Thiết Khoái Tử định thần nhìn lại thì thấy những chỗ thanh kiếm khoét vào bụi đá nát ra rất đều nhau thì trong lòng rất lấy làm đắc ý về thanh Bắc Đẩu thần binh. Có điều phiến đá xanh vẫn còn dầy lắm chưa thủng ra được. Hắn nhẹ nhàng nhảy xuống theo cách thức vừa rồi để khoét sâu xuống. Đến lần thứ tư kiếm mới xuyên thủng phiến đá. Hắn cúi xuống nhìn thì phía dưới chỉ thấy tối om.
Thiết Khoái Tử quẹt lửa lên, chờ một lúc cho uế khí trong động bốc lên hết rồi mới từ từ hạ mình xuống đáy động. Hắn cầm mồi lửa soi quanh một lượt thì thấy bốn mặt thạch động kín mít chẳng có cửa ngỏ chi hết. Hắn liền vận nội lực ra thanh kiếm đâm vào vách, bỗng nghe tiếng gió vù vù.
Hắn vội nhảy lên nóc động, dán mình vào nhìn xuống thì thấy ánh hàn quang lấp loáng. Mấy chục mũi tên nỏ bắn vèo vèo đụng vào vách rồi văng ngược lại rớt xuống. Thiết Khoái Tử chờ cho tên bắn hết rồi mới nhảy xuống lượm một mũi lên coi. Mũi tên xanh lè hiển nhiên tôi chất kịch độc. Hắn giật mình kinh hãi nghĩ thầm.
- Người xây cất tạch động này chết đã lâu năm mà ám tiễn vẫn còn hại người được. Trong thạch thất bố trí cơ quan trùng điệp, nếu không nắm được mấu chốt thì đừng hòng tiến vào.
Hắn ngồi phệt xuống đất lẳng lặng suy nghĩ. Hắn thấy bốn mặt vách đá rất dày, chẳng có chỗ nào khác lạ thì nghĩ thầm:
- Ta khổ công nghiên cứu chỗ thần bí này, không ngờ lần vào tới đích, chỉ còn cách một bức tường mà không làm gì được. Chẳng sớm thì muộn cũng phải nghĩ ra biện pháp phá vách đá mới xong.
Hắn suy tính hồi lâu vung kiếm nhẹ nhàng đâm vào, nhưng lần này hắn đã rút kinh nghiệm, không dám lỗ mãng nữa. Thanh kiếm vừa đụng tới vách, hắn đã nhảy vọt lên.
Bỗng nghe những tiếng veo véo lại nổi lên. Những chỗ đụng kiếm vào có tia nước đen bắn ra rớt xuống. Lập tức, một luồng khỏi dày đặc bốc lên. Chân vách chỉ trong khoảng khắc đã hủ nát một khối lớn.
Thiết Khoái Tử giật mình kinh hãi nghĩ thầm:
- Nước ở Khổ Khê đất Miêu Cương là một vật kịch độc trong thiên hạ. Nó chỉ dính vào người một chút là trong nửa giờ làm hủ nát đến tâm tạng, dù Đại La Thiên Tiên cũng không cứu được nữa.
Thứ nước phun ra này vừa đen sì vừa rất nặng. Hiển nhiên là nước ở Khổ Khê rồi. Thiết Khoái Tử nghĩ mãi không ra được kế gì mà cũng không hiểu trong thạch thất có bao nhiêu cơ quan mai phục. Nếu nhất nhất phải thử hết thì dù may mắn tránh được họa sát thân cũng phải mất nhiều ngày tháng.
Thiết Khoái Tử nóng ruột liền nhảy lên ra khỏi thạch động, ngẩng đầu trong thấy vừng trăng tỏ đã lên giữa trời. Bầu trời rất trong sáng. Thiết Khoái Tử hai tay chắp để sau lưng bước lui rồi lại bước tới. Đột nhiên sau lưng có tiếng người khẽ cất lên gọi:
- Thiết Khoái Tử! Các hạ thử ngó xem ai?
Thiết Khoái Tử giật mình kinh hãi quay phắt lại thì thấy chàng thiếu niên lạ mặt trong bọn người bị ngã lăn ra đang từ từ ngồi nhỏm dậy. Hắn tựa hồ không tin ở mắt mình tự hỏi:
- Những người trúng phải Mê Hồn Đại Pháp của ta đều biến thành kẻ si ngốc trong ba ngày để mặc ta bài bố. Vả lại, trước khi hành động ta đốt một cây Thôi Hồn Hương là cẩn thận lắm rồi mà sao thằng lỏi này tỉnh táo lại ngay? Chẳng lẽ gã đã luyện được đến trình độ bách tà không xâm nhập vào người?
Hắn ngẫm nghĩ hồi lâu, khóe mắt lộ ra những tia thần quang dị dạng lại nhu hòa, chú ý nhìn chàng thiếu niên lạ mặt. Đột nhiên gã thấy những tia mục quang trong suốt nhìn chằm chặp vào mặt hắn. Bất giác, toàn thân hắn chấn động. Khí huyết trong lòng ngực nhộn nhạo cả lên.
Thiết Khoái Tử hít một hơi chân khí nhưng cảm thấy mục quang đối phương mỗi lúc ghê gớm hơn. Chân khí trong người hắn dường như bị những tia mục quang này kềm chế, lưu thông khó khăn.
Thiết Khoái Tử biết là gặp phải tay kình địch bình sinh chưa từng thấy. Hắn quát lên một tiếng, loạng choạng lùi lại mười mấy bước rồi ngã lăn xuống đất.
Miệng lắp bắp la lên:
- Phải chăng ngươi... ngươi... là đồ đệ của Đại Thiền Tông?
Chàng thiếu niên mỉm cười. Thiết Khoái Tử còn muốn nói nữa nhưng bỗng hộc máu tươi ra.
Chàng thiếu niên mở một nụ cười cao thâm khôn lường rồi từ từ tiến lại trước động. Chàng trầm ngâm một lát rồi nhẹ nhàng nhảy xuống. Chàng thiếu niên chính là Du Hữu Lượng. Từ ngày còn nhỏ chàng đã học tập môn Hàng Ma Đại Pháp chính tông của nhà phật, chuyên để phá giải tả đạo bàng môn. Trong người chàng lại có Hùng Hoàng Châu ngàn năm để chống phá chất độc. Vừa rồi chàng không bị hôn mê, nhưng giả vờ ngã lăn ra và đã nhìn rõ cuộc mưu đồ của Thiết Khoái Tử.
Lúc Thiết Khoái Tử lấy bảo kiếm chàng vẫn theo dõi. Chàng thấy hắn trở về, liền chạy lại chỗ cũ nằm ra như trước. Bây giờ chàng thấy Thiết Khoái Tử ở thạch động đi ra, sợ hắn lấy được bảo vật trong động rồi, mới lên tiếng hô hoán.
Du Hữu Lượng ở dưới đáy dộng, nghĩ thầm trong bụng:
- Thiết Khoái Tử bị Trấn Ma Thiên Thị làm cho chấn động, nội thương của hắn rất trầm trọng. Ta chiếm được tiện nghi phen này thật là một việc ra ngoài sức tưởng tượng.
Chàng mỉm cười nghĩ tiếp:
- Ta hãy tước lấy thanh bảo kiếm trước đã. Tên Thiết Khoái Tử này thông hiểu Ma Công thì chẳng ở Miêu Cương tới cũng là dư nghiệt của phái Không Động. Nhất quyết không phải hạng người tử tế. Ta có lấy của kẻ bất nghĩa cũng không phải là điều thương thiên hại lý.
Chàng toan tung mình nhảy lên, bổng ngửi thấy mùi hương thoang thoảng.
Chàng liền đứng yên ngưng thở, móc lấy mồi lửa trong bọc ra thắp lên thì thấy dưới đáy động cách đó vài tấc còn vết nước loang lổ. Đá núi hủ nát, chỗ lồi, chỗ lỏm chứ không bằng phẳng thì trong lòng kinh hãi nghĩ thầm:
- Đây là nước ở Khổ Khê. Nếu ta tiến thêm nửa bước thì dù trong mình có Hùng Hoàng Châu cũng gặp rắc rối. Thật lòng trời có ý tựa ta.
Du Hữu Lượng cầm mồi lửa soi quanh một lượt. Vì một chút chần chờ này mà chàng gặp được kỳ tích. Nếu vừa rồi mà chàng nhảy ra ngoài động thì ngày sau võ lâm phải thay đổi bộ mặt.
Nguyên Du Hữu Lượng đang thị sát thì dột nhiên một luồng hào quang mãnh liệt chiếu vào mắt. Cường độ của luồng hào quang này khiến cho người ta phải lóa mắt. Chàng chấn động tâm thần, miễn cưỡng vận nội công để nhìn về phía có ánh hào quang phát ra. Chàng vừa nhận được vị trí của nó thì đột nhiên ánh hào quang thu lại. Chàng cảm thấy mục lực trì trệ hồi lâu không nhìn thấy gì. Du Hữu Lượng rất lấy làm kỳ dị. Chàng đưa mồi lửa tới gần chỗ vách động đã phát ánh hào quang thì thấy nơi đây khảm vào một viên bảo thạch vuông vắn một tấc. Chàng chợt tỉnh ngộ nghĩ thầm:
- Viên bảo thạch này nhờ ánh trăng chiếu vào mới lóe sáng như vậy. Phải chăng đây là mấu chốt của mọi cơ quan?
Chàng nghĩ tới đây liền đưa tay ra khẽ ấn viên bảo thạch. Lập tức vang lên những tiếng lách cách hồi lâu không ngớt. Cả tòa thạch động đều bị rung động. Du Hữu Lượng vội nhảy vọt lên không toan chuồn khỏi thạch động thì thấy vách đá ở mé hữu có khuông cửa mở ra. Chàng mừng như người phát điên, vận khí vào hạ bàn, hạ mình xuống.
Lúc này thạch động trở lại tịch mịch. Tiếng cơ quan chuyển động cũng đã dừng lại. Du Hữu Lượng từ từ bước qua cửa tiến ào. Chàng đề khí ngưng thần thận trọng từng bước, để đề phòng tai biến đột ngột. Chàng đi được mười mấy bước bỗng thấy phía trước rộng dần ra và sáng sủa tựa hồ có ánh dương quang chiếu vào.
Du Hữu Lượng vừa đi vừa nghĩ:
- Giả tỉ Thiết Khoái Tử chậm lại một lúc chưa ra khỏi động thì nhất định hắn nhìn thấy cơ quan ảo diệu. Xem chừng cuộc đắc thất của con người đã có tiền định.
Ông trời đã muốn dành cho ta kho tàng này.
Du Hữu Lượng là người thận trọng. Chàng lật đật tiến lại chỗ đặt cơ quan ấn nút cho cửa đóng chặt lại rồi mới vọt ra ngoài động để lấy Bắc Đẩu thần binh ở trong mình Thiết Khoái Tử. Chàng vào động lần thứ hai, mở cửa thạch thất, thấy trọng bảo ngay trước mặt mà vẫn thản nhiên. Quả đáng là tay anh kiệt.
Du Hữu Lượng đã lấy bảo kiếm cầm tay, lại tìm được chỗ chứa bảo vật bên trong, chàng ngẫm nghĩ một chút rồi thận trọng ấn cơ quan. Quả nhiên cửa đá từ từ đóng lại, không còn một vết tích gì hết. Bây giờ, chàng mới yên tâm rảo bước đi sâu vào.
Chàng đến trước một gian đại sảnh, sáng như ban ngày, thò đầu nhìn vào thì ra trên nóc đại sảnh đã khảm những hạt dạ minh châu lớn bằng trứng chim bồ câu, phát ra ánh sáng êm dịu. Tuy chàng biết nhiều hiểu rộng, nhưng chưa từng thấy nơi nào dùng minh châu làm đèn như ở đây.
Du Hữu Lượng tiến vào nhà đại sảnh lại càng kinh hãi. Chàng thấy khắp nơi là kim quang bảo khí, minh châu phỉ thúy, san hô mã não, xếp thành từng đống, chẳng khác đất cát vứt bỏ bên đường, không ai thèm nhìn đến.
Tiện tay chàng lượm một xâu minh châu lên coi, trong bụng nghĩ thầm:
- Một chuỗi minh châu này trị giá đến hàng ngàn, hàng vạn lạng bạc. Mấy kiếp người lao lực suốt đời cũng khó kiếm vạn lạng. Những vật đáng tiền thế này lại chôn ở dưới đất bao nhiêu năm thì thật là một điều không tưởng tượng được.
Tòa đại sảnh rất lớn, chẳng có một thứ gì bố trí, khắp nơi toàn là châu báu.
Chàng càng vào sâu chàng thấy nhiều vật trân quí. Phen này Du Hữu Lượng mở rộng tầm mắt. Thoạt tiên lòng chàng rất lấy làm kinh dị, rồi biến sang hoan hỉ. Sau khi thấy nhiều quá chàng lại coi châu báu trước mắt như đất bùn, chẳng đáng gì nữa.
Cuối nhà đại sảnh là một sương phòng. Cửa phòng bỏ ngỏ, chàng cẩn thận tiến vào thì thấy một cái giường lớn bằng ngọc phỉ thúy, trên giường chăn đệm cũng có ánh sáng. Chàng thò tay lật chân lên thấy nhẹ như bông, chàng rung tay một cái, chăn theo gió tung bay. Chàng nhìn kĩ lại, thì phía sau giường ngọc còn có một căn nhà nhỏ, rèm châu buông rủ.
Du Hữu Lượng lớn tiếng:
- Vãn bối là Du Hữu Lượng xin vào ra mắt.
Chàng hô luôn ba câu không thấy phản ứng thì biết chủ nhân nơi đây tịch đã lâu rồi. Nhưng chàng là người tinh tế, chỗ nào cũng suy nghĩ chu đáo, lên tiếng cầu kiến trước để đề phòng biến xảy không ngờ.
Du Hữu Lượng lại chờ một lúc nữa mới vén rèm lên nhìn, thì thấy trong nhà có một cái bàn và một cái ghế. Ngồi trên ghế là một lão già tướng người thanh lịch, nét mặt không giận mà oai nghiêm, có vẻ một bậc công hầu.
Du Hữu Lượng nhìn kĩ lại thì lão già mặt áo cẩm bào, vẻ mặt suy tư. Lông mày rủ thấp. Tuy lão chết đã lâu ngày mà chẳng khác người còn sống.
Du Hữu Lượng khoan thai tiến đến trước mặt, miệng lâm râm khấn khứa:
- Xin tiền bối yên tâm. Tiểu tử tuyệt không dám sinh dạ tham lam tiền tài để gây nên tội nghiệt.
Chàng thở dài nghĩ thầm:
- Lão này phú xưng địch quốc, giữ nhiều châu báu quí vật mà thành vô dụng.
Con người ở đời, tuy nhiều tiền bảo nhưng thọ mạng có kỳ. Hởi ơi!
Trong lúc nhất thời, dường như chàng coi lạt lẽo châu báu khắp chỗ. Chàng bôn tẩu giang hồ tìm kiếm kẻ thù lâu năm đã hiểu sâu xa tiền tài là vật rất cần, nhưng tiền tài nhiều quá muốn lấy bao nhiêu thì lấy thì chẳng có chi đáng quí nữa.
Chàng thật có chỗ khác người thường, rồi chàng bụng bảo dạ:
- Ta đi dọc đường tới đây, miền Quan Trung đất khô ngàn dặm, nhân dân chết đói đã nhiều. Bảo vật này họ lấy của dân thì nên dùng nó để cứu dân. Ta đem ra một ít để chẩn cấp cho dân nghèo.
Nghĩ tới lòng chàng bình thản trở lại. Đầu óc sáng sủa, chàng trầm ngâm một lúc rồi lẩm bẩm:
- Những người vào rừng lúc nảy tuy tham lam châu báu nhưng coi vẻ mặt Thiết Khoái Tử thì dường như trong động còn vật gì khiến cho hắn thèm thuồng tựa phát điên. À phải rồi! Nguyệt chiếu bạch dương, ánh lạc nam phương phải chăng là trỏ vào thanh bảo kiếm Bắc Đẩu thần binh? Người võ lâm được món lợi khí này, dĩ nhiên uy lực tăng thêm rất nhiều.
Chàng vừa nghĩ vừa đi lại bên án thì thấy cả cái thư án do một phiến đá ngọc xanh đục thành. Chỗ lão già đặt bàn tay có tám chữ triện "Nhất nhập thử môn, thoát thai hoán cốt".
Du Hữu Lượng sửng sốt nghĩ thầm:
- Thoát thai hoán cốt hiển nhiên là thuật ngữ về những võ học. Nhưng, làm sao lại thoát thai hoán cốt được? Đó là một điều cần phải nghiên cứu.
Chàng chú ý quan sát bốn mặt căn nhà nhỏ, chẳng thấy sách vở chi hết. Trên vách cũng không có đồ hình luyện võ. Chàng không khỏi thất vọng. Lúc chàng di động không để ý, vô hình đụng vào vai bên phải của lão già. Chàng vẫn chưa để ý, toan lui ra nhà đại sảnh thì đột nhiên ngó thấy áo bào của lão rơi xuống. Trong khoảng khắc chỉ còn lại một bộ xương khô.
Du Hữu Lượng cả kinh, thấy trên mặt đất rớt xuống một đống tro trắng. Sau một lát, trong vạt áo lão bay ra một mảnh giấy trắng.
Du Hữu Lượng đưa thanh kiếm khều mảnh giấy lên, thấy trên có một hàng chữ:
Ngộ Du nhi khải, Vĩnh Lạc tứ niên, Thường Thiên Tứ lâm chung tuyệt bút.
Du Hữu Lượng ngõ giòng chữ ngắn ngủi này, trong lòng vừa kinh hãi vừa ngạc nhiên, tự nghĩ:
- Lão này chết đã hơn trăm năm mà biết trước việc hậu lai. Thật là nhân vật thần thông quảng đại, khiến người ta phải kinh hải.
Chàng lật tấm giấy trắng lên thì thấy mặt sau loang lổ từng vết máu. Chàng định thần nhìn kĩ lại thì ra những chữ này lớn bằng đầu ruồi:
"Cuộc phản loạn của vương thúc là một việc đau lòng. Ông tổ là là Thường Mộ Xuân, phụ tá Thái Tổ hoàng đế biết bao công lao khó nhọc để dựng nước, khí số đến đây là hết. Ta vâng đế mệnh, chuyển vận tài bảo trong cung để dùng làm phí tổn cho cuộc khởi nghĩa mai sau.
Căn nhà đá này do Lỗ tiên sinh đời Xuân Thu dựng ra. Ta ngẫu nhiên tới đây được gặp đại hiệp La Vĩnh Nông. La đại hiệp không muốn sống nữa, ta cũng không khuyên giải liền mai táng thi hài cùng thần kiếm. May là nơi đây là chỗ kín đáo.
Năm sau vận chết của ta sẽ đến, liền dấu tài bảo vào trong động. Ngày tháng trôi qua biết mình sắp hết đời.
Đêm qua ta coi tinh tú thấy ý trời đã định cho Yên tặc thành công. Kho tàng này rất lớn cốt để người hữu tâm tạo phúc cho lê dân. Nếu lọt vào tay kẻ tặc tử, lại xảy ra cuộc binh đao thì ta ân hận biết bao nhiêu. Ta còn để lại ba giọt linh dịch của La đại hiệp. Kẻ học võ uống vào có thể thoát thai hoán cốt trong giây lát.
Ta vận thần công ba mươi sáu lần và xem ra sau này chàng thiếu niên anh hào họ Du sẽ lấy được bảo tàng. Đạo trời huyền bí, người thường không thể hiểu rõ được".
Viết tới đây dường như lão đã kiệt lực rồi, buông ngòi bút xuống. Du Hữu Lượng xem xong nghĩ thầm:
- Thường Thiên Tứ tự biết mệnh tuyệt, lấy mũi châm chích huyết viết bản di cáo này. Đáng tiếc là lão nhân gia không chỉ điểm chỗ cất dấu linh dịch cho ta hay.
Rồi chàng tự nghĩ:
- Thường Thiên Tứ nguyên là dòng dõi hổ oai tướng quân Thường Ngộ Xuân.
Lão nhân gia vận chính khí để giữ cho thân thể không tiêu hóa. Nay bị ta đụng vào, liền nát ra như cám. Ta sơ ý làm tan nát pháp thể của bậc đại trung thần, thật là có tội!
Chàng không nghĩ ngợi nhiều nữa, chạy ra ngoài tiền sảnh lấy một cái rương đem đến để bên cạnh Thường Thiên Tứ, kính cẩn bốc di hài đặt vào. Bỗng chàng thấy nặng không kéo lên được. Chàng liền cúi đầu nhìn xuống thì ra dưới chân Thường Thiên Tứ có vòng sắt gắn chặt vào ghế bằng ngọc.
Du Hữu Lượng bụng bảo dạ:
- Thường Thiên Tứ tự khóa mình vào đây vì lão tiền bối sợ không nhẫn nại được lại muốn bỏ đi. Xem chừng thạch thất này có đường thông ra ngoài.
Rồi chàng tự nhủ:
- Hoặc giả lão tiền bối còn có dụng ý gì? Ta phải coi cho cẩn thận mới được.
Chàng cúi xuống quan sát hồi lâu thì thấy cái ghế ngọc dính liền xuống nền nhà. Nguyên căn nhà nhỏ này là một tảng ngọc xanh đục ra. Du Hữu Lượng là người rất thông tuệ. Chàng phát giác đáy ghế, chỗ dính liền xuống đất màu sắc nhạt hơn, liền hai tay di chuyển cái ghế. Bỗng nghe tiếng lách cách vang lên, phía dưới lộ ra một cái nhà hầm.
Du Hữu Lượng đặt di hài Thường Thiên Tứ vào trong rương rồi từ từ đi xuống nhà hầm. Chàng vừa chui vào đã ngửi thấy mùi thanh hương. Trong nhà hầm có một cái án nhỏ, trên án đặt cái bình ngọc.
Du Hữu Lượng lấy được bình ngọc trong đựng một chút nước màu hồng tươi.
Chàng mở nút ra thì một mùi thơm sực nứt bay ra khắp gian nhà. Chàng trầm ngâm một chút thấy nước linh dịch mỗi lúc một cạn đi. Chàng vội há miệng đổ vào, thì chỉ còn hai giọt đã hết rồi. Chàng hối hận nghĩ thầm:
- Mình chỉ chần chờ một chút mà mất đến mười năm công lực. Mỗi khi gặp việc, mình quá lo xa, không quyết đoán mau lẹ mà thành tai hại. Đây là một khuyết điểm lớn trong đời người.
Thực ra vì chàng tâm tư thận trọng, cơ mưu quyền biến mới giữ thân được đến ngày nay không tử thương. Nhưng lúc này chàng chỉ tự oán mình vì lẩn thẩn mà lở việc. Sau khi uống nước linh dịch một lúc, chàng cảm thấy chân khí bốc lên rạo rực. Chàng đã uống nhiều thứ linh dược, chân khí trong người lúc này ngưng tụ lại tưởng chẳng kém gì Đại Thiền Tông.
Du Hữu Lượng toan vận công điều khí thì đột nhiên bên trên có tiếng người rất rõ ràng vọng xuống:
- Ôn huynh! Lão cũng đến rồi! Hay lắm! Thật là Ôn huynh có nguồn tin tức mau lẹ.
Một thanh âm quái gở khác cất lên:
- Ha ha, lão quái! Mười năm nay không gặp mà vẫn nguyên như trước. Lão Ôn rất lấy làm cao hứng.
Thanh âm trước lại nói:
- Nghe nói công lực về Huyết Hà Đại Trận của Ôn huynh lại tăng thêm mấy phần. Bên Tây Thiên, ngoại trừ Bách Cầm Pháp Vương, Ôn huynh đứng đầu rồi.
Người được kêu bằng Ôn huynh đáp:
- Lão quái lại dở trò khẩu thị tâm phi. Mười năm nay lão đóng cửa tu luyện, chắc tiểu đệ không phải là tay đối thủ.
Lão quái nổi lên tràng cười hô hố, không nói gì nữa. Du Hữu Lượng nghe kĩ thanh âm này bất giác giật mình kinh hải, nghĩ thầm:
- Chỗ mình đây cách cửa động ít ra là nửa dặm mà sao nghe rõ thế? Phải chăng môn Thiên Lý Truyền Âm của hai lão đã đến trình độ tối cao? Họ cười nói tự nhiên mà công lực vẫn ngưng tụ được không hóa tán. Đến sư phụ mình chưa chắc tới trình độ này.
Chàng nghĩ tới đây trong lòng phát run, miệng lẩm bẩm:
- Nghe khẩu âm thì lão họ Ôn này đúng là quái vật mà ta đã gặp ngay trước khi ở Tây Tạng tới đây. Hắn động thủ cùng Vân Long Ông mà không chiếm được tiện nghi mới thật là kỳ.
Lại nghe lão họ Ôn lên tiếng:
- Này lão quái, chúng ta đến đây cùng một lúc, vậy thứ Quỳnh Phủ tiên dịch kia phải chia đều. Còn kim ngân tài bảo trong động thì lão huynh lấy cả cũng được.
Lão quái đáp:
- Ai thèm thuồng gì kim ngân tài bảo? Đã chạm trán lão thì Quỳnh Phủ tiên dịch nhất định lão cũng có phần.
Lão họ Ôn cả mừng nói:
- Lão quái là người bạn tốt. Ôn mỗ suốt đời không quên được.
Lão quái cười ha hả nói:
- Lão Ôn đã nổi tiếng về nghề khẩu thị tâm phi. Miệng nói là suốt đời không quên, nhưng chỉ nháy mắt đã hết nhớ rồi. Ta không phải lo chuyện đó mà chỉ sợ họ Du cũng biết. Lát nữa khó lòng tránh khỏi một cuộc ác đấu.
Lão họ Ôn hỏi:
- Tiểu đệ đã đi theo lão ca ca thì họ Du làm cóc gì được?
Lão quái vỗ tay hỏi lại:
- Ta cũng muốn nói câu ấy. Này lão Ôn! Lão tưởng rằng ta không biết là lão cứ thập thò, nấp tránh theo dõi ta ở dọc đường chăng?
Lão họ Ôn bật mấy tiếng cười khô khan đáp:
- Lão quái thật kéo đa nghi. Ha ha!
Du Hữu Lượng càng nghe lâu càng cảm thấy thanh âm lão quái rất quen thuộc mà nghĩ không ra được là đã gặp lão ở đâu. Lòng chàng vẫn băng khoăn về câu lão quái nói "chỉ sợ họ Du cũng biết vụ này".
Chàng tự hỏi:
- Chẳng lẽ lão quái đã biết ta trong động này? Nhưng không có lý. Ta đã hiểu rõ công lực của lão họ Ôn. Một mình lão ta cũng chẳng thể nào địch nổi, chứ đừng nói hai người. Làm sao lão quái lại sợ ta?
Du Hữu Lượng nghĩ mãi không thông, lại nghe họ Ôn lên tiếng:
- Lão quái! Lão tính thế nào? Chúng ta nên động thủ đi thôi chứ? Thăng cha Thiết Khoái Tử bị thương nằm lăn ra đó rồi. Tảng đã nóc động lại bị người ta phá thủng mà lão không sợ kẻ khác nhanh chân hơn mình ư?
Lão quái lạnh lùng đáp:
- Lão thì biết cóc gì? Trong những bức tường tòa nhà đá có đặt bảy mươi hai cơ quan khủng khiếp. Nơi nào cũng nguy hiểm chết người. Nếu không biết chỗ ảo diệu bên trong thì dù là đại la thần tiên cũng chẳng thể vào được.
Lão họ Ôn nghe lão quái ra điều khinh mạn vẫn không giận dữ, cười nói:
- Người tới đây đã đoạt thanh Bắc Đẩu thần binh của Thiết Khoái Tử đem đi thì thân thủ họ nhất định không phải tầm thường. Theo ý kiến của tiểu đệ, chúng ta nên động thủ đi mới là thượng sách.
Lão quái hỏi:
- Căn nhà đá này chỉ có đường vào chứ không có lối ra, việc gì lão phải nóng nảy?
Du Hữu Lượng sửng sốt nghĩ thầm:
- Mình cứ tưởng lão quái và lão họ Ôn do đường nào khác tới đây và đã gần kề chỗ ta đứng, không thì làm sao thanh âm lại rõ ràng thế? Xem chừng hai người đã luyện được nội công đến độ xuất quỉ nhập thần.
Thiết Khoái Tử quẹt lửa lên, chờ một lúc cho uế khí trong động bốc lên hết rồi mới từ từ hạ mình xuống đáy động. Hắn cầm mồi lửa soi quanh một lượt thì thấy bốn mặt thạch động kín mít chẳng có cửa ngỏ chi hết. Hắn liền vận nội lực ra thanh kiếm đâm vào vách, bỗng nghe tiếng gió vù vù.
Hắn vội nhảy lên nóc động, dán mình vào nhìn xuống thì thấy ánh hàn quang lấp loáng. Mấy chục mũi tên nỏ bắn vèo vèo đụng vào vách rồi văng ngược lại rớt xuống. Thiết Khoái Tử chờ cho tên bắn hết rồi mới nhảy xuống lượm một mũi lên coi. Mũi tên xanh lè hiển nhiên tôi chất kịch độc. Hắn giật mình kinh hãi nghĩ thầm.
- Người xây cất tạch động này chết đã lâu năm mà ám tiễn vẫn còn hại người được. Trong thạch thất bố trí cơ quan trùng điệp, nếu không nắm được mấu chốt thì đừng hòng tiến vào.
Hắn ngồi phệt xuống đất lẳng lặng suy nghĩ. Hắn thấy bốn mặt vách đá rất dày, chẳng có chỗ nào khác lạ thì nghĩ thầm:
- Ta khổ công nghiên cứu chỗ thần bí này, không ngờ lần vào tới đích, chỉ còn cách một bức tường mà không làm gì được. Chẳng sớm thì muộn cũng phải nghĩ ra biện pháp phá vách đá mới xong.
Hắn suy tính hồi lâu vung kiếm nhẹ nhàng đâm vào, nhưng lần này hắn đã rút kinh nghiệm, không dám lỗ mãng nữa. Thanh kiếm vừa đụng tới vách, hắn đã nhảy vọt lên.
Bỗng nghe những tiếng veo véo lại nổi lên. Những chỗ đụng kiếm vào có tia nước đen bắn ra rớt xuống. Lập tức, một luồng khỏi dày đặc bốc lên. Chân vách chỉ trong khoảng khắc đã hủ nát một khối lớn.
Thiết Khoái Tử giật mình kinh hãi nghĩ thầm:
- Nước ở Khổ Khê đất Miêu Cương là một vật kịch độc trong thiên hạ. Nó chỉ dính vào người một chút là trong nửa giờ làm hủ nát đến tâm tạng, dù Đại La Thiên Tiên cũng không cứu được nữa.
Thứ nước phun ra này vừa đen sì vừa rất nặng. Hiển nhiên là nước ở Khổ Khê rồi. Thiết Khoái Tử nghĩ mãi không ra được kế gì mà cũng không hiểu trong thạch thất có bao nhiêu cơ quan mai phục. Nếu nhất nhất phải thử hết thì dù may mắn tránh được họa sát thân cũng phải mất nhiều ngày tháng.
Thiết Khoái Tử nóng ruột liền nhảy lên ra khỏi thạch động, ngẩng đầu trong thấy vừng trăng tỏ đã lên giữa trời. Bầu trời rất trong sáng. Thiết Khoái Tử hai tay chắp để sau lưng bước lui rồi lại bước tới. Đột nhiên sau lưng có tiếng người khẽ cất lên gọi:
- Thiết Khoái Tử! Các hạ thử ngó xem ai?
Thiết Khoái Tử giật mình kinh hãi quay phắt lại thì thấy chàng thiếu niên lạ mặt trong bọn người bị ngã lăn ra đang từ từ ngồi nhỏm dậy. Hắn tựa hồ không tin ở mắt mình tự hỏi:
- Những người trúng phải Mê Hồn Đại Pháp của ta đều biến thành kẻ si ngốc trong ba ngày để mặc ta bài bố. Vả lại, trước khi hành động ta đốt một cây Thôi Hồn Hương là cẩn thận lắm rồi mà sao thằng lỏi này tỉnh táo lại ngay? Chẳng lẽ gã đã luyện được đến trình độ bách tà không xâm nhập vào người?
Hắn ngẫm nghĩ hồi lâu, khóe mắt lộ ra những tia thần quang dị dạng lại nhu hòa, chú ý nhìn chàng thiếu niên lạ mặt. Đột nhiên gã thấy những tia mục quang trong suốt nhìn chằm chặp vào mặt hắn. Bất giác, toàn thân hắn chấn động. Khí huyết trong lòng ngực nhộn nhạo cả lên.
Thiết Khoái Tử hít một hơi chân khí nhưng cảm thấy mục quang đối phương mỗi lúc ghê gớm hơn. Chân khí trong người hắn dường như bị những tia mục quang này kềm chế, lưu thông khó khăn.
Thiết Khoái Tử biết là gặp phải tay kình địch bình sinh chưa từng thấy. Hắn quát lên một tiếng, loạng choạng lùi lại mười mấy bước rồi ngã lăn xuống đất.
Miệng lắp bắp la lên:
- Phải chăng ngươi... ngươi... là đồ đệ của Đại Thiền Tông?
Chàng thiếu niên mỉm cười. Thiết Khoái Tử còn muốn nói nữa nhưng bỗng hộc máu tươi ra.
Chàng thiếu niên mở một nụ cười cao thâm khôn lường rồi từ từ tiến lại trước động. Chàng trầm ngâm một lát rồi nhẹ nhàng nhảy xuống. Chàng thiếu niên chính là Du Hữu Lượng. Từ ngày còn nhỏ chàng đã học tập môn Hàng Ma Đại Pháp chính tông của nhà phật, chuyên để phá giải tả đạo bàng môn. Trong người chàng lại có Hùng Hoàng Châu ngàn năm để chống phá chất độc. Vừa rồi chàng không bị hôn mê, nhưng giả vờ ngã lăn ra và đã nhìn rõ cuộc mưu đồ của Thiết Khoái Tử.
Lúc Thiết Khoái Tử lấy bảo kiếm chàng vẫn theo dõi. Chàng thấy hắn trở về, liền chạy lại chỗ cũ nằm ra như trước. Bây giờ chàng thấy Thiết Khoái Tử ở thạch động đi ra, sợ hắn lấy được bảo vật trong động rồi, mới lên tiếng hô hoán.
Du Hữu Lượng ở dưới đáy dộng, nghĩ thầm trong bụng:
- Thiết Khoái Tử bị Trấn Ma Thiên Thị làm cho chấn động, nội thương của hắn rất trầm trọng. Ta chiếm được tiện nghi phen này thật là một việc ra ngoài sức tưởng tượng.
Chàng mỉm cười nghĩ tiếp:
- Ta hãy tước lấy thanh bảo kiếm trước đã. Tên Thiết Khoái Tử này thông hiểu Ma Công thì chẳng ở Miêu Cương tới cũng là dư nghiệt của phái Không Động. Nhất quyết không phải hạng người tử tế. Ta có lấy của kẻ bất nghĩa cũng không phải là điều thương thiên hại lý.
Chàng toan tung mình nhảy lên, bổng ngửi thấy mùi hương thoang thoảng.
Chàng liền đứng yên ngưng thở, móc lấy mồi lửa trong bọc ra thắp lên thì thấy dưới đáy động cách đó vài tấc còn vết nước loang lổ. Đá núi hủ nát, chỗ lồi, chỗ lỏm chứ không bằng phẳng thì trong lòng kinh hãi nghĩ thầm:
- Đây là nước ở Khổ Khê. Nếu ta tiến thêm nửa bước thì dù trong mình có Hùng Hoàng Châu cũng gặp rắc rối. Thật lòng trời có ý tựa ta.
Du Hữu Lượng cầm mồi lửa soi quanh một lượt. Vì một chút chần chờ này mà chàng gặp được kỳ tích. Nếu vừa rồi mà chàng nhảy ra ngoài động thì ngày sau võ lâm phải thay đổi bộ mặt.
Nguyên Du Hữu Lượng đang thị sát thì dột nhiên một luồng hào quang mãnh liệt chiếu vào mắt. Cường độ của luồng hào quang này khiến cho người ta phải lóa mắt. Chàng chấn động tâm thần, miễn cưỡng vận nội công để nhìn về phía có ánh hào quang phát ra. Chàng vừa nhận được vị trí của nó thì đột nhiên ánh hào quang thu lại. Chàng cảm thấy mục lực trì trệ hồi lâu không nhìn thấy gì. Du Hữu Lượng rất lấy làm kỳ dị. Chàng đưa mồi lửa tới gần chỗ vách động đã phát ánh hào quang thì thấy nơi đây khảm vào một viên bảo thạch vuông vắn một tấc. Chàng chợt tỉnh ngộ nghĩ thầm:
- Viên bảo thạch này nhờ ánh trăng chiếu vào mới lóe sáng như vậy. Phải chăng đây là mấu chốt của mọi cơ quan?
Chàng nghĩ tới đây liền đưa tay ra khẽ ấn viên bảo thạch. Lập tức vang lên những tiếng lách cách hồi lâu không ngớt. Cả tòa thạch động đều bị rung động. Du Hữu Lượng vội nhảy vọt lên không toan chuồn khỏi thạch động thì thấy vách đá ở mé hữu có khuông cửa mở ra. Chàng mừng như người phát điên, vận khí vào hạ bàn, hạ mình xuống.
Lúc này thạch động trở lại tịch mịch. Tiếng cơ quan chuyển động cũng đã dừng lại. Du Hữu Lượng từ từ bước qua cửa tiến ào. Chàng đề khí ngưng thần thận trọng từng bước, để đề phòng tai biến đột ngột. Chàng đi được mười mấy bước bỗng thấy phía trước rộng dần ra và sáng sủa tựa hồ có ánh dương quang chiếu vào.
Du Hữu Lượng vừa đi vừa nghĩ:
- Giả tỉ Thiết Khoái Tử chậm lại một lúc chưa ra khỏi động thì nhất định hắn nhìn thấy cơ quan ảo diệu. Xem chừng cuộc đắc thất của con người đã có tiền định.
Ông trời đã muốn dành cho ta kho tàng này.
Du Hữu Lượng là người thận trọng. Chàng lật đật tiến lại chỗ đặt cơ quan ấn nút cho cửa đóng chặt lại rồi mới vọt ra ngoài động để lấy Bắc Đẩu thần binh ở trong mình Thiết Khoái Tử. Chàng vào động lần thứ hai, mở cửa thạch thất, thấy trọng bảo ngay trước mặt mà vẫn thản nhiên. Quả đáng là tay anh kiệt.
Du Hữu Lượng đã lấy bảo kiếm cầm tay, lại tìm được chỗ chứa bảo vật bên trong, chàng ngẫm nghĩ một chút rồi thận trọng ấn cơ quan. Quả nhiên cửa đá từ từ đóng lại, không còn một vết tích gì hết. Bây giờ, chàng mới yên tâm rảo bước đi sâu vào.
Chàng đến trước một gian đại sảnh, sáng như ban ngày, thò đầu nhìn vào thì ra trên nóc đại sảnh đã khảm những hạt dạ minh châu lớn bằng trứng chim bồ câu, phát ra ánh sáng êm dịu. Tuy chàng biết nhiều hiểu rộng, nhưng chưa từng thấy nơi nào dùng minh châu làm đèn như ở đây.
Du Hữu Lượng tiến vào nhà đại sảnh lại càng kinh hãi. Chàng thấy khắp nơi là kim quang bảo khí, minh châu phỉ thúy, san hô mã não, xếp thành từng đống, chẳng khác đất cát vứt bỏ bên đường, không ai thèm nhìn đến.
Tiện tay chàng lượm một xâu minh châu lên coi, trong bụng nghĩ thầm:
- Một chuỗi minh châu này trị giá đến hàng ngàn, hàng vạn lạng bạc. Mấy kiếp người lao lực suốt đời cũng khó kiếm vạn lạng. Những vật đáng tiền thế này lại chôn ở dưới đất bao nhiêu năm thì thật là một điều không tưởng tượng được.
Tòa đại sảnh rất lớn, chẳng có một thứ gì bố trí, khắp nơi toàn là châu báu.
Chàng càng vào sâu chàng thấy nhiều vật trân quí. Phen này Du Hữu Lượng mở rộng tầm mắt. Thoạt tiên lòng chàng rất lấy làm kinh dị, rồi biến sang hoan hỉ. Sau khi thấy nhiều quá chàng lại coi châu báu trước mắt như đất bùn, chẳng đáng gì nữa.
Cuối nhà đại sảnh là một sương phòng. Cửa phòng bỏ ngỏ, chàng cẩn thận tiến vào thì thấy một cái giường lớn bằng ngọc phỉ thúy, trên giường chăn đệm cũng có ánh sáng. Chàng thò tay lật chân lên thấy nhẹ như bông, chàng rung tay một cái, chăn theo gió tung bay. Chàng nhìn kĩ lại, thì phía sau giường ngọc còn có một căn nhà nhỏ, rèm châu buông rủ.
Du Hữu Lượng lớn tiếng:
- Vãn bối là Du Hữu Lượng xin vào ra mắt.
Chàng hô luôn ba câu không thấy phản ứng thì biết chủ nhân nơi đây tịch đã lâu rồi. Nhưng chàng là người tinh tế, chỗ nào cũng suy nghĩ chu đáo, lên tiếng cầu kiến trước để đề phòng biến xảy không ngờ.
Du Hữu Lượng lại chờ một lúc nữa mới vén rèm lên nhìn, thì thấy trong nhà có một cái bàn và một cái ghế. Ngồi trên ghế là một lão già tướng người thanh lịch, nét mặt không giận mà oai nghiêm, có vẻ một bậc công hầu.
Du Hữu Lượng nhìn kĩ lại thì lão già mặt áo cẩm bào, vẻ mặt suy tư. Lông mày rủ thấp. Tuy lão chết đã lâu ngày mà chẳng khác người còn sống.
Du Hữu Lượng khoan thai tiến đến trước mặt, miệng lâm râm khấn khứa:
- Xin tiền bối yên tâm. Tiểu tử tuyệt không dám sinh dạ tham lam tiền tài để gây nên tội nghiệt.
Chàng thở dài nghĩ thầm:
- Lão này phú xưng địch quốc, giữ nhiều châu báu quí vật mà thành vô dụng.
Con người ở đời, tuy nhiều tiền bảo nhưng thọ mạng có kỳ. Hởi ơi!
Trong lúc nhất thời, dường như chàng coi lạt lẽo châu báu khắp chỗ. Chàng bôn tẩu giang hồ tìm kiếm kẻ thù lâu năm đã hiểu sâu xa tiền tài là vật rất cần, nhưng tiền tài nhiều quá muốn lấy bao nhiêu thì lấy thì chẳng có chi đáng quí nữa.
Chàng thật có chỗ khác người thường, rồi chàng bụng bảo dạ:
- Ta đi dọc đường tới đây, miền Quan Trung đất khô ngàn dặm, nhân dân chết đói đã nhiều. Bảo vật này họ lấy của dân thì nên dùng nó để cứu dân. Ta đem ra một ít để chẩn cấp cho dân nghèo.
Nghĩ tới lòng chàng bình thản trở lại. Đầu óc sáng sủa, chàng trầm ngâm một lúc rồi lẩm bẩm:
- Những người vào rừng lúc nảy tuy tham lam châu báu nhưng coi vẻ mặt Thiết Khoái Tử thì dường như trong động còn vật gì khiến cho hắn thèm thuồng tựa phát điên. À phải rồi! Nguyệt chiếu bạch dương, ánh lạc nam phương phải chăng là trỏ vào thanh bảo kiếm Bắc Đẩu thần binh? Người võ lâm được món lợi khí này, dĩ nhiên uy lực tăng thêm rất nhiều.
Chàng vừa nghĩ vừa đi lại bên án thì thấy cả cái thư án do một phiến đá ngọc xanh đục thành. Chỗ lão già đặt bàn tay có tám chữ triện "Nhất nhập thử môn, thoát thai hoán cốt".
Du Hữu Lượng sửng sốt nghĩ thầm:
- Thoát thai hoán cốt hiển nhiên là thuật ngữ về những võ học. Nhưng, làm sao lại thoát thai hoán cốt được? Đó là một điều cần phải nghiên cứu.
Chàng chú ý quan sát bốn mặt căn nhà nhỏ, chẳng thấy sách vở chi hết. Trên vách cũng không có đồ hình luyện võ. Chàng không khỏi thất vọng. Lúc chàng di động không để ý, vô hình đụng vào vai bên phải của lão già. Chàng vẫn chưa để ý, toan lui ra nhà đại sảnh thì đột nhiên ngó thấy áo bào của lão rơi xuống. Trong khoảng khắc chỉ còn lại một bộ xương khô.
Du Hữu Lượng cả kinh, thấy trên mặt đất rớt xuống một đống tro trắng. Sau một lát, trong vạt áo lão bay ra một mảnh giấy trắng.
Du Hữu Lượng đưa thanh kiếm khều mảnh giấy lên, thấy trên có một hàng chữ:
Ngộ Du nhi khải, Vĩnh Lạc tứ niên, Thường Thiên Tứ lâm chung tuyệt bút.
Du Hữu Lượng ngõ giòng chữ ngắn ngủi này, trong lòng vừa kinh hãi vừa ngạc nhiên, tự nghĩ:
- Lão này chết đã hơn trăm năm mà biết trước việc hậu lai. Thật là nhân vật thần thông quảng đại, khiến người ta phải kinh hải.
Chàng lật tấm giấy trắng lên thì thấy mặt sau loang lổ từng vết máu. Chàng định thần nhìn kĩ lại thì ra những chữ này lớn bằng đầu ruồi:
"Cuộc phản loạn của vương thúc là một việc đau lòng. Ông tổ là là Thường Mộ Xuân, phụ tá Thái Tổ hoàng đế biết bao công lao khó nhọc để dựng nước, khí số đến đây là hết. Ta vâng đế mệnh, chuyển vận tài bảo trong cung để dùng làm phí tổn cho cuộc khởi nghĩa mai sau.
Căn nhà đá này do Lỗ tiên sinh đời Xuân Thu dựng ra. Ta ngẫu nhiên tới đây được gặp đại hiệp La Vĩnh Nông. La đại hiệp không muốn sống nữa, ta cũng không khuyên giải liền mai táng thi hài cùng thần kiếm. May là nơi đây là chỗ kín đáo.
Năm sau vận chết của ta sẽ đến, liền dấu tài bảo vào trong động. Ngày tháng trôi qua biết mình sắp hết đời.
Đêm qua ta coi tinh tú thấy ý trời đã định cho Yên tặc thành công. Kho tàng này rất lớn cốt để người hữu tâm tạo phúc cho lê dân. Nếu lọt vào tay kẻ tặc tử, lại xảy ra cuộc binh đao thì ta ân hận biết bao nhiêu. Ta còn để lại ba giọt linh dịch của La đại hiệp. Kẻ học võ uống vào có thể thoát thai hoán cốt trong giây lát.
Ta vận thần công ba mươi sáu lần và xem ra sau này chàng thiếu niên anh hào họ Du sẽ lấy được bảo tàng. Đạo trời huyền bí, người thường không thể hiểu rõ được".
Viết tới đây dường như lão đã kiệt lực rồi, buông ngòi bút xuống. Du Hữu Lượng xem xong nghĩ thầm:
- Thường Thiên Tứ tự biết mệnh tuyệt, lấy mũi châm chích huyết viết bản di cáo này. Đáng tiếc là lão nhân gia không chỉ điểm chỗ cất dấu linh dịch cho ta hay.
Rồi chàng tự nghĩ:
- Thường Thiên Tứ nguyên là dòng dõi hổ oai tướng quân Thường Ngộ Xuân.
Lão nhân gia vận chính khí để giữ cho thân thể không tiêu hóa. Nay bị ta đụng vào, liền nát ra như cám. Ta sơ ý làm tan nát pháp thể của bậc đại trung thần, thật là có tội!
Chàng không nghĩ ngợi nhiều nữa, chạy ra ngoài tiền sảnh lấy một cái rương đem đến để bên cạnh Thường Thiên Tứ, kính cẩn bốc di hài đặt vào. Bỗng chàng thấy nặng không kéo lên được. Chàng liền cúi đầu nhìn xuống thì ra dưới chân Thường Thiên Tứ có vòng sắt gắn chặt vào ghế bằng ngọc.
Du Hữu Lượng bụng bảo dạ:
- Thường Thiên Tứ tự khóa mình vào đây vì lão tiền bối sợ không nhẫn nại được lại muốn bỏ đi. Xem chừng thạch thất này có đường thông ra ngoài.
Rồi chàng tự nhủ:
- Hoặc giả lão tiền bối còn có dụng ý gì? Ta phải coi cho cẩn thận mới được.
Chàng cúi xuống quan sát hồi lâu thì thấy cái ghế ngọc dính liền xuống nền nhà. Nguyên căn nhà nhỏ này là một tảng ngọc xanh đục ra. Du Hữu Lượng là người rất thông tuệ. Chàng phát giác đáy ghế, chỗ dính liền xuống đất màu sắc nhạt hơn, liền hai tay di chuyển cái ghế. Bỗng nghe tiếng lách cách vang lên, phía dưới lộ ra một cái nhà hầm.
Du Hữu Lượng đặt di hài Thường Thiên Tứ vào trong rương rồi từ từ đi xuống nhà hầm. Chàng vừa chui vào đã ngửi thấy mùi thanh hương. Trong nhà hầm có một cái án nhỏ, trên án đặt cái bình ngọc.
Du Hữu Lượng lấy được bình ngọc trong đựng một chút nước màu hồng tươi.
Chàng mở nút ra thì một mùi thơm sực nứt bay ra khắp gian nhà. Chàng trầm ngâm một chút thấy nước linh dịch mỗi lúc một cạn đi. Chàng vội há miệng đổ vào, thì chỉ còn hai giọt đã hết rồi. Chàng hối hận nghĩ thầm:
- Mình chỉ chần chờ một chút mà mất đến mười năm công lực. Mỗi khi gặp việc, mình quá lo xa, không quyết đoán mau lẹ mà thành tai hại. Đây là một khuyết điểm lớn trong đời người.
Thực ra vì chàng tâm tư thận trọng, cơ mưu quyền biến mới giữ thân được đến ngày nay không tử thương. Nhưng lúc này chàng chỉ tự oán mình vì lẩn thẩn mà lở việc. Sau khi uống nước linh dịch một lúc, chàng cảm thấy chân khí bốc lên rạo rực. Chàng đã uống nhiều thứ linh dược, chân khí trong người lúc này ngưng tụ lại tưởng chẳng kém gì Đại Thiền Tông.
Du Hữu Lượng toan vận công điều khí thì đột nhiên bên trên có tiếng người rất rõ ràng vọng xuống:
- Ôn huynh! Lão cũng đến rồi! Hay lắm! Thật là Ôn huynh có nguồn tin tức mau lẹ.
Một thanh âm quái gở khác cất lên:
- Ha ha, lão quái! Mười năm nay không gặp mà vẫn nguyên như trước. Lão Ôn rất lấy làm cao hứng.
Thanh âm trước lại nói:
- Nghe nói công lực về Huyết Hà Đại Trận của Ôn huynh lại tăng thêm mấy phần. Bên Tây Thiên, ngoại trừ Bách Cầm Pháp Vương, Ôn huynh đứng đầu rồi.
Người được kêu bằng Ôn huynh đáp:
- Lão quái lại dở trò khẩu thị tâm phi. Mười năm nay lão đóng cửa tu luyện, chắc tiểu đệ không phải là tay đối thủ.
Lão quái nổi lên tràng cười hô hố, không nói gì nữa. Du Hữu Lượng nghe kĩ thanh âm này bất giác giật mình kinh hải, nghĩ thầm:
- Chỗ mình đây cách cửa động ít ra là nửa dặm mà sao nghe rõ thế? Phải chăng môn Thiên Lý Truyền Âm của hai lão đã đến trình độ tối cao? Họ cười nói tự nhiên mà công lực vẫn ngưng tụ được không hóa tán. Đến sư phụ mình chưa chắc tới trình độ này.
Chàng nghĩ tới đây trong lòng phát run, miệng lẩm bẩm:
- Nghe khẩu âm thì lão họ Ôn này đúng là quái vật mà ta đã gặp ngay trước khi ở Tây Tạng tới đây. Hắn động thủ cùng Vân Long Ông mà không chiếm được tiện nghi mới thật là kỳ.
Lại nghe lão họ Ôn lên tiếng:
- Này lão quái, chúng ta đến đây cùng một lúc, vậy thứ Quỳnh Phủ tiên dịch kia phải chia đều. Còn kim ngân tài bảo trong động thì lão huynh lấy cả cũng được.
Lão quái đáp:
- Ai thèm thuồng gì kim ngân tài bảo? Đã chạm trán lão thì Quỳnh Phủ tiên dịch nhất định lão cũng có phần.
Lão họ Ôn cả mừng nói:
- Lão quái là người bạn tốt. Ôn mỗ suốt đời không quên được.
Lão quái cười ha hả nói:
- Lão Ôn đã nổi tiếng về nghề khẩu thị tâm phi. Miệng nói là suốt đời không quên, nhưng chỉ nháy mắt đã hết nhớ rồi. Ta không phải lo chuyện đó mà chỉ sợ họ Du cũng biết. Lát nữa khó lòng tránh khỏi một cuộc ác đấu.
Lão họ Ôn hỏi:
- Tiểu đệ đã đi theo lão ca ca thì họ Du làm cóc gì được?
Lão quái vỗ tay hỏi lại:
- Ta cũng muốn nói câu ấy. Này lão Ôn! Lão tưởng rằng ta không biết là lão cứ thập thò, nấp tránh theo dõi ta ở dọc đường chăng?
Lão họ Ôn bật mấy tiếng cười khô khan đáp:
- Lão quái thật kéo đa nghi. Ha ha!
Du Hữu Lượng càng nghe lâu càng cảm thấy thanh âm lão quái rất quen thuộc mà nghĩ không ra được là đã gặp lão ở đâu. Lòng chàng vẫn băng khoăn về câu lão quái nói "chỉ sợ họ Du cũng biết vụ này".
Chàng tự hỏi:
- Chẳng lẽ lão quái đã biết ta trong động này? Nhưng không có lý. Ta đã hiểu rõ công lực của lão họ Ôn. Một mình lão ta cũng chẳng thể nào địch nổi, chứ đừng nói hai người. Làm sao lão quái lại sợ ta?
Du Hữu Lượng nghĩ mãi không thông, lại nghe họ Ôn lên tiếng:
- Lão quái! Lão tính thế nào? Chúng ta nên động thủ đi thôi chứ? Thăng cha Thiết Khoái Tử bị thương nằm lăn ra đó rồi. Tảng đã nóc động lại bị người ta phá thủng mà lão không sợ kẻ khác nhanh chân hơn mình ư?
Lão quái lạnh lùng đáp:
- Lão thì biết cóc gì? Trong những bức tường tòa nhà đá có đặt bảy mươi hai cơ quan khủng khiếp. Nơi nào cũng nguy hiểm chết người. Nếu không biết chỗ ảo diệu bên trong thì dù là đại la thần tiên cũng chẳng thể vào được.
Lão họ Ôn nghe lão quái ra điều khinh mạn vẫn không giận dữ, cười nói:
- Người tới đây đã đoạt thanh Bắc Đẩu thần binh của Thiết Khoái Tử đem đi thì thân thủ họ nhất định không phải tầm thường. Theo ý kiến của tiểu đệ, chúng ta nên động thủ đi mới là thượng sách.
Lão quái hỏi:
- Căn nhà đá này chỉ có đường vào chứ không có lối ra, việc gì lão phải nóng nảy?
Du Hữu Lượng sửng sốt nghĩ thầm:
- Mình cứ tưởng lão quái và lão họ Ôn do đường nào khác tới đây và đã gần kề chỗ ta đứng, không thì làm sao thanh âm lại rõ ràng thế? Xem chừng hai người đã luyện được nội công đến độ xuất quỉ nhập thần.