Andrew Price đóng cánh cửa trước của căn nhà nhỏ sơn trắng rồi theo chân cậu em đi xuôi xuống lối ngang vườn dốc đứng lạnh trắng sương giá, dẫn tới cánh cổng rào sắt mở ra con đường nhỏ. Không đứa nào liếc mắt nhìn quang cảnh trải rộng dưới chân: thị trấn Pagford tí hon lọt thỏm giữa ba ngọn đồi, trên đỉnh một ngọn nhấp nhô tàn tích của tu viện xây từ thế kỷ 12. Dòng sông mảnh uốn lượn quanh đồi cũng chảy qua thị trấn, vắt ngang nó là cây cầu đá bé tí như đồ chơi. Phong cảnh lờ đờ như tấm phông nền vẽ sau lưng hai anh em. Andrew ghét những lúc hiếm hoi nhà có khách, ông bố dẫn ra giới thiệu phong cảnh như kiểu chính ông thiết kế xây dựng tất cả những thứ ấy. Dạo này Andrew bỗng nhiên thích những con đường trải nhựa, cửa sổ vỡ và hình graffiti, nó mơ tới London và một cuộc sống cho ra sống.
Hai anh em đi xuống cuối đường rồi chậm bước chỗ khúc quanh ngoặt ra đường lớn. Andrew lại chỗ bờ rào thận trọng dò dẫm rồi rút ra một gói thuốc lá Benson & Hedges còn phân nửa và bao diêm hơi ẩm. Sau vài lần thất bại vì đầu diêm cứ vỡ vụn, cuối cùng nó cũng châm được thuốc. Kéo được hai ba hơi dài, tiếng động cơ xe buýt đã vang lên phá vỡ không khí tĩnh lặng. Andrew thận trọng dụi tắt điếu thuốc rồi bỏ phần thừa lại vào bao.
Thường khi đến đây, chiếc xe buýt đã đầy hai phần ba vì trước đó đã đi vòng qua các nhà và nông trại ở khu xa. Hai anh em ngồi xa nhau như thường lệ, mỗi đứa chiếm một chiếc ghế đôi, quay mặt nhìn ra cửa sổ khi chiếc xe lại rừm rừm khởi động chạy xuống thị trấn Pagford.
Ngay dưới chân đồi là căn nhà đứng giữa mảnh vườn hình cái nêm. Bốn đứa trẻ nhà Fairbrother thường đứng đợi xe ngoài cổng chính nhưng hôm nay chỗ đó vắng tanh. Màn cửa trong nhà nhất loạt buông xuống. Andrew không biết người ta có thường ngồi trong bóng tối khi có ai đó qua đời hay không.
Trước đó vài tuần, Andrew vừa chài được Niamh Fairbrother, một trong hai cô bé song sinh nhà Barry tại buổi khiêu vũ trong phòng diễn kịch của trường. Sau lần đó, cô nàng cứ lẵng nhẵng theo ám nó một thời gian. Bố mẹ Andrew không quen thân gì với nhà Fairbrother, Simon và Ruth hầu như không có bạn, nhưng họ có vẻ cũng hơi quý mến Barry, chủ chi nhánh bé tẹo của ngân hàng duy nhất ở Pagford. Cái tên Fairbrother khá nổi nhờ gắn với hội đồng địa phương, các buổi biểu diễn trong hội trường thị trấn và cuộc chạy bộ do nhà thờ phát động. Andrew chẳng quan tâm đến mấy hoạt động đó mà bố mẹ nó cũng chẳng buồn tham gia, chỉ trừ vài đợt tài trợ hiếm hoi hay xổ số.
Chiếc xe buýt rẽ trái xuống đường Church Row, ngang qua dãy dinh thự bề thế kiểu Victoria thấp dần theo con đường dốc, Andrew mơ màng tưởng tượng đến cảnh ông bố mình cũng gục xuống chết vì bị tay súng vô hình nào đó bắn hạ. Thế rồi nó sẽ vỗ về an ủi bà mẹ đang thổn thức trong khi gọi điện thoại cho bên dịch vụ lễ tang. Andrew sẽ vừa phì phèo thuốc lá vừa ra lệnh đặt mua loại quan tài rẻ tiền nhất.
Ba đứa nhà Jawandas, Jaswant, Sukhvinder và Rajpal lên xe ở đoạn cuối phố Church Row. Andrew đã cố tình chọn chỗ ngồi còn ghế trống phía trước, cầu mong Sukhvinder sẽ ngồi vào đó, tất nhiên không phải vì ưa gì con bé (Fats, bạn thân của Andrew gọi cô bé là RCV, nghĩa là râu chấm vú), mà vì nàng rất thường chọn ngồi cạnh Sukhvinder. Sáng nay hình như “sức mạnh tinh thần” của nó đặc biệt mạnh hay sao đó, mà Sukhvinder quả là ngồi đúng vào ghế ấy. Andrew sung sướng vờ liếc về phía tấm cửa sổ dày bụi và ôm cặp sát hơn vào lòng hòng che bớt “thằng nhỏ” đang bị kích thích bởi những cú rung mạnh của xe buýt.
Nỗi mong ngóng tăng theo mỗi cú xóc nảy, khi chiếc xe kềnh càng luồn lách qua những con đường hẹp, quặt qua khúc cua gắt vào quảng trường, hướng về phía góc phố đường nhà Nàng.
Andrew chưa bao giờ thích cô gái nào nhiều như vậy. Nàng là học sinh mới, dù chuyển trường ngay học kỳ xuân của năm thi GSCE (General Certificate of Secondary Education: Chứng chỉ giáo dục trung học tổng quát) cũng khá là lạ. Tên nàng là Gaia, thật phù hợp làm sao, vì Andrew chưa từng nghe nói tới cái tên này và đối với nó, bản thân nàng cũng là điều hoàn toàn mới mẻ. Một sáng nọ, nàng bước lên xe buýt như biểu tượng giản đơn về những đỉnh cao tuyệt vời mà tạo hóa có thể vươn tới được, rồi ngồi xuống cách nó hai ghế phía trước, còn Andrew chỉ biết chết sững trước vẻ hoàn hảo của bờ vai và mái tóc nàng.
Tóc nàng màu nâu đồng, buông lơi từng lọn dài xuống xương vai; mũi nàng nho nhỏ, thẳng tắp hoàn hảo, hơi ngắn nên càng làm nổi bật vẻ quyến rũ của đôi môi căng mọng; hai mắt nàng nằm hơi xa nhau, rèm mi dày, tròng mắt rực rỡ những đốm màu nâu pha lục như vỏ táo. Andrew chưa khi nào thấy nàng trang điểm, làn da nàng hoàn hảo không tì vết. Gương mặt nàng là sự hòa quyện giữa những chi tiết cân đối tuyệt vời lẫn tỉ lệ bất thường, Andrew có thể ngắm nhìn gương mặt ấy hàng giờ mà tự hỏi cội nguồn vẻ quyến rũ ấy là từ đâu. Mới tuần trước đây thôi, nó dự liền hai tiết sinh học vì hôm ấy cách sắp xếp bàn ghế và chỗ ngồi ngẫu nhiên thế nào đó lại cho phép nó ngắm nàng liên tục. Thế rồi tối đó, khi đã vào giường, Andrew viết “vẻ đẹp là hình học” (Sau hơn nửa tiếng ngắm tường, rồi sau đó là một trận tự sướng ra trò). Nó xé tờ giấy ngay sau đó, rồi cứ mỗi lần nhớ tới lại thấy thật ngu ngốc, nhưng vẫn có chút gì đáng kể trong vụ đó. Vẻ lộng lẫy của nàng là tổng hòa những điều chỉnh li ti theo khuôn khổ, và kết quả tuyệt đến nín thở.
Nàng có thể lên xe bất kỳ lúc nào, mà nếu nàng chọn ngồi cạnh con bé Sukhvinder bè bè sưng sỉa như thường lệ, thì có khi ngửi thấy cả mùi khói thuốc trên người Andrew. Nó thích nhìn những vật vô tri biến đổi khi chạm vào nàng, như đệm ghế xe buýt hơi lún xuống khi nàng ngồi, hay nạm tóc màu vàng pha đồng uốn cong quanh thanh kẹp kim loại trên đỉnh đầu.
Tài xế hãm xe dần, Andrew ngoảnh mặt khỏi cửa lên xuống, vờ như đang mải nghĩ; như thế khi nàng lên, nó có thể ngoái nhìn quanh như thể chợt tỉnh vì thấy xe ngừng; nó sẽ chạm mắt nàng, có khi gật đầu nữa. Andrew ngóng tai chờ tiếng cửa mở, nhưng tiếng động cơ rì rì vẫn không hề bị ngắt quãng bởi tiếng cửa rít rồi sập mạnh quen thuộc.
Andrew liếc quanh nhưng chẳng thấy gì ngoài con phố Hope ngắn ngủi tồi tàn chạy giữa hai dãy nhà liên kế. Tài xế nghiêng người ra xem cô bé có đang đến không. Andrew muốn xin ông ta đợi thêm một lát, vì mới tuần trước thôi rõ ràng nàng lao ra từ một căn nhà nhỏ trong dãy phố ấy và chạy dọc vỉa hè (lúc đó nhìn nàng cũng chẳng sao vì ai trên xe cũng nhìn), và chỉ cảnh tượng ấy thôi cũng đủ ám ảnh đầu óc nó hàng giờ sau đó. Thế nhưng bác tài đã lại xoay vôlăng, chiếc xe buýt tiếp tục lên đường. Andrew quay lại nhìn chằm chằm vào khung cửa sổ lem nhem, cả tim lẫn chỗ nhạy cảm của cơ thể cùng nhức nhối.
Andrew Price đóng cánh cửa trước của căn nhà nhỏ sơn trắng rồi theo chân cậu em đi xuôi xuống lối ngang vườn dốc đứng lạnh trắng sương giá, dẫn tới cánh cổng rào sắt mở ra con đường nhỏ. Không đứa nào liếc mắt nhìn quang cảnh trải rộng dưới chân: thị trấn Pagford tí hon lọt thỏm giữa ba ngọn đồi, trên đỉnh một ngọn nhấp nhô tàn tích của tu viện xây từ thế kỷ . Dòng sông mảnh uốn lượn quanh đồi cũng chảy qua thị trấn, vắt ngang nó là cây cầu đá bé tí như đồ chơi. Phong cảnh lờ đờ như tấm phông nền vẽ sau lưng hai anh em. Andrew ghét những lúc hiếm hoi nhà có khách, ông bố dẫn ra giới thiệu phong cảnh như kiểu chính ông thiết kế xây dựng tất cả những thứ ấy. Dạo này Andrew bỗng nhiên thích những con đường trải nhựa, cửa sổ vỡ và hình graffiti, nó mơ tới London và một cuộc sống cho ra sống.
Hai anh em đi xuống cuối đường rồi chậm bước chỗ khúc quanh ngoặt ra đường lớn. Andrew lại chỗ bờ rào thận trọng dò dẫm rồi rút ra một gói thuốc lá Benson & Hedges còn phân nửa và bao diêm hơi ẩm. Sau vài lần thất bại vì đầu diêm cứ vỡ vụn, cuối cùng nó cũng châm được thuốc. Kéo được hai ba hơi dài, tiếng động cơ xe buýt đã vang lên phá vỡ không khí tĩnh lặng. Andrew thận trọng dụi tắt điếu thuốc rồi bỏ phần thừa lại vào bao.
Thường khi đến đây, chiếc xe buýt đã đầy hai phần ba vì trước đó đã đi vòng qua các nhà và nông trại ở khu xa. Hai anh em ngồi xa nhau như thường lệ, mỗi đứa chiếm một chiếc ghế đôi, quay mặt nhìn ra cửa sổ khi chiếc xe lại rừm rừm khởi động chạy xuống thị trấn Pagford.
Ngay dưới chân đồi là căn nhà đứng giữa mảnh vườn hình cái nêm. Bốn đứa trẻ nhà Fairbrother thường đứng đợi xe ngoài cổng chính nhưng hôm nay chỗ đó vắng tanh. Màn cửa trong nhà nhất loạt buông xuống. Andrew không biết người ta có thường ngồi trong bóng tối khi có ai đó qua đời hay không.
Trước đó vài tuần, Andrew vừa chài được Niamh Fairbrother, một trong hai cô bé song sinh nhà Barry tại buổi khiêu vũ trong phòng diễn kịch của trường. Sau lần đó, cô nàng cứ lẵng nhẵng theo ám nó một thời gian. Bố mẹ Andrew không quen thân gì với nhà Fairbrother, Simon và Ruth hầu như không có bạn, nhưng họ có vẻ cũng hơi quý mến Barry, chủ chi nhánh bé tẹo của ngân hàng duy nhất ở Pagford. Cái tên Fairbrother khá nổi nhờ gắn với hội đồng địa phương, các buổi biểu diễn trong hội trường thị trấn và cuộc chạy bộ do nhà thờ phát động. Andrew chẳng quan tâm đến mấy hoạt động đó mà bố mẹ nó cũng chẳng buồn tham gia, chỉ trừ vài đợt tài trợ hiếm hoi hay xổ số.
Chiếc xe buýt rẽ trái xuống đường Church Row, ngang qua dãy dinh thự bề thế kiểu Victoria thấp dần theo con đường dốc, Andrew mơ màng tưởng tượng đến cảnh ông bố mình cũng gục xuống chết vì bị tay súng vô hình nào đó bắn hạ. Thế rồi nó sẽ vỗ về an ủi bà mẹ đang thổn thức trong khi gọi điện thoại cho bên dịch vụ lễ tang. Andrew sẽ vừa phì phèo thuốc lá vừa ra lệnh đặt mua loại quan tài rẻ tiền nhất.
Ba đứa nhà Jawandas, Jaswant, Sukhvinder và Rajpal lên xe ở đoạn cuối phố Church Row. Andrew đã cố tình chọn chỗ ngồi còn ghế trống phía trước, cầu mong Sukhvinder sẽ ngồi vào đó, tất nhiên không phải vì ưa gì con bé (Fats, bạn thân của Andrew gọi cô bé là RCV, nghĩa là râu chấm vú), mà vì nàng rất thường chọn ngồi cạnh Sukhvinder. Sáng nay hình như “sức mạnh tinh thần” của nó đặc biệt mạnh hay sao đó, mà Sukhvinder quả là ngồi đúng vào ghế ấy. Andrew sung sướng vờ liếc về phía tấm cửa sổ dày bụi và ôm cặp sát hơn vào lòng hòng che bớt “thằng nhỏ” đang bị kích thích bởi những cú rung mạnh của xe buýt.
Nỗi mong ngóng tăng theo mỗi cú xóc nảy, khi chiếc xe kềnh càng luồn lách qua những con đường hẹp, quặt qua khúc cua gắt vào quảng trường, hướng về phía góc phố đường nhà Nàng.
Andrew chưa bao giờ thích cô gái nào nhiều như vậy. Nàng là học sinh mới, dù chuyển trường ngay học kỳ xuân của năm thi GSCE (General Certificate of Secondary Education: Chứng chỉ giáo dục trung học tổng quát) cũng khá là lạ. Tên nàng là Gaia, thật phù hợp làm sao, vì Andrew chưa từng nghe nói tới cái tên này và đối với nó, bản thân nàng cũng là điều hoàn toàn mới mẻ. Một sáng nọ, nàng bước lên xe buýt như biểu tượng giản đơn về những đỉnh cao tuyệt vời mà tạo hóa có thể vươn tới được, rồi ngồi xuống cách nó hai ghế phía trước, còn Andrew chỉ biết chết sững trước vẻ hoàn hảo của bờ vai và mái tóc nàng.
Tóc nàng màu nâu đồng, buông lơi từng lọn dài xuống xương vai; mũi nàng nho nhỏ, thẳng tắp hoàn hảo, hơi ngắn nên càng làm nổi bật vẻ quyến rũ của đôi môi căng mọng; hai mắt nàng nằm hơi xa nhau, rèm mi dày, tròng mắt rực rỡ những đốm màu nâu pha lục như vỏ táo. Andrew chưa khi nào thấy nàng trang điểm, làn da nàng hoàn hảo không tì vết. Gương mặt nàng là sự hòa quyện giữa những chi tiết cân đối tuyệt vời lẫn tỉ lệ bất thường, Andrew có thể ngắm nhìn gương mặt ấy hàng giờ mà tự hỏi cội nguồn vẻ quyến rũ ấy là từ đâu. Mới tuần trước đây thôi, nó dự liền hai tiết sinh học vì hôm ấy cách sắp xếp bàn ghế và chỗ ngồi ngẫu nhiên thế nào đó lại cho phép nó ngắm nàng liên tục. Thế rồi tối đó, khi đã vào giường, Andrew viết “vẻ đẹp là hình học” (Sau hơn nửa tiếng ngắm tường, rồi sau đó là một trận tự sướng ra trò). Nó xé tờ giấy ngay sau đó, rồi cứ mỗi lần nhớ tới lại thấy thật ngu ngốc, nhưng vẫn có chút gì đáng kể trong vụ đó. Vẻ lộng lẫy của nàng là tổng hòa những điều chỉnh li ti theo khuôn khổ, và kết quả tuyệt đến nín thở.
Nàng có thể lên xe bất kỳ lúc nào, mà nếu nàng chọn ngồi cạnh con bé Sukhvinder bè bè sưng sỉa như thường lệ, thì có khi ngửi thấy cả mùi khói thuốc trên người Andrew. Nó thích nhìn những vật vô tri biến đổi khi chạm vào nàng, như đệm ghế xe buýt hơi lún xuống khi nàng ngồi, hay nạm tóc màu vàng pha đồng uốn cong quanh thanh kẹp kim loại trên đỉnh đầu.
Tài xế hãm xe dần, Andrew ngoảnh mặt khỏi cửa lên xuống, vờ như đang mải nghĩ; như thế khi nàng lên, nó có thể ngoái nhìn quanh như thể chợt tỉnh vì thấy xe ngừng; nó sẽ chạm mắt nàng, có khi gật đầu nữa. Andrew ngóng tai chờ tiếng cửa mở, nhưng tiếng động cơ rì rì vẫn không hề bị ngắt quãng bởi tiếng cửa rít rồi sập mạnh quen thuộc.
Andrew liếc quanh nhưng chẳng thấy gì ngoài con phố Hope ngắn ngủi tồi tàn chạy giữa hai dãy nhà liên kế. Tài xế nghiêng người ra xem cô bé có đang đến không. Andrew muốn xin ông ta đợi thêm một lát, vì mới tuần trước thôi rõ ràng nàng lao ra từ một căn nhà nhỏ trong dãy phố ấy và chạy dọc vỉa hè (lúc đó nhìn nàng cũng chẳng sao vì ai trên xe cũng nhìn), và chỉ cảnh tượng ấy thôi cũng đủ ám ảnh đầu óc nó hàng giờ sau đó. Thế nhưng bác tài đã lại xoay vôlăng, chiếc xe buýt tiếp tục lên đường. Andrew quay lại nhìn chằm chằm vào khung cửa sổ lem nhem, cả tim lẫn chỗ nhạy cảm của cơ thể cùng nhức nhối.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Andrew Price đóng cánh cửa trước của căn nhà nhỏ sơn trắng rồi theo chân cậu em đi xuôi xuống lối ngang vườn dốc đứng lạnh trắng sương giá, dẫn tới cánh cổng rào sắt mở ra con đường nhỏ. Không đứa nào liếc mắt nhìn quang cảnh trải rộng dưới chân: thị trấn Pagford tí hon lọt thỏm giữa ba ngọn đồi, trên đỉnh một ngọn nhấp nhô tàn tích của tu viện xây từ thế kỷ 12. Dòng sông mảnh uốn lượn quanh đồi cũng chảy qua thị trấn, vắt ngang nó là cây cầu đá bé tí như đồ chơi. Phong cảnh lờ đờ như tấm phông nền vẽ sau lưng hai anh em. Andrew ghét những lúc hiếm hoi nhà có khách, ông bố dẫn ra giới thiệu phong cảnh như kiểu chính ông thiết kế xây dựng tất cả những thứ ấy. Dạo này Andrew bỗng nhiên thích những con đường trải nhựa, cửa sổ vỡ và hình graffiti, nó mơ tới London và một cuộc sống cho ra sống.
Hai anh em đi xuống cuối đường rồi chậm bước chỗ khúc quanh ngoặt ra đường lớn. Andrew lại chỗ bờ rào thận trọng dò dẫm rồi rút ra một gói thuốc lá Benson & Hedges còn phân nửa và bao diêm hơi ẩm. Sau vài lần thất bại vì đầu diêm cứ vỡ vụn, cuối cùng nó cũng châm được thuốc. Kéo được hai ba hơi dài, tiếng động cơ xe buýt đã vang lên phá vỡ không khí tĩnh lặng. Andrew thận trọng dụi tắt điếu thuốc rồi bỏ phần thừa lại vào bao.
Thường khi đến đây, chiếc xe buýt đã đầy hai phần ba vì trước đó đã đi vòng qua các nhà và nông trại ở khu xa. Hai anh em ngồi xa nhau như thường lệ, mỗi đứa chiếm một chiếc ghế đôi, quay mặt nhìn ra cửa sổ khi chiếc xe lại rừm rừm khởi động chạy xuống thị trấn Pagford.
Ngay dưới chân đồi là căn nhà đứng giữa mảnh vườn hình cái nêm. Bốn đứa trẻ nhà Fairbrother thường đứng đợi xe ngoài cổng chính nhưng hôm nay chỗ đó vắng tanh. Màn cửa trong nhà nhất loạt buông xuống. Andrew không biết người ta có thường ngồi trong bóng tối khi có ai đó qua đời hay không.
Trước đó vài tuần, Andrew vừa chài được Niamh Fairbrother, một trong hai cô bé song sinh nhà Barry tại buổi khiêu vũ trong phòng diễn kịch của trường. Sau lần đó, cô nàng cứ lẵng nhẵng theo ám nó một thời gian. Bố mẹ Andrew không quen thân gì với nhà Fairbrother, Simon và Ruth hầu như không có bạn, nhưng họ có vẻ cũng hơi quý mến Barry, chủ chi nhánh bé tẹo của ngân hàng duy nhất ở Pagford. Cái tên Fairbrother khá nổi nhờ gắn với hội đồng địa phương, các buổi biểu diễn trong hội trường thị trấn và cuộc chạy bộ do nhà thờ phát động. Andrew chẳng quan tâm đến mấy hoạt động đó mà bố mẹ nó cũng chẳng buồn tham gia, chỉ trừ vài đợt tài trợ hiếm hoi hay xổ số.
Chiếc xe buýt rẽ trái xuống đường Church Row, ngang qua dãy dinh thự bề thế kiểu Victoria thấp dần theo con đường dốc, Andrew mơ màng tưởng tượng đến cảnh ông bố mình cũng gục xuống chết vì bị tay súng vô hình nào đó bắn hạ. Thế rồi nó sẽ vỗ về an ủi bà mẹ đang thổn thức trong khi gọi điện thoại cho bên dịch vụ lễ tang. Andrew sẽ vừa phì phèo thuốc lá vừa ra lệnh đặt mua loại quan tài rẻ tiền nhất.
Ba đứa nhà Jawandas, Jaswant, Sukhvinder và Rajpal lên xe ở đoạn cuối phố Church Row. Andrew đã cố tình chọn chỗ ngồi còn ghế trống phía trước, cầu mong Sukhvinder sẽ ngồi vào đó, tất nhiên không phải vì ưa gì con bé (Fats, bạn thân của Andrew gọi cô bé là RCV, nghĩa là râu chấm vú), mà vì nàng rất thường chọn ngồi cạnh Sukhvinder. Sáng nay hình như “sức mạnh tinh thần” của nó đặc biệt mạnh hay sao đó, mà Sukhvinder quả là ngồi đúng vào ghế ấy. Andrew sung sướng vờ liếc về phía tấm cửa sổ dày bụi và ôm cặp sát hơn vào lòng hòng che bớt “thằng nhỏ” đang bị kích thích bởi những cú rung mạnh của xe buýt.
Nỗi mong ngóng tăng theo mỗi cú xóc nảy, khi chiếc xe kềnh càng luồn lách qua những con đường hẹp, quặt qua khúc cua gắt vào quảng trường, hướng về phía góc phố đường nhà Nàng.
Andrew chưa bao giờ thích cô gái nào nhiều như vậy. Nàng là học sinh mới, dù chuyển trường ngay học kỳ xuân của năm thi GSCE (General Certificate of Secondary Education: Chứng chỉ giáo dục trung học tổng quát) cũng khá là lạ. Tên nàng là Gaia, thật phù hợp làm sao, vì Andrew chưa từng nghe nói tới cái tên này và đối với nó, bản thân nàng cũng là điều hoàn toàn mới mẻ. Một sáng nọ, nàng bước lên xe buýt như biểu tượng giản đơn về những đỉnh cao tuyệt vời mà tạo hóa có thể vươn tới được, rồi ngồi xuống cách nó hai ghế phía trước, còn Andrew chỉ biết chết sững trước vẻ hoàn hảo của bờ vai và mái tóc nàng.
Tóc nàng màu nâu đồng, buông lơi từng lọn dài xuống xương vai; mũi nàng nho nhỏ, thẳng tắp hoàn hảo, hơi ngắn nên càng làm nổi bật vẻ quyến rũ của đôi môi căng mọng; hai mắt nàng nằm hơi xa nhau, rèm mi dày, tròng mắt rực rỡ những đốm màu nâu pha lục như vỏ táo. Andrew chưa khi nào thấy nàng trang điểm, làn da nàng hoàn hảo không tì vết. Gương mặt nàng là sự hòa quyện giữa những chi tiết cân đối tuyệt vời lẫn tỉ lệ bất thường, Andrew có thể ngắm nhìn gương mặt ấy hàng giờ mà tự hỏi cội nguồn vẻ quyến rũ ấy là từ đâu. Mới tuần trước đây thôi, nó dự liền hai tiết sinh học vì hôm ấy cách sắp xếp bàn ghế và chỗ ngồi ngẫu nhiên thế nào đó lại cho phép nó ngắm nàng liên tục. Thế rồi tối đó, khi đã vào giường, Andrew viết “vẻ đẹp là hình học” (Sau hơn nửa tiếng ngắm tường, rồi sau đó là một trận tự sướng ra trò). Nó xé tờ giấy ngay sau đó, rồi cứ mỗi lần nhớ tới lại thấy thật ngu ngốc, nhưng vẫn có chút gì đáng kể trong vụ đó. Vẻ lộng lẫy của nàng là tổng hòa những điều chỉnh li ti theo khuôn khổ, và kết quả tuyệt đến nín thở.
Nàng có thể lên xe bất kỳ lúc nào, mà nếu nàng chọn ngồi cạnh con bé Sukhvinder bè bè sưng sỉa như thường lệ, thì có khi ngửi thấy cả mùi khói thuốc trên người Andrew. Nó thích nhìn những vật vô tri biến đổi khi chạm vào nàng, như đệm ghế xe buýt hơi lún xuống khi nàng ngồi, hay nạm tóc màu vàng pha đồng uốn cong quanh thanh kẹp kim loại trên đỉnh đầu.
Tài xế hãm xe dần, Andrew ngoảnh mặt khỏi cửa lên xuống, vờ như đang mải nghĩ; như thế khi nàng lên, nó có thể ngoái nhìn quanh như thể chợt tỉnh vì thấy xe ngừng; nó sẽ chạm mắt nàng, có khi gật đầu nữa. Andrew ngóng tai chờ tiếng cửa mở, nhưng tiếng động cơ rì rì vẫn không hề bị ngắt quãng bởi tiếng cửa rít rồi sập mạnh quen thuộc.
Andrew liếc quanh nhưng chẳng thấy gì ngoài con phố Hope ngắn ngủi tồi tàn chạy giữa hai dãy nhà liên kế. Tài xế nghiêng người ra xem cô bé có đang đến không. Andrew muốn xin ông ta đợi thêm một lát, vì mới tuần trước thôi rõ ràng nàng lao ra từ một căn nhà nhỏ trong dãy phố ấy và chạy dọc vỉa hè (lúc đó nhìn nàng cũng chẳng sao vì ai trên xe cũng nhìn), và chỉ cảnh tượng ấy thôi cũng đủ ám ảnh đầu óc nó hàng giờ sau đó. Thế nhưng bác tài đã lại xoay vôlăng, chiếc xe buýt tiếp tục lên đường. Andrew quay lại nhìn chằm chằm vào khung cửa sổ lem nhem, cả tim lẫn chỗ nhạy cảm của cơ thể cùng nhức nhối.