Chín giờ sáng, mọi chỗ đậu xe trên phố Church Row đều chật kín. Những người đi viếng đám tang trong trang phục sẫm màu đến riêng lẻ, đi thành cặp hay kết nhóm lũ lượt đổ về nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh. Đường vào nhà thờ đông dần rồi đặc nghẹt; người ta tản ra khu nghĩa địa gần đó, gắng tìm một chỗ len chân giữa những tấm bia, vừa sợ giẫm chân lên mộ phần người đã khuất vừa không muốn phải đứng cách lối vào nhà thờ quá xa. Rõ ràng mấy dãy ghế dài trong nhà thờ không đủ chỗ chứa đoàn người đông đúc đến vĩnh biệt Barry Fairbrother.
Nhóm đồng sự tại ngân hàng của người quá cố tụ tập quanh tấm bia hoành tráng nhất của dòng họ Sweetlove, ngán ngẩm cầu cho tay đại diện bệ vệ từ trụ sở chính đem mớ chuyện linh tinh cùng mấy câu đùa nhạt nhẽo của gã đi phứt chỗ khác cho rảnh. Ba cô bé Lauren, Holley và Jennifer trong đội đua thuyền không đứng chung với bố mẹ mà cùng nép trong bóng râm nhỏ xíu của cây thông. Nhóm ủy viên hội đồng khu trông “thập cẩm” nhất, đang nghiêm trang chuyện trò ngay giữa lối vào; Có nhóm toàn đầu hói với kính dày; nhóm khác trông ít uyên bác hơn với nón mùa hè và vòng ngọc trai nuôi. Mấy người trong câu lạc bộ bóng quần và goft khẽ chào hỏi nhau; bạn học cũ thời đại học nhận ra nhau từ xa len qua đám đông lại gần nhau; và hầu như toàn bộ dân Pagford đều đến viếng trong trang phục sậm màu đẹp nhất của họ. Tiếng nói chuyện vang lên rù rì; những gương mặt xoay trở ngóng chờ.
Tessa Wall mặc chiếc áo khoác đẹp nhất bằng len xám, chỗ nách cắt quá sát đến độ cô không cách nào giơ tay lên cao quá ngực được. Cô đứng cạnh con trai ở mé bên lối vào nhà thờ, vừa hơi nghiêm trang mỉm cười và liên tục vẫy tay với những người quen đi ngang vừa hạ giọng thuyết phục cậu con, cố không để ai nhận thấy.
- Vì Chúa, Stu. Đây là bạn thân nhất của bố con. Con cố gắng để tâm chỉ một lần này thôi có được không.
- Có ai bảo trước là lễ dài lê thê phát ngán vậy đâu. Mẹ nói chừng mười một rưỡi là xong mà.
- Đừng có nói bậy. Mẹ nói đoàn đưa tang sẽ rời nhà thờ Thánh Michael độ mười một giờ rưỡi...
- Cho nên con mới nghĩ lúc đó là xong. Con hẹn thằng Arf rồi.
- Nhưng con phải dự lễ an táng nữa. Cha con hôm nay hộ tang mà. Con điện cho Arf hẹn lại ngày mai đi.
- Mai nó không rảnh. Với lại con không mang di động theo. Ông Tủ nói con không được mang điện thoại vào nhà thờ.
- Đừng có gọi bố là ông Tủ! Con dùng máy mẹ mà gọi Arf này - Tessa thọc tay vào túi áo.
- Con không thuộc số điện thoại của nó - Fats lạnh nhạt nói dối.
Tối hôm trước hai vợ chồng ăn tối mà không có Fats vì nó đạp xe tới nhà Andrew cùng làm bài tập tiếng Anh. Đó là lý do Fats dựng lên và Tessa cũng vờ tin. Vì cô cũng muốn Fats ở chỗ khác để không chọc giận Colin nữa.
Ít nhất thằng bé đã chịu mặc bộ lễ phục mẹ mới mua cho từ Yarvil. Hôm đó cô phát cáu với nó khi hai mẹ con vào tới tiệm thứ ba. Nó thử thứ gì trên người trông cũng như thằng lang thang, vừa lóng ngóng vừa nhăng nháo, cô tức giận nghĩ nó cố tình làm thế; nếu cho nó tự chọn không chừng nó còn bơm phồng cả bộ quần áo lên mới thấy vừa.
- Suỵt - Tessa nói chặn. Thật ra Fats lúc đó không nói gì nhưng vì Colin đang dẫn Jawandas tiến đến chỗ họ. Ông này hình như quá căng thẳng mà nhầm vai hộ tang với vai người dẫn chỗ, ông cứ lượn lên lượn xuống chỗ cổng vào để đón tiếp mọi người. Bà Parminder trông hốc hác và khắc nghiệt trong bộ sari đứng trước mấy đứa con; Vikram mặc bộ lễ phục đen, trông bảnh bao như diễn viên điện ảnh.
Cách cửa nhà thờ vài mét, Samantha Mollison đang cùng đợi với chồng, cô ngước nhìn bầu trời dày mây, vẩn vơ tiếc rẻ ngần ấy ánh mặt trời lại bị tầng mây phí phạm chặn lại. Cô quyết không rời lối đi lát gạch cứng dù nhiều bà lớn tuổi khác phải dầm chân tới mắt cá trong bãi cỏ lạnh toát. Hôm nay cô đi giày da sơn cao gót, kiểu này mà đứng trên đất mềm thế nào cũng bị lún và bẩn hết.
Miles và Samantha vui vẻ đáp lời chào hỏi của người quen đi ngang nhưng không nói năng gì với nhau. Hai vợ chồng hãy còn lấn cấn từ tối hôm trước. Vài người hỏi thăm Lexie và Libby vì hai cô con gái thường được về nhà vào cuối tuần, nhưng tuần này hai đứa đều đến ở chơi nhà bạn. Samantha biết Miles tiếc hai con không đi dự được, vì anh luôn thích phô phang vai trò làm cha trước mọi người. Cô chợt lóe lên nỗi khoái trá khi nghĩ tới chuyện có khi anh ta phải nhờ đến cô và hai người cùng chụp ảnh để in trên tờ rơi vận động bầu cử. Đợi đến lúc đó cô sẽ bảo là mình phải suy nghĩ đã.
Samantha thấy rõ là chồng mình hơi choáng trước số lượng người dự tang. Rõ ràng anh tiếc không giữ vai trò nổi bật trong buổi lễ sắp tới. Với số cử tri hội tụ đông đủ như thế, đây rõ ràng là cơ hội lý tưởng để bắt đầu chiến dịch vận động ngầm hòng chạy đua vào chiếc ghế Barry bỏ lại. Samantha tự nhắc mình phải nhớ bóng gió nhạo anh ta về chuyện bỏ lỡ cơ hội thích hợp này.
- Gavin - Miles gọi khi nhác thấy chòm đầu dài nhọn và mái tóc hoe quen thuộc.
- Hê, Miles. Chào Sam.
Chiếc cravat đeo mới tinh nổi bật trên áo sơ mi trắng của Gavin. Mắt gã thâm quầng. Samantha rướn người tới trên đôi giày cao gót, gã đành lịch sự hôn nhẹ má cô nàng và ngửi đẫm mùi nước hoa xạ hương.
- Đông quá nhỉ - Gavin nhìn quanh.
- Gavin làm người hộ tang đấy - Miles bảo vợ, kiểu giọng như đang tuyên bố trao phiếu tặng quà cho đứa bé có cố gắng dù thực sự nó không giỏi giang gì. Thật ra khi nghe Gavin kể được trao cho vinh dự ấy, anh hơi ngạc nhiên. Lúc đầu anh cứ hình dung mình với Samantha sẽ xuất hiện với tư cách khách mời danh dự trong vầng hào quang nhuốm màu bí ẩn và quan trọng, vì chính họ là những người đầu tiên có mặt cạnh giường người chết. Đúng ra Mary hay người nào đó thân cận trong họ nên mời anh đọc một đoạn kinh huấn hay nói vài lời để ghi nhận công lao của anh trong những giờ phút cuối đời của Barry mới phải.
Samantha cố ý tỏ ra không ngạc nhiên trước chuyện Gavin đến một mình.
- Anh với ông Barry khá là thân thiết, phải không Gav?
Gavin gật đầu. Gã thấy bồn chồn và hơi buồn nôn. Tối hôm trước ngủ nghê không ra sao, mới sáng sớm đã chồm dậy vì ác mộng, gã thấy mình làm rơi quan tài làm thi thể Barry văng ra nền nhà thờ. Khi thiếp đi lần nữa gã lại mơ rằng mình ngủ quên đến nỗi lỡ cả lễ tang, lúc chạy tới được nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh thì gặp Mary đứng một mình trong nghĩa trang, mặt mày trắng bệch vì giận dữ và gào vào mặt gã rằng gã đã làm hỏng hết mọi sự.
- Tôi không biết phải làm gì nữa - gã lại nhìn quanh - đã bao giờ làm mấy vụ này đâu.
- Không sao đâu - Miles an ủi - chỉ có duy nhất một tiêu chuẩn thôi: đừng làm rơi gì cả, hé hé hé.
Giọng cười như con gái của Miles ngược hẳn với giọng nói trầm sâu lúc bình thường. Gavin lẫn Samantha đều không cười hưởng ứng.
Colin Wall từ trong đám đông chui ra. Vóc người to cao vụng về và cái trán cao nổi gồ của ông luôn làm Samantha liên tưởng tới con quái vật của Fankenstein.
- Gavin - ông gọi - cậu đây rồi. Tôi nghĩ ta nên đứng dọc bên đường là vừa, họ sắp ra rồi.
- Đến ngay - Gavin đáp, nhẹ cả người vì được chỉ việc cho làm.
- Chào anh Colin - Miles gật đầu chào.
- À, chào - Colin bối rối chào lại rồi quay người len ngược vào đám đông.
Đám đông chợt lào xào dịch chuyển, Samantha nghe tiếng Howard như lệnh vỡ: “- Xin lỗi... cho qua nhờ... tôi đến chỗ gia đình...”. Mọi người né ra tránh cái bụng vĩ đại của ông, Howard kềnh càng xuất hiện trong tấm áo choàng nhung. Shirley và Maureen đi liền phía sau. Shirley trông gọn gàng và điềm tĩnh trong bộ trang phục màu xanh hải quân, Maureen gầy đét như con quạ, đội chiếc nón có tấm mạng đen nhỏ.
- Chào con, chào con - Howard tiến đến hôn chụt vào hai bên má Samantha - Con thế nào Sammy?
Câu trả lời của cô chìm nghỉm trong hàng loạt tiếng chân loạt xoạt, đám đông lùi về sau nhường đường nhưng mạnh ai nấy tìm cách tranh một chỗ gần lối vào nhà thờ. Đám đông tẽ đôi làm lộ ra vài gương mặt quen thuộc. Samantha để ý gương mặt màu café của Jawandas giữa đám đông màu sữa; Vikram đẹp trai đến phi lý trong bộ vest màu sẫm; Parminder mặc sari (sao bà ta lại làm thế? Lẽ nào bà ta không biết làm thế chẳng khác nào dâng mồi vào miệng những người như Howard và Shirley?); bên cạnh bà là Tessa Wall mập lùn trong chiếc áo khoác xám căng ních.
Mary Fairbrother và các con đang từ từ tiến vào nhà thờ. Mary tái mét dễ sợ, nom sút đi hàng mấy ký. Mới sáu ngày mà cô sụt cân nhiều thế sao? Mary đang nắm tay một trong hai đứa song sinh, tay kia quàng qua vai cậu con trai nhỏ hơn, cậu cả Fergus đi cuối cùng. Cô bước đi, mắt nhìn thẳng phía trước, khuôn miệng dịu dàng mím chặt. Mấy người họ hàng khác đi theo Mary và bọn trẻ, đoàn người bước qua ngưỡng cửa rồi chìm hút trong không gian tối mờ bên trong nhà thờ.
Đám đồng lập tức tiến vào theo, cửa vào nhanh chóng tắc nghẽn lộn xộn. Nhà Mollison va phải nhà Jawanda.
- Xin mời đi trước, anh Jawanda, vâng, mời anh... - Howard oang oang, giơ tay mời ông bác sĩ vào, nhưng sau đó lấy luôn tấm thân bồ tượng chắn không cho ai tranh thủ chen theo và theo sát gót Vikram, cả gia đình nối theo.
Tấm thảm màu lam sẫm chạy dọc lối đi nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh. Những ngôi sao vàng rọi sáng lờ mờ trên vòm trần; Những tấm bảng đồng phản chiếu mấy ngọn đèn treo. Các ô cửa sổ bằng kính màu rực rỡ và tinh xảo. Đoạn giữa lối đi gian chính điện, ở phía phải bàn thờ là bức tượng Thánh Michael mặc giáp bạc nhìn xuống từ cánh cửa sổ lớn nhất. Cặp cánh màu xanh da trời vươn ra trên vai, một tay người giơ cao thanh gươm, tay kia nâng chiếc cân vàng. Chân người dẫm trên lưng quỷ Satan màu xám mang cặp cánh dơi đang quằn quại cố bay lên. Gương mặt Thánh trông bình thản.
Howard ngừng ngay chỗ bức tượng Thánh Michael, quyết định gia đình sẽ cùng ngồi trên băng ghế bên trái, Vikram chọn ngồi cùng dãy, phía đối diện. Maureen và vợ con ông đều đã len vào yên vị trên ghế, nhưng Howard vẫn còn lần chần trên lối đi trải thảm xanh, ông nói với Parminder khi bà này đi qua.
- Dễ sợ thật. Barry ấy. Sốc quá.
- Vâng - Bà miễn cưỡng đáp lời.
- Loại áo dài này tiện lợi thật đấy, nhỉ? - Ông hất đầu về bộ sari của bà.
Bà không trả lời, ngồi xuống cạnh Jaswant. Howard cũng ngồi xuống. Tấm thân ngoại cỡ của ông bịt luôn một đầu ghế làm không ai len vào được nữa.
Shirley thành kính dán mắt xuống đầu gối, tay đan vào nhau, rõ ràng trong tư thế cầu nguyện, nhưng thật ra bà đang ngẫm nghĩ về đoạn đối thoại nhỏ giữa Howard và Parminder về chiếc sari. Shirley nằm trong nhóm dân Pagford luôn thầm than tiếc chuyện Nhà Giáo Sĩ Cũ; ngày xưa để cho các giáo sĩ râu quai nón của Thượng Phái (High Church) và những người phục vụ mang tạp dề hồ cứng cư ngụ, nay đổi sang một gia đình theo đạo Hindu (Shirley chưa bao giờ hiểu rõ tôn giáo của nhà Jawanda). Bà cứ nghĩ, giả sử vợ chồng bà mà bước chân vào đền thờ, nhà thờ Hồi giáo hay bất cứ nơi nào nhà Jawanda đi lễ, chắc chắn họ sẽ bị yêu cầu trùm đầu, tháo giày hay gì gì đó nữa, ai mà biết được, nếu không là bị la hét phản đối ngay. Thế mà Parminder diện sari vào nhà thờ vẫn được chấp nhận. Cứ làm như bà ta không còn bộ đồ bình thường nào khác vậy, hàng ngày vẫn có đồ mặc đi làm đó thôi. Bực nhất là kiểu ăn mặc đó không chỉ bất kính với tôn giáo của ta mà còn bất kính với chính ông Barry Fairbrother, người ai cũng biết bà ta rất quý.
Shirley thả tay xuống, ngẩng lên nhìn trang phục của những người dự tang đi ngang, nhẩm đếm số lượng và kích cỡ những vòng hoa viếng. Một số hoa đã chất ngồn ngộn ở thanh ngăn trước bàn thờ. Shirley nhận ra vòng hoa của hội đồng, chính bà và Howard đã đứng ra quyên góp tiền mua. Vòng hoa khá to được làm kiểu truyền thống với những bông hoa màu trắng và xanh, màu huy hiệu thị trấn Pagford. Nhưng vòng hoa đó cũng như mọi cái khác đều lu mờ trước vòng hoa hình chiếc mái chèo to bằng cỡ thật kết bằng những bông cúc đại đóa vàng rực, do đội đua thuyền nữ gửi viếng.
Sukhvinder quay người tìm Lauren, mẹ cô bạn này có cửa hàng hoa và cũng là người đã kết mái chèo hoa, nó muốn tỏ ý đã thấy và thích vòng hoa này, nhưng đông người quá, Sukhvinder không thấy Lauren ngồi đâu. Sukhvinder tự hào vì đội đua thuyền đã làm việc này, nhất là khi thấy người ta chỉ trỏ cái mái chèo cho nhau xem khi tìm chỗ ngồi xuống. Năm trong số tám cô bé thuộc đội đua đã góp tiền làm nó. Lauren kể cho Sukhvinder nghe mình đã truy tìm Krystal vào giờ ăn trưa như thế nào, lại còn phải chịu đựng những câu giễu cợt của mấy đứa bạn Krystal khi lùng ra nó đang cùng bọn bạn hút thuốc trên bức tường thấp gần cửa hàng tiện lợi. Lauren hỏi Krystal có muốn góp tiền không. “Ờ, có, xong ngay”, Krystal bảo thế nhưng nó chả đóng xu nào nên không có tên trên thiếp viếng. Hôm nay Sukhvinder cũng không thấy nó đến dự lễ.
Ruột gan Sukhvinder nóng như lửa, cánh tay trái nhức nhối, hễ cử động lại đau xé, được cái là cái đau này làm dịu cái đau kia. Và ít ra thì thằng Fats Wall đầy đe dọa trong bộ cánh đen cũng không thấy đâu. Nó không nhìn thẳng vào Sukhvinder khi hai gia đình gặp nhau chốc lát chỗ sân nhà thờ. Nó kìm chế khi có mặt bố mẹ, thỉnh thoảng thằng Andrew Price cũng kìm nó lại được chút ít như thế.
Khuya hôm trước, kẻ tra tấn ẩn danh qua mạng đã gửi Sukhvinder một bức ảnh đen trắng hình đứa trẻ trần truồng người phủ lớp lông mềm rậm rạp màu đen thời Victoria. Sukhvinder xem rồi xóa nó trong khi thay đồ đi dự đám tang.
Lần cuối cùng mình thấy hạnh phúc là khi nào? Sukhvinder thấy như là trong kiếp khác, rất lâu trước khi nó bị chế nhạo. Ngày xưa Sukhvinder ngồi trong chính căn nhà thờ này và đã có thời thấy vô cùng bằng lòng với cái mình có; nó thích hát thánh ca vào dịp Noel, lễ Phục Sinh, lễ Tạ mùa. Nó yêu mến bức tượng Thánh Michael, thích gương mặt đẹp đẽ với những nét mềm mại theo phong cách tiền Raphael và mái tóc xoăn vàng... Nhưng sáng nay, lần đầu tiên Sukhvinder nhìn bức tượng dưới ánh sáng khác, nó để ý bàn chân Thánh bình thản đạp lên con quỷ đang quằn quại; cái vẻ phẳng lặng trên mặt Thánh thật nham hiểm và ngạo mạn.
Các hàng ghế đều đã kín người. Bầu không khí bụi bặm ngập tiếng lạch xạch, tiếng quần áo sột soạt và những bước chân gượng nhẹ, những người không may chậm chân hơn đành dồn lại phía sau kiếm chỗ đứng dọc bức tường trái. Vài người nhón chân nhìn xuống lối đi giữa hai dãy ghế hy vọng kiếm được chỗ trống giữa những hàng ghế dài chật ních người. Howard vẫn yên vị sừng sững như núi, bỗng Shirley vỗ nhẹ vai ông thì thầm: “Ông bà Aubrey và Julia kìa!”
Howard lập tức quay hẳn người lại vẫy vẫy tờ chương trình lễ tang để thu hút sự chú ý của nhà Fawley. Hai người họ nhanh nhẹn rảo bước dọc hàng ghế: Aubrey cao gầy, đầu hói, mặc lễ phục sẫm màu, mái tóc đỏ hoe của Julia cuộn lại thành búi sau đầu. Cả hai cùng mỉm cười cảm ơn Howard nhích vào nhường chỗ, ông này ép dí những người bên trong để nhà Fawley ngồi được rộng rãi.
Samantha bị lèn chặt giữa Miles và Maureen, sát tới nỗi cô cảm nhận được cái hông xương xẩu của Maureen và chìa khóa trong túi áo Miles ép vào hai bên người mình. Cô cáu kỉnh vặn vẹo, cố kiếm thêm dù chỉ một centimét không gian nữa nhưng không được vì Miles và Maureen cũng không còn chỗ nào mà nhích. Cô đành cứ ngồi nhìn thẳng phía trước và mơ về Vikram để trả thù, lần chót hai bên chạm mặt nhau cũng độ một tháng rồi, nhưng vẻ hấp dẫn của anh ta với cô vẫn không hề suy suyển. Anh ta quá đẹp trai, đẹp lồ lộ, đẹp phi lý tới nỗi làm người ta chỉ muốn bật cười. Cặp chân dài, vai rộng, bụng phẳng lì, chiếc áo sơmi đóng vừa vặn trong quần, cặp mắt sẫm màu với hàng chân mày đen rậm, anh đẹp như Chúa trời nếu so với đám đàn ông Pagford lề rề nhợt nhạt và béo ních. Miles rướn người sang thì thầm mấy câu pha trò với Julia Fawley, chùm chìa khóa trong túi anh cấn lên đùi Samantha đau nhói, cô lại tưởng tượng cảnh Vikram xé toạc chiếc đầm xanh cô đang mặc, trong cơn mộng tưởng đó cô thấy mình quên mặc chiếc áo ngực phù hợp để kho rãnh ngực sâu hun hút...
Dàn đại phong cầm bắt đầu lên tiếng, gian nhà thờ im bặt, chỉ còn tiếng sột soạt khe khẽ. Mọi người quay đầu lại: Chiếc quan tài đang được khiêng vào.
Những người hộ tang nom cộc lệch đến nực cười: Hai anh em trai của Barry đều cao độ mét bảy, Colin Wall khênh đằng sau lại gần thước chín, thế là chiếc quan tài chúi hẳn đầu về trước. Áo quan không làm bằng gỗ gụ đánh bóng mà đan bằng cành liễu gai.
Y hệt cái giỏ vớ vẩn đựng đồ ăn đi picnic - Howard bất bình nghĩ.
Nhiều gương mặt cũng lộ vẻ ngạc nhiên khi chiếc quan tài bằng gỗ liễu diễu qua trước mắt, dù vậy, vài người đã biết trước. Mary đã kể với Tessa (rồi đến lượt cô này rỉ tai Parminder) rằng chính cậu con cả Fergus đã chọn chiếc quan tài này như thế nào, rằng đây là loại vật liệu bền vững, thân thiện với môi trường vì cây liễu gai phát triển rất nhanh. Fergus vốn là người luôn hăng hái với tất cả những thứ gì xanh và có liên quan tới sinh thái.
Parminder thích chiếc quan tài liễu đan này hơn nhiều, rất nhiều so với những cái hộp gỗ bền chắc mà người Anh thường chọn khi chuẩn bị hậu sự. Bà ngoại bà luôn có nỗi sợ nhuốm màu mê tín rằng linh hồn sẽ bị mắc kẹt trong cái quan tài dây nặng cứng chắc ấy, bà luôn rên rẩm việc phu đào huyệt người Anh đóng đinh nắp quan tài. Những người hộ tang hạ quan tài xuống chiếc bục phủ vải thêu kim tuyến rồi lui lại. Cậu con trai, hai ông anh trai và người anh rể len vào ngồi mấy hàng ghế trên, Colin bước về chỗ gia đình mình, dáng cứng đơ.
Gavin lập cập đứng do dự độ hai giây. Parminder thấy rõ là anh ta chẳng biết nên đi đâu, chỉ còn một cách duy nhất là đi ngược dọc lối đi giữa hai hàng ghế trước ba trăm cặp mắt người dự tang. Nhưng hình như Mary đã ra hiệu gì đó nên anh chàng đỏ bừng mặt cáu kỉnh len nhanh vào hàng đầu ngồi cạnh mẹ của Barry. Parminder chỉ mới tiếp xúc với Gavin khi bà xét nghiệm và điều trị bệnh nhiễm nấm Chlamydia cho anh ta. Từ đó trở đi anh chàng luôn tránh mặt bà.
“… Ta là sự phục sinh, là sự sống, Thiên Chúa nói; kẻ nào tin ta, thì dù có chết vẫn sẽ sống; và bất cứ ai sống và tin ta sẽ không bao giờ chết...”
Những dòng kinh ngân nga tựa khúc hát như tự tuôn ra từ miệng vị linh mục, ông không có vẻ gì là đang suy ngẫm đến ý nghĩa từng từ đang đọc. Parminder đã quen với kiểu cách đó, bà đã đi dự nhiều buổi lễ Carol mừng Giáng Sinh với các phụ huynh khác của trường Thánh Thomas. Dù đã quen, bà vẫn không sao hòa hợp được với gương mặt trắng toát của vị thánh chiến binh nhìn xuống bà, hay những đồ gỗ tối màu, dãy ghế cứng ngắc, bàn thờ xa lạ trang trí thánh giá nạm vàng, cả những bài thánh ca ngớ ngẩn và đáng ngờ.
Bà thôi không chú ý đến giọng đọc đều đều của vị linh mục nữa mà để ý nghĩ quay trở lại với người cha đã khuất. Hôm ấy qua cửa sổ nhà bếp, bà thấy ông nằm úp mặt sõng soài, chiếc radio đặt trên nóc chuồng thỏ hãy còn mở oang oang, ông hẳn đã nằm đó suốt hai tiếng đồng hồ khi bà cùng mẹ và hai chị đang mê mải ở cửa hàng quần áo. Bà vẫn như cảm thấy bờ vai bố dưới lần áo sơmi nóng hổi khi bà vừa lay ông vừa gào: “Bố ơiii! Bố ơi!!!”
Gia đình thả tro cốt của ông Darshan trên nhánh sông Rea nhỏ bé buồn bã chảy ngang Birmingham. Parminder hãy còn nhớ mặt nước sông xám sệt trong một ngày dày mây tháng Sáu, làn bụi tro trắng xám lờ lững quanh người bà.
Dàn đại phong cầm khò khè cất tiếng, bà đứng dậy cùng những người khác. Bà thoáng thấy mái tóc màu đồng đỏ của hai chị em Niamh và Siobhan, bà cũng đúng bằng tuổi hai đứa bé này khi mất cha. Parminder trào lên nỗi xót thương và đau đớn lạ lùng, bỗng nhiên bà da diết mong được ôm chúng vào lòng và nói rằng bà biết, bà biết cả, bà hiểu...
Buổi bình minh đã tan, như bình minh đầu tiên...
Gavin nghe một giọng cao the thé chói hẳn lên trong hàng, con trai nhỏ của Barry vẫn chưa vỡ giọng. Gã biết chính Declan đã chọn bài thánh ca này. Thêm một chi tiết rùng mình nữa về cái buổi lễ này mà bà Mary đã kể cho gã nghe.
Gã thấy đám tang còn khổ sở hơn cả trong hình dung. Hẳn là nếu quan tài bằng gỗ cứng thì đỡ kinh khủng hơn. Khi khiêng nó gã cứng người cảm thấy rõ thi thể của Barry xóc lên xóc xuống trong lớp vỏ đan nhẹ hẫng đó. Và cái đám người phỉ sức nhìn chòng chọc khi gã đi dọc lối vào ấy, họ có thật sự hiểu gã đang phải khiêng cái gì không?
Rồi đến cái lúc khủng khiếp khi gã nhận ra rằng chẳng ai dành chỗ cho mình cả, thế nghĩa là gã sẽ phải đi ngược lại suốt lối vào trước mặt tất cả mọi người rồi lẩn vào đám đông đứng cuối phòng... nhưng không, gã bị bắt ngồi phơi mặt ra ngay hàng ghế đầu tiên. Ngồi đây y như ngồi hàng đầu khi chơi trò “xe lượn tử thần”, hứng hết mọi cú tròng trành và rẽ ngoặt.
Lúc ngồi cách bông hoa hướng dương to như nắp chảo cua Siobhan đặt giữa đống lan và hoa kim châm vài bước, gã thực lòng ước giá mà có Kay đi cùng; chính gã cũng không tin nổi mình lại mong thế, nhưng đúng là vậy. Hẳn gã sẽ thấy đỡ hơn khi có ai đó về phe với mình, đơn giản là giữ cho gã một chỗ ngồi. Gã chưa nghĩ đến chuyện trông mình sẽ như gã khốn nạn rầu rĩ khi đi một mình thế này.
Bài thánh ca kết thúc. Anh trai Barry bước lên phía trước để nói đôi lời. Gavin không biết làm sao mình lại chịu được khi cái xác của Barry nằm ngay trước mũi, dưới bông hoa hướng dương (trồng từ hạt, trong nhiều tháng trời); rồi làm sao mà Mary có thể ngồi im như tượng, cúi đầu nhìn mãi đôi tay đan vào nhau trong lòng thế. Gavin cố gắng tự lẩm nhẩm để bớt bị ảnh hưởng bởi bài tán dương người chết.
Ông ta sẽ kể chuyện Barry gặp bà vợ như thế nào, sau khi xong cái đoạn thời thơ ấu này... tuổi thơ vui vẻ, mấy trò tinh nghịch... vân vân và vân vân... nào nào, đọc nhanh đi...
Rồi còn phải đưa Barry lên xe mà chở đến tận nghĩa địa tại Yarvil, vì cái nghĩa trang bé tí tại nhà thờ Thánh Michael và các Thánh đã kín chỗ từ hai mươi năm trước. Gavin nghĩ tới cảnh phải hạ chiếc quan tài bằng liễu đan đó xuống huyệt trước mắt đám đông. So với chuyện đó thì việc khiêng nó ra vào nhà thờ chẳng là gì…
Một trong hai đứa sinh đôi đang khóc. Liếc qua khóe mắt, Gavin thấy Mary đang chìa tay ra ôm lấy con gái.
Nhanh lên đi, mẹ nó. Làm ơn đi.
- Phải nói là chú Barry lúc nào cũng biết mình muốn gì - ông anh của Barry vẫn đang thao thao bất tuyệt, ông vừa kể vài chuyện về thời thơ ấu của Barry và khơi được vài tràng cười. Vẻ căng thẳng trong giọng ông như sờ thấy được. - Năm 24 tuổi, nhân tiệc độc thân của tôi, mấy anh em kéo đi Liverpool dịp cuối tuần. Đêm đầu tiên, chúng tôi rời khu cắm trại đi tìm quán rượu. Ngồi sau quầy bar là cô sinh viên con ông chủ quán, một nàng tóc vàng xinh đẹp đến giúp bố vào tối thứ Bảy. Suốt đêm đó Barry loanh quanh phụ giúp cạnh quầy bar, tán tỉnh cô nàng, làm nàng bị ông bố rầy rà và làm ra vẻ chẳng biết cái đám om sòm ngồi trong góc quán là ai.
Vài tiếng cười yếu ớt. Bà vợ góa rũ người xuống, nắm chặt tay hai đứa con hai bên.
- Tối đó, khi trở về lều, chú ấy bảo tôi là nhất định phải cưới nàng. Tôi nghĩ bụng Cứ chờ xem, đúng ra tôi mới là người say nhiều hơn chứ. - Vài tiếng cười nhỏ nữa. - Rồi tối hôm sau, chú ấy lại kéo chúng tôi tới đúng quán ấy. Khi về nhà, chuyện đầu tiên chú ta làm là mua tấm bưu thiếp gửi cho cô nàng, hẹn cuối tuần sau sẽ quay lại. Rồi một năm sau kể từ ngày định mệnh, cô chú ấy cưới nhau. Tôi nghĩ mọi người quen biết đều đồng ý là Barry biết người biết của. Rồi bốn đứa trẻ xinh đẹp ra đời, Fergus, Niamh, Siobhan và Declan...
Gavin tập trung hít thở, ráng không để lời nào lọt tai, gã tự hỏi nếu đến lượt mình chầu trời thì ông anh ruột sẽ nói những gì. Dù sao gã cũng chẳng may mắn có được chuyện tình lãng mạn để kể lại như Barry. Gã chưa bao giờ vào quán rượu rồi thấy cô vợ lý tưởng tóc vàng đã đứng sẵn trong đó, tươi cười sẵn sàng phục vụ gã một vại bia. Không, khi trước gã quen Lisa, cô này chưa khi nào có ý định nghiêm túc với gã cả; suốt bảy năm trời những cuộc cãi vã ngày càng tệ hại, đỉnh điểm là gã dính bệnh lậu. Thế rồi vụ chia tay còn chưa nguội, gã đã cặp luôn với Kay, cô này hăng hái bám luôn lấy gã, dai như đỉa...
Nhưng rồi lần nào cũng vậy, gã sẽ nhấc máy gọi cô, vì sau vụ này gã không thể nào chịu nổi chuyện quay về căn nhà trống rỗng một mình. Gã sẽ thành thật kể với cô cái đám tang này kinh khủng và nặng nề đến độ nào, rằng giá mà cô đi cùng gã. Thể nào chuyện đó cũng làm nhãng đi vụ cãi vã vừa rồi. Tối nay gã không muốn ở một mình.
Cách đó hai hàng ghế, Colin Walls đang nức nở, những tiếng nấc nhỏ nhưng vẫn rõ mồn một dù ông úp mặt vào cái khăn tay lớn ướt đẫm. Tessa nhẹ nhàng ấn tay lên đùi ông an ủi. Cô đang nghĩ tới Barry, cô đã cậy vào ông biết bao chuyện về Colin; cô nhớ niềm an ủi từ những tiếng cười, về sự rộng lượng vô bờ bến của ông. Cô vẫn thấy ông rõ mồn một: thấp bé, hồng hào, đang nhảy điệu jive với Parminder trong bữa tiệc cuối cùng họ chung vui; nhại dáng vẻ của Howard Mollison khi lên án khu Fields; khôn khéo tư vấn cho Colin chuyện này chuyện khác theo cái cách mà chỉ có ông làm được; khoan dung coi Fats chỉ đang trải qua thời thiếu niên nổi loạn chứ không phải thứ khuyết tật xã hội.
Tessa lo sợ nghĩ tới cái chết của Barry Fairbrother sẽ tác động thế nào đến người đàn ông đang ngồi cạnh mình, sợ họ không bao giờ lấp đầy nổi khoảng trống lớn lao này; vì Colin đã lập với người chết lời thề mà rõ ràng ông ấy không thể giữ, và chồng cô càng không mảy may nhận ra rằng Mary chẳng quý mến gì mình, dù ông lúc nào cũng muốn nói chuyện với bà ấy. Và giữa tất cả những bộn bề căng thẳng đó, trong lòng Tessa còn canh cánh nỗi lo thường trực như con trùng không ngừng gặm nhấm: Fats. Làm sao mà ngăn nó không gây ra trò gì ầm ĩ, làm sao ép nó đi dự lễ hạ huyệt với cả nhà, rồi làm sao giấu được Colin chuyện nó không đi - dù sao thì cách cuối cùng này vẫn dễ dàng hơn cả.
- Chúng ta sẽ kết thúc buổi lễ ngày hôm nay với một bài hát do các con gái Niamh và Siobhan của Barry lựa chọn, điều này rất có ý nghĩa với các cháu và người cha đã khuất. - vị linh mục tuyên bố. Giọng ông tỏ rõ hàm ý tôi-không-liên-quan-gì tới-vụ-này-đâu-nhé.
Tiếng trống từ dàn loa ẩn dậy lên như sấm làm giáo đoàn giật mình. Một giọng Mỹ rống lên “uh huh uh huh” rồi Jay-Z vào đoạn rap:
Good girl gone bad-
Take three-
Action.
No clouds in the storm...
Let it rain, I hydroplane into fame
Conin’ down with the Dow Jones...
Cô gái ngoan một lần phóng túng
Đếm tới ba nhé.
Dzô nào.
Mây mù không vương cơn bão tôi
Sợ gì mưa rơi, tôi lướt đến huy hoàng danh tiếng
Lao dốc cùng Dow Jones...
Vài người tưởng nhà thờ phát nhầm băng; Howard và Shirley trao đổi cái nhìn bực bội; nhưng không ai ấn nút “stop” hay chạy ra xin lỗi cả. Rồi đến một giọng nữ quyến rũ và khỏe khoắn cất lên:
You had my heart
And we’ll bever be worlds apart
Maybe in magazines
But you’ll still be my star...
Anh giữ trọn trái tim em
Hai ta không hề xa lạ
Dù chỉ ở trong tạp chí
Nhưng anh vẫn là ngôi sao của em...
Những người dự tang khiêng chiếc quan tài liễu đan xuống lối đi, bà vợ góa và các con cùng đi theo sau.
... Now that it’s raining more than ever
Know that we’ll still have each other
You can stand under my umbuh-rella
You can stand under my umbuh-rella
… Giờ trời mưa như chưa từng
Biết rằng ta vẫn sẽ có nhau
Anh có thể trú dưới tán dù của em
Anh có thể trú dưới tán dù của em
Giáo đoàn từ từ lui khỏi nhà thờ, cố tránh bước theo nhịp nhạc sôi động.
Chín giờ sáng, mọi chỗ đậu xe trên phố Church Row đều chật kín. Những người đi viếng đám tang trong trang phục sẫm màu đến riêng lẻ, đi thành cặp hay kết nhóm lũ lượt đổ về nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh. Đường vào nhà thờ đông dần rồi đặc nghẹt; người ta tản ra khu nghĩa địa gần đó, gắng tìm một chỗ len chân giữa những tấm bia, vừa sợ giẫm chân lên mộ phần người đã khuất vừa không muốn phải đứng cách lối vào nhà thờ quá xa. Rõ ràng mấy dãy ghế dài trong nhà thờ không đủ chỗ chứa đoàn người đông đúc đến vĩnh biệt Barry Fairbrother.
Nhóm đồng sự tại ngân hàng của người quá cố tụ tập quanh tấm bia hoành tráng nhất của dòng họ Sweetlove, ngán ngẩm cầu cho tay đại diện bệ vệ từ trụ sở chính đem mớ chuyện linh tinh cùng mấy câu đùa nhạt nhẽo của gã đi phứt chỗ khác cho rảnh. Ba cô bé Lauren, Holley và Jennifer trong đội đua thuyền không đứng chung với bố mẹ mà cùng nép trong bóng râm nhỏ xíu của cây thông. Nhóm ủy viên hội đồng khu trông “thập cẩm” nhất, đang nghiêm trang chuyện trò ngay giữa lối vào; Có nhóm toàn đầu hói với kính dày; nhóm khác trông ít uyên bác hơn với nón mùa hè và vòng ngọc trai nuôi. Mấy người trong câu lạc bộ bóng quần và goft khẽ chào hỏi nhau; bạn học cũ thời đại học nhận ra nhau từ xa len qua đám đông lại gần nhau; và hầu như toàn bộ dân Pagford đều đến viếng trong trang phục sậm màu đẹp nhất của họ. Tiếng nói chuyện vang lên rù rì; những gương mặt xoay trở ngóng chờ.
Tessa Wall mặc chiếc áo khoác đẹp nhất bằng len xám, chỗ nách cắt quá sát đến độ cô không cách nào giơ tay lên cao quá ngực được. Cô đứng cạnh con trai ở mé bên lối vào nhà thờ, vừa hơi nghiêm trang mỉm cười và liên tục vẫy tay với những người quen đi ngang vừa hạ giọng thuyết phục cậu con, cố không để ai nhận thấy.
- Vì Chúa, Stu. Đây là bạn thân nhất của bố con. Con cố gắng để tâm chỉ một lần này thôi có được không.
- Có ai bảo trước là lễ dài lê thê phát ngán vậy đâu. Mẹ nói chừng mười một rưỡi là xong mà.
- Đừng có nói bậy. Mẹ nói đoàn đưa tang sẽ rời nhà thờ Thánh Michael độ mười một giờ rưỡi...
- Cho nên con mới nghĩ lúc đó là xong. Con hẹn thằng Arf rồi.
- Nhưng con phải dự lễ an táng nữa. Cha con hôm nay hộ tang mà. Con điện cho Arf hẹn lại ngày mai đi.
- Mai nó không rảnh. Với lại con không mang di động theo. Ông Tủ nói con không được mang điện thoại vào nhà thờ.
- Đừng có gọi bố là ông Tủ! Con dùng máy mẹ mà gọi Arf này - Tessa thọc tay vào túi áo.
- Con không thuộc số điện thoại của nó - Fats lạnh nhạt nói dối.
Tối hôm trước hai vợ chồng ăn tối mà không có Fats vì nó đạp xe tới nhà Andrew cùng làm bài tập tiếng Anh. Đó là lý do Fats dựng lên và Tessa cũng vờ tin. Vì cô cũng muốn Fats ở chỗ khác để không chọc giận Colin nữa.
Ít nhất thằng bé đã chịu mặc bộ lễ phục mẹ mới mua cho từ Yarvil. Hôm đó cô phát cáu với nó khi hai mẹ con vào tới tiệm thứ ba. Nó thử thứ gì trên người trông cũng như thằng lang thang, vừa lóng ngóng vừa nhăng nháo, cô tức giận nghĩ nó cố tình làm thế; nếu cho nó tự chọn không chừng nó còn bơm phồng cả bộ quần áo lên mới thấy vừa.
- Suỵt - Tessa nói chặn. Thật ra Fats lúc đó không nói gì nhưng vì Colin đang dẫn Jawandas tiến đến chỗ họ. Ông này hình như quá căng thẳng mà nhầm vai hộ tang với vai người dẫn chỗ, ông cứ lượn lên lượn xuống chỗ cổng vào để đón tiếp mọi người. Bà Parminder trông hốc hác và khắc nghiệt trong bộ sari đứng trước mấy đứa con; Vikram mặc bộ lễ phục đen, trông bảnh bao như diễn viên điện ảnh.
Cách cửa nhà thờ vài mét, Samantha Mollison đang cùng đợi với chồng, cô ngước nhìn bầu trời dày mây, vẩn vơ tiếc rẻ ngần ấy ánh mặt trời lại bị tầng mây phí phạm chặn lại. Cô quyết không rời lối đi lát gạch cứng dù nhiều bà lớn tuổi khác phải dầm chân tới mắt cá trong bãi cỏ lạnh toát. Hôm nay cô đi giày da sơn cao gót, kiểu này mà đứng trên đất mềm thế nào cũng bị lún và bẩn hết.
Miles và Samantha vui vẻ đáp lời chào hỏi của người quen đi ngang nhưng không nói năng gì với nhau. Hai vợ chồng hãy còn lấn cấn từ tối hôm trước. Vài người hỏi thăm Lexie và Libby vì hai cô con gái thường được về nhà vào cuối tuần, nhưng tuần này hai đứa đều đến ở chơi nhà bạn. Samantha biết Miles tiếc hai con không đi dự được, vì anh luôn thích phô phang vai trò làm cha trước mọi người. Cô chợt lóe lên nỗi khoái trá khi nghĩ tới chuyện có khi anh ta phải nhờ đến cô và hai người cùng chụp ảnh để in trên tờ rơi vận động bầu cử. Đợi đến lúc đó cô sẽ bảo là mình phải suy nghĩ đã.
Samantha thấy rõ là chồng mình hơi choáng trước số lượng người dự tang. Rõ ràng anh tiếc không giữ vai trò nổi bật trong buổi lễ sắp tới. Với số cử tri hội tụ đông đủ như thế, đây rõ ràng là cơ hội lý tưởng để bắt đầu chiến dịch vận động ngầm hòng chạy đua vào chiếc ghế Barry bỏ lại. Samantha tự nhắc mình phải nhớ bóng gió nhạo anh ta về chuyện bỏ lỡ cơ hội thích hợp này.
- Gavin - Miles gọi khi nhác thấy chòm đầu dài nhọn và mái tóc hoe quen thuộc.
- Hê, Miles. Chào Sam.
Chiếc cravat đeo mới tinh nổi bật trên áo sơ mi trắng của Gavin. Mắt gã thâm quầng. Samantha rướn người tới trên đôi giày cao gót, gã đành lịch sự hôn nhẹ má cô nàng và ngửi đẫm mùi nước hoa xạ hương.
- Đông quá nhỉ - Gavin nhìn quanh.
- Gavin làm người hộ tang đấy - Miles bảo vợ, kiểu giọng như đang tuyên bố trao phiếu tặng quà cho đứa bé có cố gắng dù thực sự nó không giỏi giang gì. Thật ra khi nghe Gavin kể được trao cho vinh dự ấy, anh hơi ngạc nhiên. Lúc đầu anh cứ hình dung mình với Samantha sẽ xuất hiện với tư cách khách mời danh dự trong vầng hào quang nhuốm màu bí ẩn và quan trọng, vì chính họ là những người đầu tiên có mặt cạnh giường người chết. Đúng ra Mary hay người nào đó thân cận trong họ nên mời anh đọc một đoạn kinh huấn hay nói vài lời để ghi nhận công lao của anh trong những giờ phút cuối đời của Barry mới phải.
Samantha cố ý tỏ ra không ngạc nhiên trước chuyện Gavin đến một mình.
- Anh với ông Barry khá là thân thiết, phải không Gav?
Gavin gật đầu. Gã thấy bồn chồn và hơi buồn nôn. Tối hôm trước ngủ nghê không ra sao, mới sáng sớm đã chồm dậy vì ác mộng, gã thấy mình làm rơi quan tài làm thi thể Barry văng ra nền nhà thờ. Khi thiếp đi lần nữa gã lại mơ rằng mình ngủ quên đến nỗi lỡ cả lễ tang, lúc chạy tới được nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh thì gặp Mary đứng một mình trong nghĩa trang, mặt mày trắng bệch vì giận dữ và gào vào mặt gã rằng gã đã làm hỏng hết mọi sự.
- Tôi không biết phải làm gì nữa - gã lại nhìn quanh - đã bao giờ làm mấy vụ này đâu.
- Không sao đâu - Miles an ủi - chỉ có duy nhất một tiêu chuẩn thôi: đừng làm rơi gì cả, hé hé hé.
Giọng cười như con gái của Miles ngược hẳn với giọng nói trầm sâu lúc bình thường. Gavin lẫn Samantha đều không cười hưởng ứng.
Colin Wall từ trong đám đông chui ra. Vóc người to cao vụng về và cái trán cao nổi gồ của ông luôn làm Samantha liên tưởng tới con quái vật của Fankenstein.
- Gavin - ông gọi - cậu đây rồi. Tôi nghĩ ta nên đứng dọc bên đường là vừa, họ sắp ra rồi.
- Đến ngay - Gavin đáp, nhẹ cả người vì được chỉ việc cho làm.
- Chào anh Colin - Miles gật đầu chào.
- À, chào - Colin bối rối chào lại rồi quay người len ngược vào đám đông.
Đám đông chợt lào xào dịch chuyển, Samantha nghe tiếng Howard như lệnh vỡ: “- Xin lỗi... cho qua nhờ... tôi đến chỗ gia đình...”. Mọi người né ra tránh cái bụng vĩ đại của ông, Howard kềnh càng xuất hiện trong tấm áo choàng nhung. Shirley và Maureen đi liền phía sau. Shirley trông gọn gàng và điềm tĩnh trong bộ trang phục màu xanh hải quân, Maureen gầy đét như con quạ, đội chiếc nón có tấm mạng đen nhỏ.
- Chào con, chào con - Howard tiến đến hôn chụt vào hai bên má Samantha - Con thế nào Sammy?
Câu trả lời của cô chìm nghỉm trong hàng loạt tiếng chân loạt xoạt, đám đông lùi về sau nhường đường nhưng mạnh ai nấy tìm cách tranh một chỗ gần lối vào nhà thờ. Đám đông tẽ đôi làm lộ ra vài gương mặt quen thuộc. Samantha để ý gương mặt màu café của Jawandas giữa đám đông màu sữa; Vikram đẹp trai đến phi lý trong bộ vest màu sẫm; Parminder mặc sari (sao bà ta lại làm thế? Lẽ nào bà ta không biết làm thế chẳng khác nào dâng mồi vào miệng những người như Howard và Shirley?); bên cạnh bà là Tessa Wall mập lùn trong chiếc áo khoác xám căng ních.
Mary Fairbrother và các con đang từ từ tiến vào nhà thờ. Mary tái mét dễ sợ, nom sút đi hàng mấy ký. Mới sáu ngày mà cô sụt cân nhiều thế sao? Mary đang nắm tay một trong hai đứa song sinh, tay kia quàng qua vai cậu con trai nhỏ hơn, cậu cả Fergus đi cuối cùng. Cô bước đi, mắt nhìn thẳng phía trước, khuôn miệng dịu dàng mím chặt. Mấy người họ hàng khác đi theo Mary và bọn trẻ, đoàn người bước qua ngưỡng cửa rồi chìm hút trong không gian tối mờ bên trong nhà thờ.
Đám đồng lập tức tiến vào theo, cửa vào nhanh chóng tắc nghẽn lộn xộn. Nhà Mollison va phải nhà Jawanda.
- Xin mời đi trước, anh Jawanda, vâng, mời anh... - Howard oang oang, giơ tay mời ông bác sĩ vào, nhưng sau đó lấy luôn tấm thân bồ tượng chắn không cho ai tranh thủ chen theo và theo sát gót Vikram, cả gia đình nối theo.
Tấm thảm màu lam sẫm chạy dọc lối đi nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh. Những ngôi sao vàng rọi sáng lờ mờ trên vòm trần; Những tấm bảng đồng phản chiếu mấy ngọn đèn treo. Các ô cửa sổ bằng kính màu rực rỡ và tinh xảo. Đoạn giữa lối đi gian chính điện, ở phía phải bàn thờ là bức tượng Thánh Michael mặc giáp bạc nhìn xuống từ cánh cửa sổ lớn nhất. Cặp cánh màu xanh da trời vươn ra trên vai, một tay người giơ cao thanh gươm, tay kia nâng chiếc cân vàng. Chân người dẫm trên lưng quỷ Satan màu xám mang cặp cánh dơi đang quằn quại cố bay lên. Gương mặt Thánh trông bình thản.
Howard ngừng ngay chỗ bức tượng Thánh Michael, quyết định gia đình sẽ cùng ngồi trên băng ghế bên trái, Vikram chọn ngồi cùng dãy, phía đối diện. Maureen và vợ con ông đều đã len vào yên vị trên ghế, nhưng Howard vẫn còn lần chần trên lối đi trải thảm xanh, ông nói với Parminder khi bà này đi qua.
- Dễ sợ thật. Barry ấy. Sốc quá.
- Vâng - Bà miễn cưỡng đáp lời.
- Loại áo dài này tiện lợi thật đấy, nhỉ? - Ông hất đầu về bộ sari của bà.
Bà không trả lời, ngồi xuống cạnh Jaswant. Howard cũng ngồi xuống. Tấm thân ngoại cỡ của ông bịt luôn một đầu ghế làm không ai len vào được nữa.
Shirley thành kính dán mắt xuống đầu gối, tay đan vào nhau, rõ ràng trong tư thế cầu nguyện, nhưng thật ra bà đang ngẫm nghĩ về đoạn đối thoại nhỏ giữa Howard và Parminder về chiếc sari. Shirley nằm trong nhóm dân Pagford luôn thầm than tiếc chuyện Nhà Giáo Sĩ Cũ; ngày xưa để cho các giáo sĩ râu quai nón của Thượng Phái (High Church) và những người phục vụ mang tạp dề hồ cứng cư ngụ, nay đổi sang một gia đình theo đạo Hindu (Shirley chưa bao giờ hiểu rõ tôn giáo của nhà Jawanda). Bà cứ nghĩ, giả sử vợ chồng bà mà bước chân vào đền thờ, nhà thờ Hồi giáo hay bất cứ nơi nào nhà Jawanda đi lễ, chắc chắn họ sẽ bị yêu cầu trùm đầu, tháo giày hay gì gì đó nữa, ai mà biết được, nếu không là bị la hét phản đối ngay. Thế mà Parminder diện sari vào nhà thờ vẫn được chấp nhận. Cứ làm như bà ta không còn bộ đồ bình thường nào khác vậy, hàng ngày vẫn có đồ mặc đi làm đó thôi. Bực nhất là kiểu ăn mặc đó không chỉ bất kính với tôn giáo của ta mà còn bất kính với chính ông Barry Fairbrother, người ai cũng biết bà ta rất quý.
Shirley thả tay xuống, ngẩng lên nhìn trang phục của những người dự tang đi ngang, nhẩm đếm số lượng và kích cỡ những vòng hoa viếng. Một số hoa đã chất ngồn ngộn ở thanh ngăn trước bàn thờ. Shirley nhận ra vòng hoa của hội đồng, chính bà và Howard đã đứng ra quyên góp tiền mua. Vòng hoa khá to được làm kiểu truyền thống với những bông hoa màu trắng và xanh, màu huy hiệu thị trấn Pagford. Nhưng vòng hoa đó cũng như mọi cái khác đều lu mờ trước vòng hoa hình chiếc mái chèo to bằng cỡ thật kết bằng những bông cúc đại đóa vàng rực, do đội đua thuyền nữ gửi viếng.
Sukhvinder quay người tìm Lauren, mẹ cô bạn này có cửa hàng hoa và cũng là người đã kết mái chèo hoa, nó muốn tỏ ý đã thấy và thích vòng hoa này, nhưng đông người quá, Sukhvinder không thấy Lauren ngồi đâu. Sukhvinder tự hào vì đội đua thuyền đã làm việc này, nhất là khi thấy người ta chỉ trỏ cái mái chèo cho nhau xem khi tìm chỗ ngồi xuống. Năm trong số tám cô bé thuộc đội đua đã góp tiền làm nó. Lauren kể cho Sukhvinder nghe mình đã truy tìm Krystal vào giờ ăn trưa như thế nào, lại còn phải chịu đựng những câu giễu cợt của mấy đứa bạn Krystal khi lùng ra nó đang cùng bọn bạn hút thuốc trên bức tường thấp gần cửa hàng tiện lợi. Lauren hỏi Krystal có muốn góp tiền không. “Ờ, có, xong ngay”, Krystal bảo thế nhưng nó chả đóng xu nào nên không có tên trên thiếp viếng. Hôm nay Sukhvinder cũng không thấy nó đến dự lễ.
Ruột gan Sukhvinder nóng như lửa, cánh tay trái nhức nhối, hễ cử động lại đau xé, được cái là cái đau này làm dịu cái đau kia. Và ít ra thì thằng Fats Wall đầy đe dọa trong bộ cánh đen cũng không thấy đâu. Nó không nhìn thẳng vào Sukhvinder khi hai gia đình gặp nhau chốc lát chỗ sân nhà thờ. Nó kìm chế khi có mặt bố mẹ, thỉnh thoảng thằng Andrew Price cũng kìm nó lại được chút ít như thế.
Khuya hôm trước, kẻ tra tấn ẩn danh qua mạng đã gửi Sukhvinder một bức ảnh đen trắng hình đứa trẻ trần truồng người phủ lớp lông mềm rậm rạp màu đen thời Victoria. Sukhvinder xem rồi xóa nó trong khi thay đồ đi dự đám tang.
Lần cuối cùng mình thấy hạnh phúc là khi nào? Sukhvinder thấy như là trong kiếp khác, rất lâu trước khi nó bị chế nhạo. Ngày xưa Sukhvinder ngồi trong chính căn nhà thờ này và đã có thời thấy vô cùng bằng lòng với cái mình có; nó thích hát thánh ca vào dịp Noel, lễ Phục Sinh, lễ Tạ mùa. Nó yêu mến bức tượng Thánh Michael, thích gương mặt đẹp đẽ với những nét mềm mại theo phong cách tiền Raphael và mái tóc xoăn vàng... Nhưng sáng nay, lần đầu tiên Sukhvinder nhìn bức tượng dưới ánh sáng khác, nó để ý bàn chân Thánh bình thản đạp lên con quỷ đang quằn quại; cái vẻ phẳng lặng trên mặt Thánh thật nham hiểm và ngạo mạn.
Các hàng ghế đều đã kín người. Bầu không khí bụi bặm ngập tiếng lạch xạch, tiếng quần áo sột soạt và những bước chân gượng nhẹ, những người không may chậm chân hơn đành dồn lại phía sau kiếm chỗ đứng dọc bức tường trái. Vài người nhón chân nhìn xuống lối đi giữa hai dãy ghế hy vọng kiếm được chỗ trống giữa những hàng ghế dài chật ních người. Howard vẫn yên vị sừng sững như núi, bỗng Shirley vỗ nhẹ vai ông thì thầm: “Ông bà Aubrey và Julia kìa!”
Howard lập tức quay hẳn người lại vẫy vẫy tờ chương trình lễ tang để thu hút sự chú ý của nhà Fawley. Hai người họ nhanh nhẹn rảo bước dọc hàng ghế: Aubrey cao gầy, đầu hói, mặc lễ phục sẫm màu, mái tóc đỏ hoe của Julia cuộn lại thành búi sau đầu. Cả hai cùng mỉm cười cảm ơn Howard nhích vào nhường chỗ, ông này ép dí những người bên trong để nhà Fawley ngồi được rộng rãi.
Samantha bị lèn chặt giữa Miles và Maureen, sát tới nỗi cô cảm nhận được cái hông xương xẩu của Maureen và chìa khóa trong túi áo Miles ép vào hai bên người mình. Cô cáu kỉnh vặn vẹo, cố kiếm thêm dù chỉ một centimét không gian nữa nhưng không được vì Miles và Maureen cũng không còn chỗ nào mà nhích. Cô đành cứ ngồi nhìn thẳng phía trước và mơ về Vikram để trả thù, lần chót hai bên chạm mặt nhau cũng độ một tháng rồi, nhưng vẻ hấp dẫn của anh ta với cô vẫn không hề suy suyển. Anh ta quá đẹp trai, đẹp lồ lộ, đẹp phi lý tới nỗi làm người ta chỉ muốn bật cười. Cặp chân dài, vai rộng, bụng phẳng lì, chiếc áo sơmi đóng vừa vặn trong quần, cặp mắt sẫm màu với hàng chân mày đen rậm, anh đẹp như Chúa trời nếu so với đám đàn ông Pagford lề rề nhợt nhạt và béo ních. Miles rướn người sang thì thầm mấy câu pha trò với Julia Fawley, chùm chìa khóa trong túi anh cấn lên đùi Samantha đau nhói, cô lại tưởng tượng cảnh Vikram xé toạc chiếc đầm xanh cô đang mặc, trong cơn mộng tưởng đó cô thấy mình quên mặc chiếc áo ngực phù hợp để kho rãnh ngực sâu hun hút...
Dàn đại phong cầm bắt đầu lên tiếng, gian nhà thờ im bặt, chỉ còn tiếng sột soạt khe khẽ. Mọi người quay đầu lại: Chiếc quan tài đang được khiêng vào.
Những người hộ tang nom cộc lệch đến nực cười: Hai anh em trai của Barry đều cao độ mét bảy, Colin Wall khênh đằng sau lại gần thước chín, thế là chiếc quan tài chúi hẳn đầu về trước. Áo quan không làm bằng gỗ gụ đánh bóng mà đan bằng cành liễu gai.
Y hệt cái giỏ vớ vẩn đựng đồ ăn đi picnic - Howard bất bình nghĩ.
Nhiều gương mặt cũng lộ vẻ ngạc nhiên khi chiếc quan tài bằng gỗ liễu diễu qua trước mắt, dù vậy, vài người đã biết trước. Mary đã kể với Tessa (rồi đến lượt cô này rỉ tai Parminder) rằng chính cậu con cả Fergus đã chọn chiếc quan tài này như thế nào, rằng đây là loại vật liệu bền vững, thân thiện với môi trường vì cây liễu gai phát triển rất nhanh. Fergus vốn là người luôn hăng hái với tất cả những thứ gì xanh và có liên quan tới sinh thái.
Parminder thích chiếc quan tài liễu đan này hơn nhiều, rất nhiều so với những cái hộp gỗ bền chắc mà người Anh thường chọn khi chuẩn bị hậu sự. Bà ngoại bà luôn có nỗi sợ nhuốm màu mê tín rằng linh hồn sẽ bị mắc kẹt trong cái quan tài dây nặng cứng chắc ấy, bà luôn rên rẩm việc phu đào huyệt người Anh đóng đinh nắp quan tài. Những người hộ tang hạ quan tài xuống chiếc bục phủ vải thêu kim tuyến rồi lui lại. Cậu con trai, hai ông anh trai và người anh rể len vào ngồi mấy hàng ghế trên, Colin bước về chỗ gia đình mình, dáng cứng đơ.
Gavin lập cập đứng do dự độ hai giây. Parminder thấy rõ là anh ta chẳng biết nên đi đâu, chỉ còn một cách duy nhất là đi ngược dọc lối đi giữa hai hàng ghế trước ba trăm cặp mắt người dự tang. Nhưng hình như Mary đã ra hiệu gì đó nên anh chàng đỏ bừng mặt cáu kỉnh len nhanh vào hàng đầu ngồi cạnh mẹ của Barry. Parminder chỉ mới tiếp xúc với Gavin khi bà xét nghiệm và điều trị bệnh nhiễm nấm Chlamydia cho anh ta. Từ đó trở đi anh chàng luôn tránh mặt bà.
“… Ta là sự phục sinh, là sự sống, Thiên Chúa nói; kẻ nào tin ta, thì dù có chết vẫn sẽ sống; và bất cứ ai sống và tin ta sẽ không bao giờ chết...”
Những dòng kinh ngân nga tựa khúc hát như tự tuôn ra từ miệng vị linh mục, ông không có vẻ gì là đang suy ngẫm đến ý nghĩa từng từ đang đọc. Parminder đã quen với kiểu cách đó, bà đã đi dự nhiều buổi lễ Carol mừng Giáng Sinh với các phụ huynh khác của trường Thánh Thomas. Dù đã quen, bà vẫn không sao hòa hợp được với gương mặt trắng toát của vị thánh chiến binh nhìn xuống bà, hay những đồ gỗ tối màu, dãy ghế cứng ngắc, bàn thờ xa lạ trang trí thánh giá nạm vàng, cả những bài thánh ca ngớ ngẩn và đáng ngờ.
Bà thôi không chú ý đến giọng đọc đều đều của vị linh mục nữa mà để ý nghĩ quay trở lại với người cha đã khuất. Hôm ấy qua cửa sổ nhà bếp, bà thấy ông nằm úp mặt sõng soài, chiếc radio đặt trên nóc chuồng thỏ hãy còn mở oang oang, ông hẳn đã nằm đó suốt hai tiếng đồng hồ khi bà cùng mẹ và hai chị đang mê mải ở cửa hàng quần áo. Bà vẫn như cảm thấy bờ vai bố dưới lần áo sơmi nóng hổi khi bà vừa lay ông vừa gào: “Bố ơiii! Bố ơi!!!”
Gia đình thả tro cốt của ông Darshan trên nhánh sông Rea nhỏ bé buồn bã chảy ngang Birmingham. Parminder hãy còn nhớ mặt nước sông xám sệt trong một ngày dày mây tháng Sáu, làn bụi tro trắng xám lờ lững quanh người bà.
Dàn đại phong cầm khò khè cất tiếng, bà đứng dậy cùng những người khác. Bà thoáng thấy mái tóc màu đồng đỏ của hai chị em Niamh và Siobhan, bà cũng đúng bằng tuổi hai đứa bé này khi mất cha. Parminder trào lên nỗi xót thương và đau đớn lạ lùng, bỗng nhiên bà da diết mong được ôm chúng vào lòng và nói rằng bà biết, bà biết cả, bà hiểu...
Buổi bình minh đã tan, như bình minh đầu tiên...
Gavin nghe một giọng cao the thé chói hẳn lên trong hàng, con trai nhỏ của Barry vẫn chưa vỡ giọng. Gã biết chính Declan đã chọn bài thánh ca này. Thêm một chi tiết rùng mình nữa về cái buổi lễ này mà bà Mary đã kể cho gã nghe.
Gã thấy đám tang còn khổ sở hơn cả trong hình dung. Hẳn là nếu quan tài bằng gỗ cứng thì đỡ kinh khủng hơn. Khi khiêng nó gã cứng người cảm thấy rõ thi thể của Barry xóc lên xóc xuống trong lớp vỏ đan nhẹ hẫng đó. Và cái đám người phỉ sức nhìn chòng chọc khi gã đi dọc lối vào ấy, họ có thật sự hiểu gã đang phải khiêng cái gì không?
Rồi đến cái lúc khủng khiếp khi gã nhận ra rằng chẳng ai dành chỗ cho mình cả, thế nghĩa là gã sẽ phải đi ngược lại suốt lối vào trước mặt tất cả mọi người rồi lẩn vào đám đông đứng cuối phòng... nhưng không, gã bị bắt ngồi phơi mặt ra ngay hàng ghế đầu tiên. Ngồi đây y như ngồi hàng đầu khi chơi trò “xe lượn tử thần”, hứng hết mọi cú tròng trành và rẽ ngoặt.
Lúc ngồi cách bông hoa hướng dương to như nắp chảo cua Siobhan đặt giữa đống lan và hoa kim châm vài bước, gã thực lòng ước giá mà có Kay đi cùng; chính gã cũng không tin nổi mình lại mong thế, nhưng đúng là vậy. Hẳn gã sẽ thấy đỡ hơn khi có ai đó về phe với mình, đơn giản là giữ cho gã một chỗ ngồi. Gã chưa nghĩ đến chuyện trông mình sẽ như gã khốn nạn rầu rĩ khi đi một mình thế này.
Bài thánh ca kết thúc. Anh trai Barry bước lên phía trước để nói đôi lời. Gavin không biết làm sao mình lại chịu được khi cái xác của Barry nằm ngay trước mũi, dưới bông hoa hướng dương (trồng từ hạt, trong nhiều tháng trời); rồi làm sao mà Mary có thể ngồi im như tượng, cúi đầu nhìn mãi đôi tay đan vào nhau trong lòng thế. Gavin cố gắng tự lẩm nhẩm để bớt bị ảnh hưởng bởi bài tán dương người chết.
Ông ta sẽ kể chuyện Barry gặp bà vợ như thế nào, sau khi xong cái đoạn thời thơ ấu này... tuổi thơ vui vẻ, mấy trò tinh nghịch... vân vân và vân vân... nào nào, đọc nhanh đi...
Rồi còn phải đưa Barry lên xe mà chở đến tận nghĩa địa tại Yarvil, vì cái nghĩa trang bé tí tại nhà thờ Thánh Michael và các Thánh đã kín chỗ từ hai mươi năm trước. Gavin nghĩ tới cảnh phải hạ chiếc quan tài bằng liễu đan đó xuống huyệt trước mắt đám đông. So với chuyện đó thì việc khiêng nó ra vào nhà thờ chẳng là gì…
Một trong hai đứa sinh đôi đang khóc. Liếc qua khóe mắt, Gavin thấy Mary đang chìa tay ra ôm lấy con gái.
Nhanh lên đi, mẹ nó. Làm ơn đi.
- Phải nói là chú Barry lúc nào cũng biết mình muốn gì - ông anh của Barry vẫn đang thao thao bất tuyệt, ông vừa kể vài chuyện về thời thơ ấu của Barry và khơi được vài tràng cười. Vẻ căng thẳng trong giọng ông như sờ thấy được. - Năm tuổi, nhân tiệc độc thân của tôi, mấy anh em kéo đi Liverpool dịp cuối tuần. Đêm đầu tiên, chúng tôi rời khu cắm trại đi tìm quán rượu. Ngồi sau quầy bar là cô sinh viên con ông chủ quán, một nàng tóc vàng xinh đẹp đến giúp bố vào tối thứ Bảy. Suốt đêm đó Barry loanh quanh phụ giúp cạnh quầy bar, tán tỉnh cô nàng, làm nàng bị ông bố rầy rà và làm ra vẻ chẳng biết cái đám om sòm ngồi trong góc quán là ai.
Vài tiếng cười yếu ớt. Bà vợ góa rũ người xuống, nắm chặt tay hai đứa con hai bên.
- Tối đó, khi trở về lều, chú ấy bảo tôi là nhất định phải cưới nàng. Tôi nghĩ bụng Cứ chờ xem, đúng ra tôi mới là người say nhiều hơn chứ. - Vài tiếng cười nhỏ nữa. - Rồi tối hôm sau, chú ấy lại kéo chúng tôi tới đúng quán ấy. Khi về nhà, chuyện đầu tiên chú ta làm là mua tấm bưu thiếp gửi cho cô nàng, hẹn cuối tuần sau sẽ quay lại. Rồi một năm sau kể từ ngày định mệnh, cô chú ấy cưới nhau. Tôi nghĩ mọi người quen biết đều đồng ý là Barry biết người biết của. Rồi bốn đứa trẻ xinh đẹp ra đời, Fergus, Niamh, Siobhan và Declan...
Gavin tập trung hít thở, ráng không để lời nào lọt tai, gã tự hỏi nếu đến lượt mình chầu trời thì ông anh ruột sẽ nói những gì. Dù sao gã cũng chẳng may mắn có được chuyện tình lãng mạn để kể lại như Barry. Gã chưa bao giờ vào quán rượu rồi thấy cô vợ lý tưởng tóc vàng đã đứng sẵn trong đó, tươi cười sẵn sàng phục vụ gã một vại bia. Không, khi trước gã quen Lisa, cô này chưa khi nào có ý định nghiêm túc với gã cả; suốt bảy năm trời những cuộc cãi vã ngày càng tệ hại, đỉnh điểm là gã dính bệnh lậu. Thế rồi vụ chia tay còn chưa nguội, gã đã cặp luôn với Kay, cô này hăng hái bám luôn lấy gã, dai như đỉa...
Nhưng rồi lần nào cũng vậy, gã sẽ nhấc máy gọi cô, vì sau vụ này gã không thể nào chịu nổi chuyện quay về căn nhà trống rỗng một mình. Gã sẽ thành thật kể với cô cái đám tang này kinh khủng và nặng nề đến độ nào, rằng giá mà cô đi cùng gã. Thể nào chuyện đó cũng làm nhãng đi vụ cãi vã vừa rồi. Tối nay gã không muốn ở một mình.
Cách đó hai hàng ghế, Colin Walls đang nức nở, những tiếng nấc nhỏ nhưng vẫn rõ mồn một dù ông úp mặt vào cái khăn tay lớn ướt đẫm. Tessa nhẹ nhàng ấn tay lên đùi ông an ủi. Cô đang nghĩ tới Barry, cô đã cậy vào ông biết bao chuyện về Colin; cô nhớ niềm an ủi từ những tiếng cười, về sự rộng lượng vô bờ bến của ông. Cô vẫn thấy ông rõ mồn một: thấp bé, hồng hào, đang nhảy điệu jive với Parminder trong bữa tiệc cuối cùng họ chung vui; nhại dáng vẻ của Howard Mollison khi lên án khu Fields; khôn khéo tư vấn cho Colin chuyện này chuyện khác theo cái cách mà chỉ có ông làm được; khoan dung coi Fats chỉ đang trải qua thời thiếu niên nổi loạn chứ không phải thứ khuyết tật xã hội.
Tessa lo sợ nghĩ tới cái chết của Barry Fairbrother sẽ tác động thế nào đến người đàn ông đang ngồi cạnh mình, sợ họ không bao giờ lấp đầy nổi khoảng trống lớn lao này; vì Colin đã lập với người chết lời thề mà rõ ràng ông ấy không thể giữ, và chồng cô càng không mảy may nhận ra rằng Mary chẳng quý mến gì mình, dù ông lúc nào cũng muốn nói chuyện với bà ấy. Và giữa tất cả những bộn bề căng thẳng đó, trong lòng Tessa còn canh cánh nỗi lo thường trực như con trùng không ngừng gặm nhấm: Fats. Làm sao mà ngăn nó không gây ra trò gì ầm ĩ, làm sao ép nó đi dự lễ hạ huyệt với cả nhà, rồi làm sao giấu được Colin chuyện nó không đi - dù sao thì cách cuối cùng này vẫn dễ dàng hơn cả.
- Chúng ta sẽ kết thúc buổi lễ ngày hôm nay với một bài hát do các con gái Niamh và Siobhan của Barry lựa chọn, điều này rất có ý nghĩa với các cháu và người cha đã khuất. - vị linh mục tuyên bố. Giọng ông tỏ rõ hàm ý tôi-không-liên-quan-gì tới-vụ-này-đâu-nhé.
Tiếng trống từ dàn loa ẩn dậy lên như sấm làm giáo đoàn giật mình. Một giọng Mỹ rống lên “uh huh uh huh” rồi Jay-Z vào đoạn rap:
Good girl gone bad-
Take three-
Action.
No clouds in the storm...
Let it rain, I hydroplane into fame
Conin’ down with the Dow Jones...
Cô gái ngoan một lần phóng túng
Đếm tới ba nhé.
Dzô nào.
Mây mù không vương cơn bão tôi
Sợ gì mưa rơi, tôi lướt đến huy hoàng danh tiếng
Lao dốc cùng Dow Jones...
Vài người tưởng nhà thờ phát nhầm băng; Howard và Shirley trao đổi cái nhìn bực bội; nhưng không ai ấn nút “stop” hay chạy ra xin lỗi cả. Rồi đến một giọng nữ quyến rũ và khỏe khoắn cất lên:
You had my heart
And we’ll bever be worlds apart
Maybe in magazines
But you’ll still be my star...
Anh giữ trọn trái tim em
Hai ta không hề xa lạ
Dù chỉ ở trong tạp chí
Nhưng anh vẫn là ngôi sao của em...
Những người dự tang khiêng chiếc quan tài liễu đan xuống lối đi, bà vợ góa và các con cùng đi theo sau.
... Now that it’s raining more than ever
Know that we’ll still have each other
You can stand under my umbuh-rella
You can stand under my umbuh-rella
… Giờ trời mưa như chưa từng
Biết rằng ta vẫn sẽ có nhau
Anh có thể trú dưới tán dù của em
Anh có thể trú dưới tán dù của em
Giáo đoàn từ từ lui khỏi nhà thờ, cố tránh bước theo nhịp nhạc sôi động.