Cơn gió lạnh độc địa thổi dưới tầng mây trĩu thấp ban chiều tắt dần vào lúc hoàng hôn. Cách nhà Wall ba căn, Samantha Mollison đang ngồi đối diện với cái bóng mình phản chiếu trong gương trang điểm dưới ánh đèn bàn, xung quanh yên tĩnh đến phát sầu.
Mấy hôm nay thật chán. Cô hầu như chẳng bán được món đồ gì. Tay đại diện bán hàng từ Champêtre hóa ra là một thằng cha cằm nọng chán ngắt, áo ngực chào bán thì xấu mù. Rõ ràng gã chỉ ra vẻ lịch thiệp lúc đầu thôi, đến khi gặp chính thức thì thuần bàn công việc, lại còn ra vẻ kẻ cả, chê bai hàng họ rồi hối cô đặt hàng. Cô cứ ngỡ sẽ gặp anh chàng trẻ trung cao ráo và ngon nghẻ hơn; giờ cô chỉ muốn tống gã này với mớ đồ lót lòe loẹt của gã khỏi cửa hàng nhỏ của mình càng nhanh càng tốt.
Cô đã mua một tấm thiếp “chia buồn sâu sắc” cho Mary Fairbrother vào giờ nghỉ trưa, nhưng chưa nghĩ ra phải viết gì; đã đi cùng chị ta tới bệnh viện thế thì ký mỗi cái tên xem ra không phải lẽ. Trước giờ cô với Mary cũng chẳng thân thiết gì. Ở thị trấn nhỏ như Pagford thì dễ đụng mặt nhau thường xuyên, nhưng cô và Miles chưa khi nào hiểu rõ về ông bà Barry và Mary. Có chăng cũng chỉ nghe nói họ ở “phe kia”, ông bố chồng Howard với Barry suốt ngày đấu đá nhau về vụ khu Fields... mà cô, Samantha, thì chẳng việc quái gì mà ủng hộ phe nào. Cô ráng dính dáng càng ít càng tốt vào mấy vụ chính trị địa phương.
Bực bội mệt mỏi và phát ốm lên sau cả ngày chỉ kịp ăn vớ vẩn cho qua bữa, cô chỉ ước giờ không phải cùng Miles tới nhà bố mẹ chồng ăn tối. Nhìn vào gương, cô ép hai tay vào mặt hơi kéo căng da về phía tai. Một cô Samantha trông trẻ trung hơn vài milimét nhìn lại. Cô chậm rãi quay mặt từ phía này sang phía kia xem kỹ cái mặt nạ da căng mới này. Ổn hơn nhiều, đúng là thế. Không biết đi căng da thật thì có đau lắm không, tốn bao nhiêu và nhất là cô có dám thử không. Cô chuyển sang hình dung xem bà mẹ chồng sẽ nói gì khi thấy cô xuất hiện với gương mặt mới săn chắc, ông bà Shirley và Howard đang giúp tiền học cho cháu nội, và bà Shirley liên tục nhắc cho cô con dâu nhớ chuyện đó.
Miles bước vào phòng ngủ; Samantha buông tay, nhặt hộp kem che bọng mắt, hơi ngả đầu ra sau như thói quen mỗi khi trang điểm; tư thế này làm da chỗ xương hàm cô căng hơn một tí và bọng mắt có vẻ nhỏ đi. Viền môi cô có nhiều nếp nhăn ngắn nhưng sâu. Nghe nói nếu đi bơm thì mấy vết đó sẽ mất. Không biết làm xong trông có khác gì nhiều không nhỉ. Thủ thuật này hẳn là rẻ hơn đi nâng mặt, chắc mẹ chồng cũng không phát hiện ra. Nhìn qua gương, cô thấy Miles đang tháo cà vạt, cởi áo, cái bụng bự xệ xuống lưng quần.
- Hôm nay em phải gặp ai? Đại diện bán hàng à? - Anh hỏi, vừa nhìn tủ áo vừa lơ đãng gãi gãi cái rốn rậm lông.
- Ừ, nhưng hàng họ chả ra làm sao - Samantha đáp - toàn mấy thứ chán ngắt.
Miles thích việc bán hàng của vợ; nhà anh trước nay trọng nghề bán lẻ, vì vậy sự quan tâm tới ngành thương mại mà bố Howard truyền cho con trai chẳng bao giờ mất đi. Mà thứ hàng cô kinh doanh thì có khối chuyện để đùa. Miles có vẻ chẳng bao giờ chán chuyện đùa giễu cùng một vấn đề cả.
- Kích cỡ không hợp à? - Anh hỏi ra vẻ hiểu biết.
- Kiểu dáng xấu mù. Màu sắc còn kinh hơn.
Samantha chải tóc rồi buộc túm mái tóc nâu khô xác nhưng dày; qua gương, cô nhìn Miles thay đồ đi làm sang quần vải bông và áo thun polo. Cô đang cực kỳ căng thẳng, tưởng như chỉ cần một cớ nhỏ là sẵn sàng nổi điên lên.
Nhà Trăng Khuyết chỉ cách nhà họ vài phút chạy xe, nhưng phố Church Row khá dốc nên họ vẫn đánh xe hơi đi. Màn đêm đã buông xuống hẳn, lúc chạy ngang đầu đường, có bóng ai đang đi mờ mờ trông giống hệt Barry Fairbrother; Samantha giật thót mình ngoái lại nhìn, không biết đó là ai. Miles rẽ trái ngay cuối đường rồi chưa đầy một phút sau lại quẹo phải vào khu bungalow hình trăng khuyết kiểu thập niên 30.
Nhà của Howard và Shirley thấp, xây bằng gạch đỏ với những cánh cửa sổ rộng rãi, bãi cỏ dài xanh mướt kiêu hãnh bao lấy sân trước lẫn sân sau, cứ đến hè là Miles lại đến giúp xén cỏ thành từng dải. Trong suốt nhiều năm dài cư ngụ tại đây, Howard và Shirley dần dần đã gắn thêm đèn, lắp cánh cổng bằng sắt chạm sơn trắng và đặt nhiều bình đất nung trồng hoa phong lữ ở hai bên cổng. Hai vợ chồng còn gắn một tấm biển tròn bằng gỗ đánh sáng bóng cạnh chuông cửa, trên đó có chữ “Ambleside” viết bằng những chữ cái đen kiểu Gothic đặt trong dấu nháy.
Đôi khi Samantha châm chích khá cay về số tiền bố mẹ chồng đổ vào căn nhà. Miles chịu đựng những câu châm chọc đó, ra vẻ đồng tình rằng căn nhà hiện nay của họ, với sàn nhà và cửa chà nhám giả gỗ mộc, thảm phủ sàn, mấy tấm tranh in lồng khung cũng như chiếc ghế sofa kiểu cọ nhưng không thoải mái của họ có vẻ mỹ thuật hơn hẳn; nhưng tận đáy lòng, anh vẫn thích căn bungalow nơi mình lớn lên. Hầu như chỗ nào cũng có lót bọc vừa mềm vừa sang, không có gió lùa, và những chiếc ghế tựa mới êm ái làm sao. Mùa hè, mỗi khi anh cắt cỏ xong là mẹ Shirley lại mang cho một ly bia lạnh, rồi anh nằm dài ra cùng bố mẹ xem đấu cricket trên tivi màn ảnh rộng. Thỉnh thoảng một cô con gái lại chạy vào ngồi cạnh anh ăn món kem phủ sôcôla bà nội Shirley đặc biệt làm cho cháu.
- Chào cưng - Shirley mở cửa. Thân hình thấp bé gọn gàng của bà làm người ta dễ liên tưởng tới lọ đựng tiêu xinh xắn. Bà nhón chân hôn cậu con trai cao to, nói qua loa “Chào con, Sam”, rồi quay đi ngay. - Bữa tối gần xong rồi. Howard! Các con đến rồi này!
Căn nhà tỏa mùi đồ gỗ đánh bóng và mùi đồ ăn thơm nức. Howard từ trong bếp ló ra, một tay cầm chai rượu vang, tay kia cầm đồ khui. Shirley thành thục né người vào phòng ăn để Howard kềnh càng đi qua trước khi lướt vội vào bếp.
- À các quý nhân đến rồi đây - Howard oang oang - Việc kinh doanh xú-chiêng thế nào rồi Sammy? Vẫn bơm sữa tốt cứu kinh tế suy thoái chứ hả?
- Dạo này làm ăn đúng là khá lắm, bố ạ - Samantha đáp.
Howard phá ra cười, Samantha đồ rằng nếu tay không vướng chai rượu hẳn ông đã vỗ mông cô. Cô chịu đựng mấy trò ôm hôn phát vỗ của ông bố chồng, coi đó là kiểu phô trương vô hại của ông cụ đã quá già quá béo chẳng còn làm ăn gì được; vả lại hễ là chuyện làm Shirley bực mình thì Samantha đều thích. Shirley không bao giờ tỏ thái độ không hài lòng ra mặt, nụ cười của bà không mảy may suy suyển, cả cái kiểu cách ngọt ngào phải chăng cũng thế, nhưng trong vài lúc ngắn ngủi khi Howard lộ tí đỉnh máu dê thì bà luôn bắn đạn bọc đường vào cô con dâu. Kiểu như bóng gió nhắc tới chuyện học phí cho mấy cô cháu gái ngày một tăng vọt, hỏi han về chế độ ăn kiêng của Samantha, hay hỏi Miles lẽ nào anh không thấy bà Mary Fairbrother giữ dáng đến là khéo hay sao; Samantha chỉ cười nhẫn nhịn, rồi sau đó mới trút cả lên đầu Miles.
- Chào cô! - Miles cất tiếng, bước qua mặt Samantha vào chỗ mà vợ chồng Howard vẫn gọi là sảnh đón khách - Cháu không biết cô cũng tới đấy.
- Chào anh chàng đẹp trai - Maureen khàn khàn đáp - Hôn cô một cái nào.
Bà bạn làm ăn của Howard đang ngồi ở góc sofa, tay cầm ly rượu anh đào nhỏ xíu. Bà mặc váy dài màu hồng phớt tím, vớ đen và giày da sơn cao gót. Mái tóc đen óng của bà chải phồng xịt keo cứng ngắc, làm bộ mặt nom nhợt nhạt và dúm dó như mặt khỉ, cặp môi quết sơn hồng dày cộp dẩu ra khi Miles cúi người hôn má bà.
- Đang bàn công việc. Chuẩn bị cho quán café mới. Chào cháu cưng, Sam. - Mareen vỗ vỗ chỗ ngồi trên sofa cạnh mình - Ôi cháu xinh quá, hãy còn rám nắng từ hồi đi đảo Ibiza chơi đấy à? Ngồi đây với cô này. Hôm ở câu lạc bộ golf chắc cháu sốc lắm nhỉ. Nghĩ mà rùng mình.
- Vâng, đúng ạ - Samantha đáp.
Thế rồi lần đầu tiên cô kể được với người khác về cái chết của Barry, trong lúc Miles cứ lượn lờ chung quanh tìm cơ hội nói chen. Howard đưa mấy cốc rượu Pinot Frigio lớn cho mọi người, chăm chú nghe Samantha kể chuyện sổ sách cửa hàng. Dần dần, thấy được Howard và Maureen quan tâm, lại thêm chút cồn làm trong người ấm áp dễ chịu, Samantha có vẻ trút bỏ được sự căng thẳng suốt hai ngày nay và bắt đầu thấy thoải mái hơn.
Căn phòng ấm áp và sạch tinh tươm. Các kệ hai bên lò sưởi gas bày một dãy đồ sứ trang trí, hầu như thứ nào cũng là đồ lưu niệm liên quan các sự kiện hoàng gia hay dịp kỷ niệm nào đó của triều Elizabeth Đệ Nhị. Chiếc kệ sách nhỏ trong góc phòng chứa bộ sưu tập các sách về tiểu sử hoàng gia và nhiều sách nấu ăn bóng loáng vốn đã đầy khắp bếp. Tường nhà và kệ được tô điểm bằng những bức ảnh: hình Miles và em gái Patricia trông giống nhau như đúc khi mặc đồng phục trường; hình hai cô con gái của Miles và Samantha: Lexie và Libby từ thuở ẵm ngửa tới lúc thiếu niên. Samantha chỉ xuất hiện trong một tấm hình duy nhất, nhưng đó là một trong những tấm khổ lớn và nổi bật nhất. Đó là hình cưới của cô và Miles mười sáu năm trước. Khi đó Miles trẻ và đẹp trai, cặp mắt xanh rất sắc hơi chau, còn mắt Samantha hơi nhắm vì chụp lúc chớp mắt, mặt hơi xoay ngang, cằm lộ ngấn khi cô cười nhìn vào ống kính khác. Chiếc váy cưới bằng satin trắng căng tức trên khuôn ngực đã phồng lên vì tuần thai sớm làm cô trông thật đồ sộ.
Maureen đang lấy bàn tay gầy khô như cẳng chim nghịch nghịch sợi dây chuyền lồng thánh giá và chiếc nhẫn cưới của ông chồng sau, bà lúc nào cũng đeo nó trên cổ. Khi Samantha kể tới đoạn bác sĩ thông báo với Mary rằng bệnh viện không còn làm gì được nữa, bà Maureen đặt bàn tay còn lại lên đầu gối cô mà bóp mạnh.
- Bữa tối xong rồi đây! - Shirley gọi. Dù không muốn lại bàn ăn nhưng rõ ràng Samantha thấy dễ chịu hơn hai ngày vừa rồi nhiều. Maureen và Howard săn đón tôn trọng cô như thể cô vừa là nữ anh hùng vừa là người khuyết tật, và cả hai đều khẽ vỗ nhẹ vào lưng cô khi cô bước ngang qua họ vào phòng ăn.
Bà Shirley đã vặn nhỏ đèn và châm những ngọn nến dài màu hồng cho hợp với giấy dán tường và bộ khăn ăn đẹp nhất nhà. Làn hơi bốc ra từ mấy đĩa xúp trong ánh sáng lờ mờ làm gương mặt bè bè đỏ ửng của Howard trông cũng có vẻ phi thực, uống gần hết cốc rượu vang lớn, Samantha ngà ngà nghĩ bây giờ mà ông Howard tuyên bố họ sẽ làm lễ cầu hồn để triệu Barry về giải thích vụ ở sân golf thì chắc buồn cười lắm đây.
- Vậy - Lão Howard nói, giọng trầm trầm - Bố nghĩ ta nên nâng cốc vì Barry Fairbrother.
Samantha dốc vội phần mình để Shirley không kịp nhận ra nó đã gần cạn.
- Khá chắc là do chứng phình mạch - Miles nói lúc đặt cốc xuống bàn. Anh ta giữ kín thông tin này, kể cả với Samantha kẻo cô phí phạm mà kể trước lúc trò chuyện với Maureen và Howard. Khi Gavin gọi cho Mary để chia buồn và trao đổi về ý nguyện của người đã khuất, Mary đã cho biết nguyên nhân cái chết. Đại khái là một động mạch trong đầu ông sưng phồng lên rồi vỡ tung (Ngay khi dò ra cách viết, anh đã tra thuật ngữ này trên mạng khi về văn phòng sau cuộc nói chuyện với Gavin) - Sự cố kiểu này có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào. Một kiểu khiếm khuyết bẩm sinh mà.
- Nghe kinh thật - Howard bình luận, lão chợt nhận ra cốc của Samantha đã cạn nên rướn người tới rót đầy thêm. Shirley yên lặng húp xúp, lông mày nhướn căng. Samantha thản nhiên nhấp rượu một cách chậm rãi.
- Mọi người biết không? - Cô nói, hơi ríu lưỡi - Con nghĩ con thấy ông ấy trên đường tới đây. Trong bóng đêm. Barry ấy.
- Chắc là anh em gì đó của ông ấy thôi - Shirley phũ phàng cắt ngang. - Mấy người họ giống nhau lắm.
Nhưng bà Maureen đã quay sang Shirley mà tuôn ra cả tràng.
- Tôi thì chắc mình thấy Ken, vào buổi tối sau khi ông ấy mất. Rõ như ban ngày nhé, ông ấy đứng trong vườn, ngẩng lên nhìn tôi qua cửa sổ nhà bếp. Ngay giữa mấy bụi hồng của ông ấy.
Không ai đáp vì mọi người đều nghe bà kể chuyện này rồi. Cả phút sau chỉ nghe tiếng nhai húp khe khẽ, rồi Maureen lại quàng quạc:
- Gavin khá thân với ông Fairbrother, phải không Miles? Cậu ta chơi bóng quần với Barry mà phải không? Đúng ra tôi nói “từng chơi” thì đúng hơn.
- Vâng, Barry đả bại anh ta mỗi tuần một lần. Hẳn là Gavin chơi cũng chẳng ra sao, Barry hơn anh ta những mười tuổi mà.
Gương mặt cả ba người phụ nữ dưới ánh nến đồng loạt hơi kênh lên với vẻ khoái trá ngấm ngầm. Nếu ba con người này có điểm chung nào thì đó chính là mối quan tâm thường trực tới anh đối tác trẻ gầy nhẳng của Miles. Đối với Maureen, cái vẻ ấy đơn thuần là biểu hiện của thói hám buôn chuyện không mệt mỏi ở Pagford, mà hành trạng của anh chàng cử nhân trẻ măng rõ ràng là miếng mồi thơm. Shirley luôn thích chí khi nghe những lúc Gavin rơi vào cảnh dưới cơ hay thiếu tự tin, vì như thế càng làm tôn lên sự thành đạt, tự chủ của hai vị thánh trong đời bà, Howard và Miles. Nhưng với Samantha, cái vẻ thụ động và dè chừng của anh thức tỉnh cái thói độc địa kiểu đàn bà: Cô thèm khát được thấy anh ta bị tát cho tỉnh người rồi cụp đuôi ngoan ngoãn nghe lời hay bị một con cái cuồng bạo nào đó dần cho một trận. Mỗi khi đụng mặt là cô lại tìm cách bắt nạt anh chàng tí đỉnh, và khoái chí nghĩ anh này hẳn phải coi mình là kẻ khó trêu vào.
- Thế dạo này anh ta thế nào? - Maureen hỏi - chuyện với quý cô ở London ấy?
- Cô nàng đâu còn ở London nữa, Mo. Cô ấy dời về phố Hope rồi - Miles đáp - Nói thật nhé, anh ta giờ hối hận vì qua lại với cô ấy đấy. Cô biết Gavin rồi mà. Nhát từ trong trứng.
Miles học trên Gavin vài năm nên cứ hễ nhắc tới đối tác của mình là giọng của anh lại không giấu được vẻ kẻ cả.
- Cô nàng da nâu? Tóc rất ngắn phải không?
- Chính cô ấy đấy - Miles xác nhận - nhân viên xã hội. Đi giày đế bằng.
- Thế thì mình gặp cô ấy trong tiệm thực phẩm rồi, phải không ông. Nhưng sao thế được nhỉ? - Maureen háo hức hỏi - Nhìn bề ngoài tôi cứ tưởng cô ấy làm đầu bếp hay đại loại thế chứ.
Sau món xúp là thăn heo nướng. Với sự đồng lõa của ông bố chồng, Samantha đang dần thấm say một cách dễ chịu, trong lòng cô nhoi nhói chút phản đối yếu ớt, như một người bị cuốn trôi ra biển. Cô gắng chiêu thêm rượu để vùi cảm giác đó xuống.
Khoảng lặng ngắn phủ lên bàn như tấm khăn trải bàn mới thay, tinh khôi và mong ngóng, lúc này hình như ai cũng hiểu đến lượt Howard gợi ra đề tài mới. Ông ăn uống một lúc, nốc rượu cho trôi từng miếng nhồm nhoàm, hoàn toàn không màng tới ánh mắt mọi người đổ về. Cuối cùng, khi đã thanh toán nửa đĩa đồ ăn, ông mới chấm nhẹ khăn ăn lên miệng rồi bắt đầu nói.
- Ờ, bây giờ hội đồng sẽ hay lắm đây - Lão im bặt để nén cái ợ ầm ĩ, trông mặt như phát bệnh đến nơi. Lão đấm ngực - Xin lỗi. Ờ phải, sẽ thú vị lắm đây. Giờ Fairbrother đã chết - Howard chuyển qua dùng cách xưng hô khi bàn công việc theo thói quen - Bài ông ta gửi đăng báo vẫn chưa xong. Trừ khi cô nàng Tai Cụp viết tiếp, rõ là thế - ông nói thêm.
Howard đặt cho Parminder Jawanda biệt hiệu “Nữ hoàng Tai Cụp” sau khi cô dự cuộc họp hội đồng khu lần đầu tiên với tư cách ủy viên hội đồng. Đó là chuyện đùa phổ biến trong cánh chống-dân-khu-Fields.
- Trời, cái vẻ mặt của chị ta - Maureen nói với Shirley - Cái vẻ mặt đó, khi chúng tôi báo tin. Trời, tôi cứ nghĩ... chị biết đấy…
Samantha cũng đang vểnh tai lên mà nghe, câu bóng gió của mụ Maureen đúng là cười vỡ bụng. Bà Parminder cưới ông chồng đẹp mã nhất Pagford: ông Vikram cao ráo cân đối, mũi khoằm, lông mày đen rậm, nụ cười trễ nải thạo đời. Nhiều năm nay cứ mỗi khi dừng lại chào hỏi Vikram, Samantha đều xốc tóc lên cho hấp dẫn và cười nhiều hơn bình thường; trước đây thân hình Miles cũng gần được như ông nhưng sau khi thôi chơi bóng bầu dục anh bắt đầu phệ nhẽo ra.
Sau khi thành hàng xóm với Vikram được ít lâu, Samantha nghe phong thanh rằng cuộc hôn nhân của Vikram và Parminder là do sắp đặt. Cô thấy cái tin này hấp dẫn không chịu được. Cứ nghĩ mà xem, bị buộc phải cưới Vikram, rồi buộc phải làm chuyện đó; cô mơ màng tưởng tới cảnh mình bị trùm đầu đẩy vào phòng, như người trinh nữ phải tuân theo số phận... Cứ nghĩ tới lúc mở mắt nhìn lên, rồi thấy là mình có được cái món đó... Nhưng cứ nghĩ tới nghề nghiệp của ông này mà kinh, đáng ra việc thế phải dành cho gã nào xấu xí và ít quyến rũ hơn nhiều chứ...
(Bảy năm trước, Vikram làm phẫu thuật thông tim cho Howard. Kết quả là hễ ông bước chân vào hiệu Mollison và Lowe là thế nào cũng bị trêu đùa tối tăm mày mặt.)
- Vui lòng lên đầu hàng đi, thưa ông Jawanda! Mời bà tránh ra một bên! - Không không, cứ lên đi ông Jawanda - Ông này đã cứu mạng tôi đấy, ổng vá víu quả tim già này - Ông mua gì nào, ông Jawanda?
Howard luôn ép Vikram nhận vài món hàng mẫu miễn phí hoặc cân nặng tay cho ông chút ít. Samantha đồ rằng chính vì cái trò hề đó mà Vikram hầu như chẳng bao giờ đặt chân vào hiệu thực phẩm nữa.)
Cô hụt mất mạch câu chuyện, nhưng cũng chả sao. Mấy người kia vẫn đang bàn tán về nội dung bài báo Barry Fairbrother viết cho báo địa phương.
-... đúng ra phải nói cho ra lẽ với ông ta về chuyện đó - tiếng Howard như lệnh vỡ - Chơi lén lút kiểu đó thì bẩn quá. Thôi thôi, dù sao thì chuyện cũng qua rồi.
- Giờ quan trọng là phải nghĩ xem ai sẽ thay thế Fairbrother. Tai Cụp giờ đang rối cả ruột đấy, nhưng không coi thường bà ta được đâu. Sai lầm lớn đấy. Có khi bà ta đã đang tìm người rồi, nên cánh ta cũng phải kiếm tay nào kha khá mới được. Đi trước một bước vẫn hơn. Muốn quản trị tốt thì phải thế thôi
- Ý bố là sao? - Miles hỏi - Tổ chức bầu cử à?
- Có thể thế - Howard khôn ngoan lựa lời - Nhưng bố không chắc. Chỉ một ghế khuyết ngoài dự kiến thôi thì cũng không cần tổ chức bầu cử công khai rình rang; nhưng bố nói rồi đấy không thể coi thường Tai Cụp được đâu. Dù sao nếu bà ta không vận động được đủ chín người đồng thời đề nghị tổ chức bỏ phiếu công khai thì hội đồng chỉ cần tổ chức chỉ định kết nạp thêm một ủy viên mới thôi. Mà khi đó ta cũng cần chín phiếu để được thông qua. Con số theo quy định là chín người. Nhiệm kỳ của Fairbrother hãy còn ba năm nữa. Đáng để mà cố đấy. Nếu đưa được một người của cánh ta vào thay Fairbrother là có khả năng lật ngược thế cờ.
Howard gõ gõ mấy ngón tay dày mập vào cốc rượu, nhìn cậu con trai ngồi bên kia bàn. Shirley và Maureen cũng đang chú mục vào cậu. Samantha nghĩ trong mắt Miles lúc này ông bố như con chó béo mập đang háo hức chực xương.
Nếu còn đủ tỉnh táo hẳn cô đã phản ứng. Samantha hiểu rõ chuyện này rốt cục dẫn tới đâu, và cả cái không khí ăn mừng chiến thắng kỳ quặc lơ lửng trên bàn ăn nghĩa là gì. Cơn say của cô đã hơi hả, nhưng cô đột nhiên kìm mình lại phút chót vì không chắc còn điều khiển tốt cái lưỡi không sau khi dốc cạn cả chai vang và sau khoảng lặng dài như thế. Thay vì thốt ra lời, cô nghĩ thầm trong đầu.
Miles chết tiệt, anh phải nói ngay cho họ thủng rằng anh phải về bàn trước với tôi vụ này đã chứ.
Cơn gió lạnh độc địa thổi dưới tầng mây trĩu thấp ban chiều tắt dần vào lúc hoàng hôn. Cách nhà Wall ba căn, Samantha Mollison đang ngồi đối diện với cái bóng mình phản chiếu trong gương trang điểm dưới ánh đèn bàn, xung quanh yên tĩnh đến phát sầu.
Mấy hôm nay thật chán. Cô hầu như chẳng bán được món đồ gì. Tay đại diện bán hàng từ Champêtre hóa ra là một thằng cha cằm nọng chán ngắt, áo ngực chào bán thì xấu mù. Rõ ràng gã chỉ ra vẻ lịch thiệp lúc đầu thôi, đến khi gặp chính thức thì thuần bàn công việc, lại còn ra vẻ kẻ cả, chê bai hàng họ rồi hối cô đặt hàng. Cô cứ ngỡ sẽ gặp anh chàng trẻ trung cao ráo và ngon nghẻ hơn; giờ cô chỉ muốn tống gã này với mớ đồ lót lòe loẹt của gã khỏi cửa hàng nhỏ của mình càng nhanh càng tốt.
Cô đã mua một tấm thiếp “chia buồn sâu sắc” cho Mary Fairbrother vào giờ nghỉ trưa, nhưng chưa nghĩ ra phải viết gì; đã đi cùng chị ta tới bệnh viện thế thì ký mỗi cái tên xem ra không phải lẽ. Trước giờ cô với Mary cũng chẳng thân thiết gì. Ở thị trấn nhỏ như Pagford thì dễ đụng mặt nhau thường xuyên, nhưng cô và Miles chưa khi nào hiểu rõ về ông bà Barry và Mary. Có chăng cũng chỉ nghe nói họ ở “phe kia”, ông bố chồng Howard với Barry suốt ngày đấu đá nhau về vụ khu Fields... mà cô, Samantha, thì chẳng việc quái gì mà ủng hộ phe nào. Cô ráng dính dáng càng ít càng tốt vào mấy vụ chính trị địa phương.
Bực bội mệt mỏi và phát ốm lên sau cả ngày chỉ kịp ăn vớ vẩn cho qua bữa, cô chỉ ước giờ không phải cùng Miles tới nhà bố mẹ chồng ăn tối. Nhìn vào gương, cô ép hai tay vào mặt hơi kéo căng da về phía tai. Một cô Samantha trông trẻ trung hơn vài milimét nhìn lại. Cô chậm rãi quay mặt từ phía này sang phía kia xem kỹ cái mặt nạ da căng mới này. Ổn hơn nhiều, đúng là thế. Không biết đi căng da thật thì có đau lắm không, tốn bao nhiêu và nhất là cô có dám thử không. Cô chuyển sang hình dung xem bà mẹ chồng sẽ nói gì khi thấy cô xuất hiện với gương mặt mới săn chắc, ông bà Shirley và Howard đang giúp tiền học cho cháu nội, và bà Shirley liên tục nhắc cho cô con dâu nhớ chuyện đó.
Miles bước vào phòng ngủ; Samantha buông tay, nhặt hộp kem che bọng mắt, hơi ngả đầu ra sau như thói quen mỗi khi trang điểm; tư thế này làm da chỗ xương hàm cô căng hơn một tí và bọng mắt có vẻ nhỏ đi. Viền môi cô có nhiều nếp nhăn ngắn nhưng sâu. Nghe nói nếu đi bơm thì mấy vết đó sẽ mất. Không biết làm xong trông có khác gì nhiều không nhỉ. Thủ thuật này hẳn là rẻ hơn đi nâng mặt, chắc mẹ chồng cũng không phát hiện ra. Nhìn qua gương, cô thấy Miles đang tháo cà vạt, cởi áo, cái bụng bự xệ xuống lưng quần.
- Hôm nay em phải gặp ai? Đại diện bán hàng à? - Anh hỏi, vừa nhìn tủ áo vừa lơ đãng gãi gãi cái rốn rậm lông.
- Ừ, nhưng hàng họ chả ra làm sao - Samantha đáp - toàn mấy thứ chán ngắt.
Miles thích việc bán hàng của vợ; nhà anh trước nay trọng nghề bán lẻ, vì vậy sự quan tâm tới ngành thương mại mà bố Howard truyền cho con trai chẳng bao giờ mất đi. Mà thứ hàng cô kinh doanh thì có khối chuyện để đùa. Miles có vẻ chẳng bao giờ chán chuyện đùa giễu cùng một vấn đề cả.
- Kích cỡ không hợp à? - Anh hỏi ra vẻ hiểu biết.
- Kiểu dáng xấu mù. Màu sắc còn kinh hơn.
Samantha chải tóc rồi buộc túm mái tóc nâu khô xác nhưng dày; qua gương, cô nhìn Miles thay đồ đi làm sang quần vải bông và áo thun polo. Cô đang cực kỳ căng thẳng, tưởng như chỉ cần một cớ nhỏ là sẵn sàng nổi điên lên.
Nhà Trăng Khuyết chỉ cách nhà họ vài phút chạy xe, nhưng phố Church Row khá dốc nên họ vẫn đánh xe hơi đi. Màn đêm đã buông xuống hẳn, lúc chạy ngang đầu đường, có bóng ai đang đi mờ mờ trông giống hệt Barry Fairbrother; Samantha giật thót mình ngoái lại nhìn, không biết đó là ai. Miles rẽ trái ngay cuối đường rồi chưa đầy một phút sau lại quẹo phải vào khu bungalow hình trăng khuyết kiểu thập niên .
Nhà của Howard và Shirley thấp, xây bằng gạch đỏ với những cánh cửa sổ rộng rãi, bãi cỏ dài xanh mướt kiêu hãnh bao lấy sân trước lẫn sân sau, cứ đến hè là Miles lại đến giúp xén cỏ thành từng dải. Trong suốt nhiều năm dài cư ngụ tại đây, Howard và Shirley dần dần đã gắn thêm đèn, lắp cánh cổng bằng sắt chạm sơn trắng và đặt nhiều bình đất nung trồng hoa phong lữ ở hai bên cổng. Hai vợ chồng còn gắn một tấm biển tròn bằng gỗ đánh sáng bóng cạnh chuông cửa, trên đó có chữ “Ambleside” viết bằng những chữ cái đen kiểu Gothic đặt trong dấu nháy.
Đôi khi Samantha châm chích khá cay về số tiền bố mẹ chồng đổ vào căn nhà. Miles chịu đựng những câu châm chọc đó, ra vẻ đồng tình rằng căn nhà hiện nay của họ, với sàn nhà và cửa chà nhám giả gỗ mộc, thảm phủ sàn, mấy tấm tranh in lồng khung cũng như chiếc ghế sofa kiểu cọ nhưng không thoải mái của họ có vẻ mỹ thuật hơn hẳn; nhưng tận đáy lòng, anh vẫn thích căn bungalow nơi mình lớn lên. Hầu như chỗ nào cũng có lót bọc vừa mềm vừa sang, không có gió lùa, và những chiếc ghế tựa mới êm ái làm sao. Mùa hè, mỗi khi anh cắt cỏ xong là mẹ Shirley lại mang cho một ly bia lạnh, rồi anh nằm dài ra cùng bố mẹ xem đấu cricket trên tivi màn ảnh rộng. Thỉnh thoảng một cô con gái lại chạy vào ngồi cạnh anh ăn món kem phủ sôcôla bà nội Shirley đặc biệt làm cho cháu.
- Chào cưng - Shirley mở cửa. Thân hình thấp bé gọn gàng của bà làm người ta dễ liên tưởng tới lọ đựng tiêu xinh xắn. Bà nhón chân hôn cậu con trai cao to, nói qua loa “Chào con, Sam”, rồi quay đi ngay. - Bữa tối gần xong rồi. Howard! Các con đến rồi này!
Căn nhà tỏa mùi đồ gỗ đánh bóng và mùi đồ ăn thơm nức. Howard từ trong bếp ló ra, một tay cầm chai rượu vang, tay kia cầm đồ khui. Shirley thành thục né người vào phòng ăn để Howard kềnh càng đi qua trước khi lướt vội vào bếp.
- À các quý nhân đến rồi đây - Howard oang oang - Việc kinh doanh xú-chiêng thế nào rồi Sammy? Vẫn bơm sữa tốt cứu kinh tế suy thoái chứ hả?
- Dạo này làm ăn đúng là khá lắm, bố ạ - Samantha đáp.
Howard phá ra cười, Samantha đồ rằng nếu tay không vướng chai rượu hẳn ông đã vỗ mông cô. Cô chịu đựng mấy trò ôm hôn phát vỗ của ông bố chồng, coi đó là kiểu phô trương vô hại của ông cụ đã quá già quá béo chẳng còn làm ăn gì được; vả lại hễ là chuyện làm Shirley bực mình thì Samantha đều thích. Shirley không bao giờ tỏ thái độ không hài lòng ra mặt, nụ cười của bà không mảy may suy suyển, cả cái kiểu cách ngọt ngào phải chăng cũng thế, nhưng trong vài lúc ngắn ngủi khi Howard lộ tí đỉnh máu dê thì bà luôn bắn đạn bọc đường vào cô con dâu. Kiểu như bóng gió nhắc tới chuyện học phí cho mấy cô cháu gái ngày một tăng vọt, hỏi han về chế độ ăn kiêng của Samantha, hay hỏi Miles lẽ nào anh không thấy bà Mary Fairbrother giữ dáng đến là khéo hay sao; Samantha chỉ cười nhẫn nhịn, rồi sau đó mới trút cả lên đầu Miles.
- Chào cô! - Miles cất tiếng, bước qua mặt Samantha vào chỗ mà vợ chồng Howard vẫn gọi là sảnh đón khách - Cháu không biết cô cũng tới đấy.
- Chào anh chàng đẹp trai - Maureen khàn khàn đáp - Hôn cô một cái nào.
Bà bạn làm ăn của Howard đang ngồi ở góc sofa, tay cầm ly rượu anh đào nhỏ xíu. Bà mặc váy dài màu hồng phớt tím, vớ đen và giày da sơn cao gót. Mái tóc đen óng của bà chải phồng xịt keo cứng ngắc, làm bộ mặt nom nhợt nhạt và dúm dó như mặt khỉ, cặp môi quết sơn hồng dày cộp dẩu ra khi Miles cúi người hôn má bà.
- Đang bàn công việc. Chuẩn bị cho quán café mới. Chào cháu cưng, Sam. - Mareen vỗ vỗ chỗ ngồi trên sofa cạnh mình - Ôi cháu xinh quá, hãy còn rám nắng từ hồi đi đảo Ibiza chơi đấy à? Ngồi đây với cô này. Hôm ở câu lạc bộ golf chắc cháu sốc lắm nhỉ. Nghĩ mà rùng mình.
- Vâng, đúng ạ - Samantha đáp.
Thế rồi lần đầu tiên cô kể được với người khác về cái chết của Barry, trong lúc Miles cứ lượn lờ chung quanh tìm cơ hội nói chen. Howard đưa mấy cốc rượu Pinot Frigio lớn cho mọi người, chăm chú nghe Samantha kể chuyện sổ sách cửa hàng. Dần dần, thấy được Howard và Maureen quan tâm, lại thêm chút cồn làm trong người ấm áp dễ chịu, Samantha có vẻ trút bỏ được sự căng thẳng suốt hai ngày nay và bắt đầu thấy thoải mái hơn.
Căn phòng ấm áp và sạch tinh tươm. Các kệ hai bên lò sưởi gas bày một dãy đồ sứ trang trí, hầu như thứ nào cũng là đồ lưu niệm liên quan các sự kiện hoàng gia hay dịp kỷ niệm nào đó của triều Elizabeth Đệ Nhị. Chiếc kệ sách nhỏ trong góc phòng chứa bộ sưu tập các sách về tiểu sử hoàng gia và nhiều sách nấu ăn bóng loáng vốn đã đầy khắp bếp. Tường nhà và kệ được tô điểm bằng những bức ảnh: hình Miles và em gái Patricia trông giống nhau như đúc khi mặc đồng phục trường; hình hai cô con gái của Miles và Samantha: Lexie và Libby từ thuở ẵm ngửa tới lúc thiếu niên. Samantha chỉ xuất hiện trong một tấm hình duy nhất, nhưng đó là một trong những tấm khổ lớn và nổi bật nhất. Đó là hình cưới của cô và Miles mười sáu năm trước. Khi đó Miles trẻ và đẹp trai, cặp mắt xanh rất sắc hơi chau, còn mắt Samantha hơi nhắm vì chụp lúc chớp mắt, mặt hơi xoay ngang, cằm lộ ngấn khi cô cười nhìn vào ống kính khác. Chiếc váy cưới bằng satin trắng căng tức trên khuôn ngực đã phồng lên vì tuần thai sớm làm cô trông thật đồ sộ.
Maureen đang lấy bàn tay gầy khô như cẳng chim nghịch nghịch sợi dây chuyền lồng thánh giá và chiếc nhẫn cưới của ông chồng sau, bà lúc nào cũng đeo nó trên cổ. Khi Samantha kể tới đoạn bác sĩ thông báo với Mary rằng bệnh viện không còn làm gì được nữa, bà Maureen đặt bàn tay còn lại lên đầu gối cô mà bóp mạnh.
- Bữa tối xong rồi đây! - Shirley gọi. Dù không muốn lại bàn ăn nhưng rõ ràng Samantha thấy dễ chịu hơn hai ngày vừa rồi nhiều. Maureen và Howard săn đón tôn trọng cô như thể cô vừa là nữ anh hùng vừa là người khuyết tật, và cả hai đều khẽ vỗ nhẹ vào lưng cô khi cô bước ngang qua họ vào phòng ăn.
Bà Shirley đã vặn nhỏ đèn và châm những ngọn nến dài màu hồng cho hợp với giấy dán tường và bộ khăn ăn đẹp nhất nhà. Làn hơi bốc ra từ mấy đĩa xúp trong ánh sáng lờ mờ làm gương mặt bè bè đỏ ửng của Howard trông cũng có vẻ phi thực, uống gần hết cốc rượu vang lớn, Samantha ngà ngà nghĩ bây giờ mà ông Howard tuyên bố họ sẽ làm lễ cầu hồn để triệu Barry về giải thích vụ ở sân golf thì chắc buồn cười lắm đây.
- Vậy - Lão Howard nói, giọng trầm trầm - Bố nghĩ ta nên nâng cốc vì Barry Fairbrother.
Samantha dốc vội phần mình để Shirley không kịp nhận ra nó đã gần cạn.
- Khá chắc là do chứng phình mạch - Miles nói lúc đặt cốc xuống bàn. Anh ta giữ kín thông tin này, kể cả với Samantha kẻo cô phí phạm mà kể trước lúc trò chuyện với Maureen và Howard. Khi Gavin gọi cho Mary để chia buồn và trao đổi về ý nguyện của người đã khuất, Mary đã cho biết nguyên nhân cái chết. Đại khái là một động mạch trong đầu ông sưng phồng lên rồi vỡ tung (Ngay khi dò ra cách viết, anh đã tra thuật ngữ này trên mạng khi về văn phòng sau cuộc nói chuyện với Gavin) - Sự cố kiểu này có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào. Một kiểu khiếm khuyết bẩm sinh mà.
- Nghe kinh thật - Howard bình luận, lão chợt nhận ra cốc của Samantha đã cạn nên rướn người tới rót đầy thêm. Shirley yên lặng húp xúp, lông mày nhướn căng. Samantha thản nhiên nhấp rượu một cách chậm rãi.
- Mọi người biết không? - Cô nói, hơi ríu lưỡi - Con nghĩ con thấy ông ấy trên đường tới đây. Trong bóng đêm. Barry ấy.
- Chắc là anh em gì đó của ông ấy thôi - Shirley phũ phàng cắt ngang. - Mấy người họ giống nhau lắm.
Nhưng bà Maureen đã quay sang Shirley mà tuôn ra cả tràng.
- Tôi thì chắc mình thấy Ken, vào buổi tối sau khi ông ấy mất. Rõ như ban ngày nhé, ông ấy đứng trong vườn, ngẩng lên nhìn tôi qua cửa sổ nhà bếp. Ngay giữa mấy bụi hồng của ông ấy.
Không ai đáp vì mọi người đều nghe bà kể chuyện này rồi. Cả phút sau chỉ nghe tiếng nhai húp khe khẽ, rồi Maureen lại quàng quạc:
- Gavin khá thân với ông Fairbrother, phải không Miles? Cậu ta chơi bóng quần với Barry mà phải không? Đúng ra tôi nói “từng chơi” thì đúng hơn.
- Vâng, Barry đả bại anh ta mỗi tuần một lần. Hẳn là Gavin chơi cũng chẳng ra sao, Barry hơn anh ta những mười tuổi mà.
Gương mặt cả ba người phụ nữ dưới ánh nến đồng loạt hơi kênh lên với vẻ khoái trá ngấm ngầm. Nếu ba con người này có điểm chung nào thì đó chính là mối quan tâm thường trực tới anh đối tác trẻ gầy nhẳng của Miles. Đối với Maureen, cái vẻ ấy đơn thuần là biểu hiện của thói hám buôn chuyện không mệt mỏi ở Pagford, mà hành trạng của anh chàng cử nhân trẻ măng rõ ràng là miếng mồi thơm. Shirley luôn thích chí khi nghe những lúc Gavin rơi vào cảnh dưới cơ hay thiếu tự tin, vì như thế càng làm tôn lên sự thành đạt, tự chủ của hai vị thánh trong đời bà, Howard và Miles. Nhưng với Samantha, cái vẻ thụ động và dè chừng của anh thức tỉnh cái thói độc địa kiểu đàn bà: Cô thèm khát được thấy anh ta bị tát cho tỉnh người rồi cụp đuôi ngoan ngoãn nghe lời hay bị một con cái cuồng bạo nào đó dần cho một trận. Mỗi khi đụng mặt là cô lại tìm cách bắt nạt anh chàng tí đỉnh, và khoái chí nghĩ anh này hẳn phải coi mình là kẻ khó trêu vào.
- Thế dạo này anh ta thế nào? - Maureen hỏi - chuyện với quý cô ở London ấy?
- Cô nàng đâu còn ở London nữa, Mo. Cô ấy dời về phố Hope rồi - Miles đáp - Nói thật nhé, anh ta giờ hối hận vì qua lại với cô ấy đấy. Cô biết Gavin rồi mà. Nhát từ trong trứng.
Miles học trên Gavin vài năm nên cứ hễ nhắc tới đối tác của mình là giọng của anh lại không giấu được vẻ kẻ cả.
- Cô nàng da nâu? Tóc rất ngắn phải không?
- Chính cô ấy đấy - Miles xác nhận - nhân viên xã hội. Đi giày đế bằng.
- Thế thì mình gặp cô ấy trong tiệm thực phẩm rồi, phải không ông. Nhưng sao thế được nhỉ? - Maureen háo hức hỏi - Nhìn bề ngoài tôi cứ tưởng cô ấy làm đầu bếp hay đại loại thế chứ.
Sau món xúp là thăn heo nướng. Với sự đồng lõa của ông bố chồng, Samantha đang dần thấm say một cách dễ chịu, trong lòng cô nhoi nhói chút phản đối yếu ớt, như một người bị cuốn trôi ra biển. Cô gắng chiêu thêm rượu để vùi cảm giác đó xuống.
Khoảng lặng ngắn phủ lên bàn như tấm khăn trải bàn mới thay, tinh khôi và mong ngóng, lúc này hình như ai cũng hiểu đến lượt Howard gợi ra đề tài mới. Ông ăn uống một lúc, nốc rượu cho trôi từng miếng nhồm nhoàm, hoàn toàn không màng tới ánh mắt mọi người đổ về. Cuối cùng, khi đã thanh toán nửa đĩa đồ ăn, ông mới chấm nhẹ khăn ăn lên miệng rồi bắt đầu nói.
- Ờ, bây giờ hội đồng sẽ hay lắm đây - Lão im bặt để nén cái ợ ầm ĩ, trông mặt như phát bệnh đến nơi. Lão đấm ngực - Xin lỗi. Ờ phải, sẽ thú vị lắm đây. Giờ Fairbrother đã chết - Howard chuyển qua dùng cách xưng hô khi bàn công việc theo thói quen - Bài ông ta gửi đăng báo vẫn chưa xong. Trừ khi cô nàng Tai Cụp viết tiếp, rõ là thế - ông nói thêm.
Howard đặt cho Parminder Jawanda biệt hiệu “Nữ hoàng Tai Cụp” sau khi cô dự cuộc họp hội đồng khu lần đầu tiên với tư cách ủy viên hội đồng. Đó là chuyện đùa phổ biến trong cánh chống-dân-khu-Fields.
- Trời, cái vẻ mặt của chị ta - Maureen nói với Shirley - Cái vẻ mặt đó, khi chúng tôi báo tin. Trời, tôi cứ nghĩ... chị biết đấy…
Samantha cũng đang vểnh tai lên mà nghe, câu bóng gió của mụ Maureen đúng là cười vỡ bụng. Bà Parminder cưới ông chồng đẹp mã nhất Pagford: ông Vikram cao ráo cân đối, mũi khoằm, lông mày đen rậm, nụ cười trễ nải thạo đời. Nhiều năm nay cứ mỗi khi dừng lại chào hỏi Vikram, Samantha đều xốc tóc lên cho hấp dẫn và cười nhiều hơn bình thường; trước đây thân hình Miles cũng gần được như ông nhưng sau khi thôi chơi bóng bầu dục anh bắt đầu phệ nhẽo ra.
Sau khi thành hàng xóm với Vikram được ít lâu, Samantha nghe phong thanh rằng cuộc hôn nhân của Vikram và Parminder là do sắp đặt. Cô thấy cái tin này hấp dẫn không chịu được. Cứ nghĩ mà xem, bị buộc phải cưới Vikram, rồi buộc phải làm chuyện đó; cô mơ màng tưởng tới cảnh mình bị trùm đầu đẩy vào phòng, như người trinh nữ phải tuân theo số phận... Cứ nghĩ tới lúc mở mắt nhìn lên, rồi thấy là mình có được cái món đó... Nhưng cứ nghĩ tới nghề nghiệp của ông này mà kinh, đáng ra việc thế phải dành cho gã nào xấu xí và ít quyến rũ hơn nhiều chứ...
(Bảy năm trước, Vikram làm phẫu thuật thông tim cho Howard. Kết quả là hễ ông bước chân vào hiệu Mollison và Lowe là thế nào cũng bị trêu đùa tối tăm mày mặt.)
- Vui lòng lên đầu hàng đi, thưa ông Jawanda! Mời bà tránh ra một bên! - Không không, cứ lên đi ông Jawanda - Ông này đã cứu mạng tôi đấy, ổng vá víu quả tim già này - Ông mua gì nào, ông Jawanda?
Howard luôn ép Vikram nhận vài món hàng mẫu miễn phí hoặc cân nặng tay cho ông chút ít. Samantha đồ rằng chính vì cái trò hề đó mà Vikram hầu như chẳng bao giờ đặt chân vào hiệu thực phẩm nữa.)
Cô hụt mất mạch câu chuyện, nhưng cũng chả sao. Mấy người kia vẫn đang bàn tán về nội dung bài báo Barry Fairbrother viết cho báo địa phương.
-... đúng ra phải nói cho ra lẽ với ông ta về chuyện đó - tiếng Howard như lệnh vỡ - Chơi lén lút kiểu đó thì bẩn quá. Thôi thôi, dù sao thì chuyện cũng qua rồi.
- Giờ quan trọng là phải nghĩ xem ai sẽ thay thế Fairbrother. Tai Cụp giờ đang rối cả ruột đấy, nhưng không coi thường bà ta được đâu. Sai lầm lớn đấy. Có khi bà ta đã đang tìm người rồi, nên cánh ta cũng phải kiếm tay nào kha khá mới được. Đi trước một bước vẫn hơn. Muốn quản trị tốt thì phải thế thôi
- Ý bố là sao? - Miles hỏi - Tổ chức bầu cử à?
- Có thể thế - Howard khôn ngoan lựa lời - Nhưng bố không chắc. Chỉ một ghế khuyết ngoài dự kiến thôi thì cũng không cần tổ chức bầu cử công khai rình rang; nhưng bố nói rồi đấy không thể coi thường Tai Cụp được đâu. Dù sao nếu bà ta không vận động được đủ chín người đồng thời đề nghị tổ chức bỏ phiếu công khai thì hội đồng chỉ cần tổ chức chỉ định kết nạp thêm một ủy viên mới thôi. Mà khi đó ta cũng cần chín phiếu để được thông qua. Con số theo quy định là chín người. Nhiệm kỳ của Fairbrother hãy còn ba năm nữa. Đáng để mà cố đấy. Nếu đưa được một người của cánh ta vào thay Fairbrother là có khả năng lật ngược thế cờ.
Howard gõ gõ mấy ngón tay dày mập vào cốc rượu, nhìn cậu con trai ngồi bên kia bàn. Shirley và Maureen cũng đang chú mục vào cậu. Samantha nghĩ trong mắt Miles lúc này ông bố như con chó béo mập đang háo hức chực xương.
Nếu còn đủ tỉnh táo hẳn cô đã phản ứng. Samantha hiểu rõ chuyện này rốt cục dẫn tới đâu, và cả cái không khí ăn mừng chiến thắng kỳ quặc lơ lửng trên bàn ăn nghĩa là gì. Cơn say của cô đã hơi hả, nhưng cô đột nhiên kìm mình lại phút chót vì không chắc còn điều khiển tốt cái lưỡi không sau khi dốc cạn cả chai vang và sau khoảng lặng dài như thế. Thay vì thốt ra lời, cô nghĩ thầm trong đầu.
Miles chết tiệt, anh phải nói ngay cho họ thủng rằng anh phải về bàn trước với tôi vụ này đã chứ.