Cả phòng đang im lặng, thì Bân đánh tan cục diện noi:
- Thực ra nếu chúng ta có thể dùng hàng thay thế, nếu nó đủ giá trị.
Đừng mang hàng quá giá trị nếu ko các ông bị đồ sát cả làng.Vì ơn hôm nay mọi người cho cháu tá túc mấy hôm tìm người nhà nên cháu sẽ nhờ cha cháu tìm cho mọi người mấy chiếc gươm sắt tốt để mọi người mang đi đút lót cho quan quân,ko đi là may mắn nhất, nếu vẫn phải đi thì có thể rút số người ít nhất có thể.
Lão Bàn mừng quýnh nói.
- Tốt quá! Ta thay mặt toàn dân làng cảm ơn cháu và cha cháu.
Cháu cứu làng ta mạng rồi.
Bân hỏi tiếp :
- Thưa ông, quanh đây còn có ngôi làng nào khác không ạ ? Lão Bàn nói :
Quanh đây còn vài thôn làng nữa.Mà cháu hỏi vậy làm chi? Bân nói :
Cha cháu tính lên ở vùng này làm ăn buôn bán và định cư tránh giặc giã luôn, nên sai cháu và mấy người gia nhân trong nhà đi tìm hiểu tình hình trước sau đó đưa người lên sau, ông ý còn ở đấy tính mua đồ mà quân lính cướp được từ Lâm Âp.
Nếu dân làng mình bị bắt phu thì cháu có thể bảo cha cháu ở phương nam chăm sóc và chuộc họ về khi chiến tranh kết thúc.
Đều là đồng Bào với nhau cả, đi phu cho người Há chắc chết và mất tích nhiều, cứu được bao nhiêu người thì cứu.
Cha con Bàn, Tán rối rít tạ ơn.
Họ nghĩ có thể không tạo quan hệ với nhà quan nhưng với thương nhân cũng được, ít ra sau này họ sẽ có trợ giúp , cuộc sống bớt khốn khó.
Bân thì nghĩ cứ tạo quan hệ tốt với người dân đây đã, sau này có việc gì thì họ sẽ trợ giúp, bây giờ cần họ để tìm hiểu tình hình xung quanh, timg kiếm chỗ cắm dùi đã.
Bây giờ người không, thế lực không, lòng người không, ngoài tiền và vũ khí, Mình còn mang bảo bối này thì mang tội.
mình có thế lực đã, sau này tính sau.
Cuộc nói chuyện phiếm diễn ra lúc lâu nữa , Bân tìm hiểu thêm về địa hình, người Việt thời này.
Lịch sử tại đây diễn ra chậm hơn nhưng hiện tại nó vẫn diễn ra theo những gì mà hắn biết, nó vẫn chạy theo vong quay của nó nhưng chậm hơn mà thôi.
Bân muốn tạo quan hệ rộng nhất có thể để tạo chỗ đứng chân sau này nhờ những kiến thức thế giới cũ của học được thông qua trường lớp và internet.
Qua cuộc nói truyện hắn biết sắt thời này vẫn còn là mặt hàng quý nhưng không có hiếm,Lịch sử thế giới cũ và thế giới này Người Việt đã biết rèn sắt từ rất lâu chứ không phải như cuốn sách lịch sử TQ và mấy tay lịch sử yếu ở VN nói rằng là người Hán chiếm thì VN mới biết dùng sắt, rèn sắt.
Thực ra sách lịch sử lớp - VN có viết rằng :" trước khi người Hán xâm được sắt đã được dùng nhưng không phổ biến, sau khi thời Bắc Thược thì đồ sắt được dùng phổ biến hơn".
Việt Nam có câu truyện Thánh Gióng thì có đoạn vua sai cả nước góp sắt rèn được cái áo giáp, gậy, ngựa, mũ sắt.
Đến đây chúng ta có thể hiểu là người Việt biết rèn sắt từ thời kì Hùng vương thứ , nhưng sản lượng ít nên cả nước mới làm được bộ giáp, mũ, gậy, và bọc giáp cho con ngựa, tất nhiên là loại hàng to, cứ cho - tạ sắt đi cho rộng rãi.Thánh Giong dùng gậy sắt đánh bay , đập nát gãyvũ khí giặc Ân hay nhà Ân Thương bên TQ, điều này chứng tỏ thời đấy Trung quốc chỉ có dùng đồng làm vũ khí như người Việt.
Theo các di chỉ khảo cổ thì nhà Tần, Hán thì lúc này Vũ khí của họ cũng chủ yếu bằng đồng, sắt tuy có áp dụng nhiều hơn,do sản lượng cũng như công nghệ họ vượt trội hơn nên vũ khí bằng sắt họ nhiều hơn nhưng không thể tạo sự vượt trội quá lớn được.Như đầu mũi tên và áo giáp của họ đều làm bằng đồng và không phải ai cũng có áo giáp toàn bằng đồng, chỉ có tướng lĩnh và thân binh,còn quân lính thì thằng nào trong đội tinh nhuệ mới có giáp đồng trước ngực và bụng, không thì đa phần dùng giáp da, bông, tre mứa đan vào.
Mũ cũng vậy ngoài thân binh,cấm quân dùng đồ sắt thì đa phần mũ bằng đồng, dùng quá nhiều đồng ảnh hưởng đến đúc tiền và nhu cầu trong nước thì lính thường nhiều khi đội Mũ bằng da ngựa, da trâu, da đôn gj vật bên trong là tre nứa.
Khiên cũng vậy.
Áogiáp bằng dahọ cũng rất nhiều phục vụ vụ cho quân đội và cả sĩ quan hơn nhau mỗi chỗ sĩ quan có tấm thép hoặc đồng trước ngực, còn lính thì có thể có hoặc ko, tùy độ giàu của quân đội từng nước.
Đến thời Tam quốc hay sau cuộc dời đô lần của nhà Hán thì đúng là lúc này trang bị của quân Hán về vũ khí thuần bằng sắt thật, nhưng nhà nước kiểm soát sắt cực chặt nên sắt dùng vũ khí thường còn ko đủ, cung tên cũng là dạng nửa đồng nửa sắt.
Đến khi hết thời Tam quốc nhà Tùy, đường hay ngũ đại thì đúng là lúc này đầu Mũi tên thuần sắt
Người Việt, thời An Dương Vương có vũ khí bằng sắt không? Câu trả lời tất nhiên là có nhất là vùng đất Tây Âu mà An Dương Vương cai trị có tiếp xúc giao thương rất nhiều với người Hán nên họ cũng không thiếu vũ khí bằng sắt.
thời Âu Lạc cũng vậy, nước ta biết rèn sắt nhưng vì công nghệ và sản lượng không bằng người Hán nên không trang bị nhiều như họ, cộng với việt phân quyền nên mỗi đội quân trang bị kiểu không thống nhất thôi.
Sau khi người Hán xâm lược đã đốt hết thư tịch và thợ giỏi về nước họ, cùng với công nghệ rèn sắt là bí mật nhà nước và các quý tộc lớn nên số người biết rất ít.
Vì vậy , nhà Hán sau khi bắt hết những người này thì dân mình bị thụt lùi trong công nghệ luyện kim.Thời Tùy Đường Lệnh giới hạn sắt thép tại vùng Giao châu này đã được nới lỏng rất nhiều do nhu cầu chiến tranh và gia tăng sản lượng cũng như các tầng lớp quý tộc cũ của người việt, thương nhâncó thực lực nhất định cũng như tiếp thu những tri thức của người Hán di cư xuống do chiến tranh của thời Kì Ngũ Hồ thập lục quốc và Nam–Bắc triều kéo dài suốt từ năm đến khi nhà Đường thống nhất TQ thời Lí Thế Dân.
Nhờ TQ loạn lạc cũng như sự tiếp thu tri thức của Người Việt, sự nói lỏng quản lí nguồn sắt đã đóng góp trong những nguyên nhânquan trọng trong Việc Lí Nam Đê thành công thành lập nước Vạn Xuân giành độc lập dân tộc và trụ vững suốt năm.
sau này nhờ nới lỏng quản lý nguồn cung sắt cũng là trong những nguyên nhân quan trọng mà Phùng Hưng và Mai Hắc Đế nhanh chóng thu thập đủ trang bị khí giới đối kháng được với quân nhà Đường, giành độc lập cho dân tộc thêm thời gian nữa
Nói lan man vậy thôi chứ Bân biết,vào đầu thời Tùy đường thì sắt tuy không hiếm nhưng thép tốt rất quý, công nghệ luyện thép vẫn còn chậm, rèn được thanh kiếm tốt có khi mất hàng tuần, hàng tháng và đó là đồ dùng cho tướng, cho sĩ quan, thân binh thân cận, con cháu gia tộc quyền quý.
Còn đồ dùng đại trà cho lính thì đa phần là giáo mác vì nó ít nguyên liệu cũng như cũng như dễ gia công hơn,lính cầm gươm nhiều người là đồ nhà mang đi hoặc anh ta thuộc binh chủng phải cầm gươm chiến đấu do nhà nước phát.
Tất nhiên nó không bằng vũ khí của tướng lĩnh rồi. thanh kiếm, đao, gươm tốt có giá trị tương đương chiếc siêu xe máy bây giờ.
Vì vậy chúng ta xem phim TQ hay xuất hiện cảnh vũ khí truyền từ đời cha truyền lại, có khi mấy đời, khi mẻ hay bị cong vênh thì ra thợ rèn nung nóng, đập lại mài và dùng tiếp.
NGoài ra do chiến tranh nên Người Han cũng đã nghiên cứu ra các phương thức rèn đúc kim loại mới, tốt hơn và nhanh hơn nhiềuso với thời Hán, hay tam quốc nhưng so với nhu cầu dân dùng và quân đội dùng vẫn còn rất chậm.
bg-ssp-{height:px}
Bân có nhớ đọc trong thông tin lịch sử hay câu truyện xuyên không của TQ nào đó thì nói thời Tùy Đường là bách luyện thì phải, hình như là gấp sắt mềm lại rồi đập bẹp cho loại tạp chất và điều chỉnh lượng cacbon, sau vậy lần là ok xong tạo hình.
như cách rèn takana thì phải.Về vũ khí lạnh thì Bân có thể xưng là lắm vũ khí bằng kim loại tốt nhất.
Thằng cha người Tàu kia là dân học võ và hình như hắn cũng có ý định xuyên không nên hắn cũng thu thập khá nhiều vũ khí lạnh, đủ thể loại luôn, thậm chí katana chính hãng hay fake hay hàng fake nhưng tốt hơn hàng thật cũng có,Bân chắc chắn hiện tại lấy bừa cái cũng tốt hơn tất cả những loại binh khí bây giờ,cứ chờ chỗ nào vắng người lôi ra tặng có khi họ coi trân bảo.
Nói chuyện hồi lâu, Bân thấy mệt do ngày dài mệt mỏi cũng như nhiều thứ quá không thể tin được xảy ra trong ngày của cậu, cậu xin phép đi nghỉ.
người Việt thời này buổi tối hát hò với nhau còn về nhà là cháu ngồi bên bếp lửa nghe ông bà kể chuyện , giải trí ít, thức ăn ko đủ dinh dưỡng và năng lượng nên họ đi ngủ sớm để tiết kiệm năng lượng để sáng mai còn lao động nặng nhọc.
Lão Bàn bảo vợ sắp xếp cho Bân cái gian ngủ, lão và con trai thì vẫn ngồi bên bếp lửa, tay lão tu bát nước chè xanh rồi thông cái điếu bát bắt đầu rít thuốc Lào.
Hơi thuốc khiếnlão minh mẫn hơn khi có quá nhiều xảy ra hôm nay, tất cả về thằng ất ơ không biết từ đâu tới với bộ đồ sang trọng nhưng hình dạng kì lạ cùng với đống đồ kì lạ không kém.
Ông Tán nói:
- Bố! Bố tin những gì thằng nhóc đó nói chứ? con thấy nó cứ như thế nào ý, cứ như nó biết hết mọi chuyện vậy.
Ông tán trầm ngâm nói:
- Đúng là kì lạ! Thằng nhóc này da dẻ nhìn trắng bóc không giống người bán mặt lưng cho trời, trên người toàn đồ quý giá, trừ số đồ bằng thép và lưu ly quý giá kia thì nhiều thứ trên người nó ta không biết làm bằng gì.
Nó không nhuộm răng đen như người Việt ta, ngón cái của nó cũng không cong như người Việt ta Ông Tán nói :
Hay nó là người Hán đến dò la chỗ chúng ta? Ông Bàn nói:
từ ngữ điệu giọng nói , khẩu âm đúng là người Bộ Câu Lậu, Châu Trường yên ta, Tiếng nói không pha tạp thì đúng là người gốc ở đây là sống ở đây từ bé, nhưng nó dùng chữ cha không phải là bố, cùng với việc không nhuộm răng và ngón chân không cong thì có khả năng nó là con lai giữa người Việt và người Hán.
Mặt nó đặc người Việt,mắt to mí, môi giày thì có khả năng cao bố nó là người Việt, Mẹ nó là người Hán.
( p/s cái chân giao chỉ thì ngón này là biến dạng về mặt sinh học do môi trường sống phải lội ruộng bùn leo trò chứ ko liên quan đến ADN , trên thế giới nhiều dân tộc cũng có đặc điểm này ko cứ người việt.
Chỉ cần con cái không có hoặc ít làm các công việc của cha mẹ cũng như đi dày dép nhiều là sẽ biến mất.
Thế nên không phải do người Việt lai với người Hán mà là do phương thức lao dộng, canh tác, môi trường sống cũng như vật dụng của họ thay đổi nên mới không còn ngón chân giao chỉ của người việt hiện đại, điều này thấy rõ thông qua các xác ướp quý tộc việt nam thời nhà hậu Lê vì không xác ướp nào có ngón chân giao chỉ cả, theo như câu truyện thì người dân do thiếu hiểu biết nên nghĩ đặc trưng này do sinh ra đặc trưng của dân tộc nên coi ai không co thì là con lai là người Hán) Ông Tán:
Vậy coi như nó là người Việt mình,nhưng nó có cách nói truyện của người lớn trải sự đời chứ không phải của trẻ con.
Hay nhà nó phục vụ cho các gia tộc quyền quý hoặc nhà mẹ nó hoặc cha nó thuộc dòng dõi quyền quý.
Ông Bàn :
Điều này có khả năng, nhưng ta thiên về nó thuộc dòng dõi quyền quý ở Giao chỉ này hơn vì khi nó nói việc Lưu phương hay nhà Tùy mang hận ý khá nặng, tuy đã điều tiết nhưng với bao năm kinh nghiệm sống của ta thì ta thấy đó là thù hận, là sát ý.
Ta khá là chắc rằng nó không phải con thương nhân, vì theo nó nói cha nó mang gia đình bôn ba chạy giặc thì trong mấy năm bôn ba thì nó không có nước da trắng như trứng gà bóc như lúc chúng ta nhìn thấy khi nó chiếu cái ánh sáng kì lạ vào người.
Ta gặp nhiều đứa con nhà thương nhân trên trấn nhưng chưa thấy đứa nào trắng nõn như thế này.
Nó biết quá nhiều thứ và có tâm thái bình ổn, trông rất trưởng thành, không phù hợp với tuổi.
Ánh mắt nó nhìn non nớt nhưng khi nhắc đến dân tộc, đất nước thì hưng phấn, nhắc đến Nhà tùy, Tây lương thì sát ý , hận ý, cộng với việc nó biết quá nhiều thứ cho dù có tiền cũng không học được như y thuật, thông tin xung quanh.
Điều này càng chứng tỏ nó là người thuộc dòng dõi quyền quý nước Vạn Xuân trước đây chứ không phải con thương nhân.
Ông Tán :
- Sao con không nhìn ra nhỉ bố? Ông Bàn :
- Khi con sống đến tuổi của ta và đi gặp gỡ nhiều loại người thì con sẽ tự dưng nhìn thấy được những thứ vô hình, những thứ chỉ có thể cảm nhận mà mắt người không nhìn thấy được! Ông Tán :
- Theo bố thì thằng này thuộc dòng dõi Lí Nam Đế hay Triệu Việt Vương? Ông Bàn:
- Cái này chúng ta phải tìm hiểu thêm.
cũng có thể cả ,vì họ này lấy nhau cũng nhiều lắm hoặc cũng có thể nó là con cháu dòng trưởng của các bộ tướng thân cận vị còn sót lại đã thay đổi tên họ sợ diệt tộc.
Nó mang tên họ chữ, Họ này chỉ hoàng tộc, quý tộc , quyền quý dùng, dân thường không ai dám làm đâu.
- Mai con dẫn nó đi xem các làng xung quanh rồi để ý và dò hỏi nó xem sao.
thôi đi ngủ sớm đi, mai đi xa mệt đấy.
Lúc này Bân đã được mang vào gian buồng và đã đắp chăn quay .....!à nhầm đắp chăn lấy trong thắt lưng trùm lên để che ánh sáng từ hình chiếu, hắn đang chọn đồ ăn gồm chiếc lương khô vỗ béo ban đêm, từ tối đến giờ ăn mỗi bánh mì, vừa hay có đống nước vừa uống, ăn luong khô vào nở ra là bao no.
Vì còn sớm , dù hơi mệt chưa đến mức buồn ngủ hẳn nên hắn tính lấy thêm số đồ đặt sẵn bên ngoài mai mang ra phòng thân, buổi sáng người ngoài vào cũng ko thấy hắn dùng chiếc đai, ai thấy hắn chết.
Lúc này nếu như hắn mà nghe thấy đoạn hội thoại bố con Bàn Tán thì chắc hắn sẽ sốc nặng vì dộ logic trong suy nghĩ, độ logic éo thể tin được trong thời cổ đại.Hắn đã quên rằng suốt nghìn năm qua con người chưa có tiến hóa đáng kể nào để phát triển thành thực thể siêu nhiên hơn, các nhà khoa học còn nói là gần như không tiến hóa gì.
Hắn quên con người thiếu tri thức thôi chứ không thiếu suy nghĩ.
Hắn mà mà biết câu chuyện này thì nếu có nắm lá ngón trong tay Bân sẽ nhét vào mồm bố con thằng nào bảo người cổ đại suy nghĩ ngây ngơ.
Họ éo ngây thơ đâu, họ quản lí cả vùng rộng lớn đủ mọi loại người, dân tộc trong khi không có các thiết bị hiện đại ngày nay.