giáng Sinh, trời càng tối nhanh hơn. Những ngọn đèn dọc hai bên bờ sông và thành cầu rực sáng từ lúc nào, phản chiếu lấp lánh trên lòng sông sóng sánh.
Anh đã kể tất cả quá khứ của mình cho Khánh An nghe. Duy chỉ có một điều anh giữ lại. Đó là sau khi ông mất, anh bỏ sau lưng cuộc sống phồn hoa nơi đây, chạy trốn về miền quê xa xôi ven biển xinh đẹp ấy.
Nơi anh gặp cô. Nơi anh đã có những tháng ngày thanh thản hạnh phúc nhất. Nhưng cũng là nơi anh để lại trong tim anh một hố đen trống rỗng không thể lấp đầy, một vết thương hằn sâu mà đến bây giờ anh cũng không biết đã lành lại chưa.
Tuy nhiên, lý do anh vẫn luôn tìm mọi cách tránh né đoạn quá khứ này không phải là vì muốn quên đi sự đau đớn của vết thương rỉ máu. Mà là vì anh sợ.
Phải, anh sợ rằng một khi cô nhớ ra…
Về vụ tai nạn năm đó… Về người đàn ông ấy…
Cô sẽ không tha thứ cho anh.
Chắc chắn… sẽ không bao giờ tha thứ cho anh.