Tĩnh Uyển cẩn thận nghĩ lại một lượt từ đầu dến cuối, thay bộ quần áo, đến phòng nói với mẹ: “Con đi thăm bác Hứa một lát”. Doãn phu nhân gật đầu nói: “Nên qua đó xem xem, khuyên bà ấy đừng quá sốt ruột”. Liền gọi xe trong nhà đưa Tĩnh Uyển đến Hứa gia.
Hứa gia cũng là căn nhà lớn kiểu cũ, giờ đã xế hiều, ánh mặt trời cuối xuân nghiêng nghiêng chiếu xuống tường, không khỏi có phần tiêu điều. Hứa phu nhân nghe người làm báo lại, sớm đã ra ngoài đón từ xa, trong phòng đã bật đèn, bà mặc một chiếc sườn xám lụa nhàu Hồ Châu màu xanh sẫm, nổi bật dưới ánh đèn vàng, vẻ mặt trông càng mệt mỏi, vàng vọt hơn. Tĩnh Uyển thấy vậy lòng càng đau buồn. Hứa phu nhân đi mấy bước, kéo tay cô chỉ gọi một tiếng “Tĩnh Uyển”. Dáng vẻ đó lại giống như sắp rớt nước mắt. Tĩnh Uyển thật sự sợ bà khóc, khi ấy bản thân cô cũng sẽ không kiềm chế được khóc lớn, gượng gọi một tiếng “Bác gái”, rồi đỡ tay bà ngồi xuống ghế sofa.
Hứa phu nhân lấy ra chiếc khăn tay lau nước mắt, chỉ nói: “Thế này sao được chứ? Kiến Chương vừa xảy ra chuyện, chẳng khác gì trời sụp xuống”. Tĩnh Uyển nói: “Bác đừng quá lo lắng, giữ gìn sức khỏe quan trọng hơn, chuyện của Kiến Chương cũng chỉ là phải tốn chút tiền mà thôi, không biết bác có biết bây giờ Kiến Chương có những người bạn nào còn có thể giúp được không ạ?”. Hứa phu nhân nói: “Chuyện bên ngoài bác không hiểu nhiều, e rằng chỉ có ông Liêu biết”. Tĩnh Uyển liền hỏi: “Có thể mời Liêu tiên sinh đến đây nói chuyện được không ạ?”. Hứa phu nhân sớm đã hồn bay phách lạc, thấy sắc mặt cô trấn tĩnh, trong lòng mới dần dần được yên tâm một chút, nghe cô nói vậy liền lập tức sai người đi mời.
Vị Liêu tiên sinh đó là nhân viên thu chi lâu năm của Hứa gia, từng cùng Hứa Kiến Chương làm rất nhiều việc, nghe nói Hứa phu nhân mời, ông liền lập tức đến ngay. Tĩnh Uyển thường ngày cũng có quen biết ông, gọi ông một tiếng “chú Liêu”, nói “Chú Liêu, trước mắt phải nhờ chú nghĩ thật kỹ, Kiến Chương còn bạn bè nào ở trong Thừa quân có thể giúp đỡ được không?”. Liêu tiên sinh chần chừ một lát nói: “Việc lần này liên lụy rất lớn, mấy người tôi biết đều đã không giúp được rồi”. Tĩnh Uyển hỏi: “Vật có cách nào khác không? Ví dụ không phải là trực tiếp tìm người giúp đỡ, chỉ là tìm cách gặp mặt Cậu Sáu, có cách nào không?”.
Liêu tiên sinh nghe vậy, giật bắn mình, lấy mũ trên đầu xuống hoài nghi nói: “Tìm gặp Cậu Sáu – đấy không phải chuyện đơn giản, cậu ta là thống soái Thừa quân, là Tuần duyệt sứ (*) của chin tỉnh, muốn gặp mặt cậu ta đâu phải dễ dàng. Cho dù gặp được rồi, cũng có ích gì chứ?”.
(*) Tuần duyệt sứ: Thời kỳ quân phiệt Bắc Dương, gọi người quản lý hai tỉnh trở lên là Tuần duyệt sứ.
Tĩnh Uyển nói: “Cha cháu có một người bạn, có chút giao hảo với Cậu Sáu, có thể nhờ cậy được, chỉ là nhiều năm không gặp, bây giờ Cậu Sáu quyền cao chức trọng, ngồi ở ngôi cao, sợ rằng không dễ gặp, nếu có thể gặp mặt nhờ vả chút tình cũ, biết đâu có thể có hiệu quả”.
Lưu tiên sinh nghe thấy cô bình tĩnh như thế, cân nhắc nói: “Muốn gặp Cậu Sáu quả thật không có cách nào, nhưng có một cửa không biết có được hay không?”. Tĩnh Uyển nói vội: “Mong chú nói rõ”. Hứa gia vốn có quan hệ khá tốt với một vị sư đoàn trưởng họ Từ của Thừa quân, mà vị sư đoàn trưởng họ Từ này chính là em họ của Đào Đoan Nhân, anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong. Liêu tiên sinh thành thật nói: “Tìm vị sư đoàn trưởng Từ đó giúp đỡ, có lẽ có thể gặp được tam tiểu thư nhà Mộ Dung”. Tĩnh Uyển lặng lẽ gật gật đầu, Liêu tiên sinh lại nói: “Nghe nói Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, các tiểu thư đều không được phép hỏi chuyện bên ngoài, chỉ e gặp được Mộ Dung tiểu thư cũng vô ích”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói với Liêu tiên sinh: “Trước mắt cũng chỉ có nước này thôi. Có thể nhờ chú viết một bức thư cho sư đoàn trưởng Từ, giới thiệu người bạn đó của cha cháu, mong ông ấy giúp đỡ từ bên trong, để người bạn đó của cha cháu có thể gặp mặt. Mộ Dung tiểu thư”. Liêu tiên sinh đương nhiên đồng ý. Hứa phu nhân lập tức sai người đem bút nghiên đến, Liêu tiên sinh viết một bức thư dài, nói rõ quan hệ lợi hại, rồi mới đưa cho Tĩnh Uyển.
Hứa phu nhân mắt ngấn lệ nhìn cô, hỏi: “Người bạn đó của lệnh tôn thật sự có thể giúp đỡ sao?”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói: “Thật ra cũng chẳng chắc chắn bao nhiêu, nhưng người đó nhất định sẽ cố hết sức giúp chúng ta”.
Tĩnh Uyển về đến nhà trời đã muộn, Doãn phu nhân thấy dáng vẻ cô vội vã, liền gọi cô lại hỏi: “Con ăn cơm chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Con ăn cơm với bác Hứa gia rồi, bác ấy trông thật đáng thương, thật sự là ăn không nổi”. Doãn phu nhân khẽ than một tiếng nói: “Con cũng đừng quá lo lắng, cha con đã nghĩ cách rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Ngày mai con đi tìm bạn học của con, cha cậu ấy vốn qua lại mật thiết với người của Thừa quân, biết đâu có thể có cửa”. Doãn phu nhân gật gật đầu, nói: “Chúng ta có bệnh phải cầu tứ phương”. Tĩnh Uyển không biết vì sao, gọi nhỏ một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nhìn cô với vẻ yêu thương vô hạn, bà nói: “Con xem con kìa, chỉ vất vả mộ tngày, đã lo lắng đến tiều tụy”. Tĩnh Uyển không kìm được xoa mặt, gượng cười nói: “Mẹ, con đi ngủ trước đây, sáng sớm ngày mai dậy còn phải đi tìm người bạn học đó nữa”.
Sáng sớm hôm sau, Tĩnh Uyển đi ô tô ra ngoài, Doãn phu nhân ở nhà, không biết vì sao tâm trạng bất an, bà chỉ nghĩ là vì đang lo lắng chuyện của Kiến Chương. Đợi đến trưa, lái xe ô tô quay lại, nhưng không thấy Tĩnh Uyển đâu. Lái xe nói: “Đại tiểu thư bảo tôi đợi cô ấy ở cửa, đợi đến tận bây giờ, tôi tưởng đại tiểu thư đã thuê xe về rồi”. Doãn phu nhân nghe vậy, vừa sốt ruột vừa lo lắng, vội gọi điện kể với Doãn Sở Phàn, bà lại nghĩ có lẽ là ở chỗ bạn học, bà gọi điện hỏi hết người này đến người khác, họ đều nói cô khong đến chỗ mình. Đến lúc trời đã tối, Tĩnh Uyển vẫn chưa quay về, vợ chồng họ Doãn lòng như lửa đốt, đến phòng con gái xem, thiếu mấy bộ quần áo, trên bàn trang điểm lại đặt một bức thư. Doãn phu nhân xem xong, gần như ngất đi, Doãn Sở Phàn bình tĩnh hơn một chút, bàn tay cầm tẩu thuốc run run, ông vội vàng gọi điện cho người quen ở ngân hàng, quả nhiên sáng sớm nay Tĩnh Uyển đã rút một khoản tiền lớn, vợ chồng họ Doãn thấy sự việc quá đột ngột, hối hận không kịp.
Tối đó trăng rất đep, Tĩnh Uyển nằm ở giường mềm trên tàu, rèm cửa sổ không kéo kín, qua một khe hở hẹp, cô ngắm vầng trăng khuyết đó, trên bầu trời tối ánh trăng hơi đỏ, giống như có ai dùng móng tay cấu một vết, để lại một vết nho nhỏ nhàn nhạt. Tàu đi rất nhanh, giữa khoảng tranh tối tranh sáng mảng trăng khuyết ấy luôn ở nơi đó, giống như chạy theo đoàn tàu vậy. Tâm trạng cô lên xuống không yên, dứt khoát ngồi dậy lấy chiếc đồng hồ quả quýt từ trong túi áo ra, cẩn thận tìm kiếm chữ khắc trên mặt đồng hồ. Cảm giác tinh tế truyền từ đầu ngón tay đến tận trong đáy tim, “Bái Lâm” – nếu thật sự là anh, vậy có lẽ cô có hy vọng, dẫu sao anh cũng nợ cô một ân tình.
Trong lòng hơi yên tâm, cô lại ngủ tiếp, ánh trăng tối đến mức gần chuyển sang màu đỏ sẫm, từ trên gối nhìn lên, nó giống một vệt son trên tách thủy tinh, nhòe đi như sắp tan ra, và cô lại ngủ thiếp đi.
Vừa ra khỏi ga Thừa Châu, cô mới cảm thấy bầu không khí là lạ. Cô thân gái một mình, đành thuê một chiếc xe kéo đến nhà trọ, trên đường đi cô hỏi phu kéo xe: “Sao hôm nay trên đường nhiều cảnh vệ thế, xảy ra chuyện gì rồi sao?”. Phu kéo xe đáp: “Người ta đổ xô đi xem hành hình phạm nhân đấy”. Không biết vì sao tim cô đập loạn nhịp, hỏi: “Là phạm nhân gì?”. Phu kéo xe đó nói: “Là người vận chuyển hàng cấm trái phép”. Cô gần như muốn ngừng thở, thất thần mấy giây liền, mới lắc đầu thật mạnh, hỏi: “Chỉ là vận chuyển hàng cấm trái phép thôi, sao có thể xử nặng như thế chứ?”. Phu kéo xe đó đáp: “Cái đó cũng không rõ”.
Cô đến nhà trọ, không kịp tắm rửa liền thuê một chiếc ô tô đến phủ của sư đoàn trưởng Từ, may mà trời còn sơm vị sư đoàn trường đó vẫn chưa ra ngoài, người coi cửa để cô đợi ở phòng khách, người hầu đưa thư của Liêu tiên sinh vào, không lâu sau sư đoàn trưởng Từ đích thân đi ra. Vừa thấy Tĩnh Uyển, đương nhiên ông ta kinh ngạc vô cùng, dò xét từ trên xuống dưới hồi lâu, mới hỏi: “Người Liêu tiên sinh nhắc đến trong thư chính là cô?”.
Tĩnh Uyển không biết tình hình như thế nào, cố gắng trấn tĩnh, hơi mĩm cười nói: “Tôi họ Doãn, quả thật không dám giấu, Hứa Kiến Chương là chồng chưa cưới của tôi, sư đoàn trưởng Từ nhất định là biết rất rõ mục đích tôi đến đây”. Vị sư đoàn trưởng Từ đó lại dò xét cô một lượt, bỗng nhiên đứa ngón tay lên khen ngợi: “Tiểu Hứa có con mắt nhìn, Doãn tiểu thư gan dạ sáng suốt”. Bỗng ông ta thở dài, lắc đầu nói: “Nhưng đáng tiếc, đáng tiếc”.
Ông ta liên miệng nói hai tiếng đáng tiếc, trong lòng Tĩnh Uyển lạnh đi, không kìm được hỏi: “Chẳng lẽ người bị hành hình hôm nay là…”. Ông ta nói: “Hóa ra Doãn tiểu thư đã nghe nói rồi?”. Trái tim Tĩnh Uyển chỉ chực nhảy ra ngoài, không khỏi lớn tiếng hỏi: “Vận chuyển hàng cấm tuy là trọng tội, nhưng sao có thể không xét xử mà đã giết người chứ?”. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Chuyện bên trong thật sự là một lời khó nói hết. Người bị hành hình hôm nay so với Kiến Chương, nói thẳng ra là có lai lịch hơn rất nhiều”. Tĩnh Uyển nghe thấy câu này, trong lòng bỗng chốc thở phào, cơ thể cũng yếu ớt đến mức gần như đứng không vững, trong lòng chỉ nghĩ, tạ ơn trời đất hóa ra không phải anh, hóa ra là vẫn chưa muộn.
Chỉ nghe sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư không phải người ngoài, tôi cũng nói thật. Người bị hành hình hôm nay là cháu đích tôn của Từ Trị Bình – thống chế Vọng Châu. Từ thống chế vì chuyên này mà lật mặt với Cậu Sáu, ép Cậu Sáu hạ lệnh trước mặt một thuộc cấp của chín tỉnh, tất cả người bắt được lần này đều giết hết không tha”.
Tĩnh Uyển không ngăn được cơn rùng mình. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Cậu Sáu đã nói những lời đó trước mặt mọi người, vậy chắc chắn sẽ không xoay chuyển, tôi khuyên Doãn tiểu thư về Càn Bình trước thì hơn”.
Tĩnh Uyển nghe nói người bị hành hình hôm nay là cháu của thống chế một tỉnh, đã biết hy vọng rất mong manh. Lại nghe nói Cậu Sáu hạ lệnh như thế trước mặt thuộc cấp, cô nghĩ cho dù mình là ân nhân cứu mạng của anh ta e rằng anh ta cũng không thể thu hồi mệnh lệnh, nếu không uy tín ở đâu? Anh ta là một thống soái trẻ tuổi, tuy không ít cấp dưới là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, nhưng khó đám bảo có người trong lòng thật ra không phục, anh ta vì áp chế thuộc cấp quyết không thể có chút sai sót nào. Việc này anh ta đã làm đến nước này, cũng là cưỡi lên lưng cọp, e rằng cho dù là người thân của chính mình, Cậu Sáu cũng sẽ theo luật mà làm.
Cô nghĩ trước nghĩ sau, nhưng việc đã đến nước này vẫn phải liều một phen. Do đó cô nói với sư đoàn trưởng Từ: “Tôi vẫn muốn gặp Mộ Dung tiểu thư một chút, không biết sư đoàn trưởng có tiện sắp xếp không?” Sư đoàn trưởng Từ đó được hưởng lợi không ít từ Hứa gia bao năm nay, lần này sự việc xảy ra, ông ta sớm đã muốn cứu giúp Hứa Kiến Chương, chỉ là trong lòng muốn mà không đủ khả năng thôi. Nghe cô nói muốn gặp Mộ Dung tiểu thư, việc này bản thân có thể giúp được, ông ta lập tức vui vẻ đồng ý, nói: “Cơ hội thì sẵn có, để chúc mừng sinh nhật ba mươi tuổi của tam tiểu thư, Đào gia tổ chức tiệc mời khách mấy ngày liền, khách khứa rất đông, tôi sẽ đưa cô vào, cũng không để ý đến đâu”.
Tĩnh Uyển cảm ơn, sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư thân gái yếu ớt, lại có thể vạn dặm đến cứu, tôi là bạn của Kiến Chương, chẳng lẽ không nên góp chút sức mọn sao?”. Tĩnh Uyển thấy ông ta tuy là người thô lỗ, nhưng tính cách thẳng thắn, sẵn lòng giúp đỡ lúc hoạn nạn, trong lòng cô thầm cảm kích.
Đào Đoan Nhân vô đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong Thừa Quân, hoa viên lớn nhất trong phủ và tòa lầu xây bằng gạch đỏ mới được tu sửa rất bắt mắt, xa xa đã nhìn thấy. Tĩnh Uyển thấy trên một nửa con phố trước Đào phủ xe đã đỗ kín, đông như trẩy hội, khí thế phi thường. Sư đoàn trưởng Từ bảo Từ phu nhân đi cùng, hai vợ chồng dẫn cô vào Đào Phủ. Khách nam đều được tiếp đãi ở bên ngoài, Từ phu nhân dẫn Tĩnh Uyển vào sân trong, hóa ra bên trong còn có phòng khách rất hoành tráng, trước phòng rực rỡ gấm hoa, bày những chậu hoa đương mùa như thược dược và mẫu đơn… đều nở những bông to, rực rỡ đua sắc trên nền lá xanh mướt.
Trong phòng khách toàn là khách nữ, đều là các thiếu phu nhân, tiểu thư cao quý, váy áo họ mặc còn đua nhau khoe sắc hơn cả hoa trong phòng khách, trước cửa phòng khách có một sân khấu nhỏ, trên sân khấu diễn viên đang hát ê a, dưới sân khấu, các phu nhân, tiểu thư người thì xem kịch, người thì nói chuyện, cười nói tíu tít, kèm theo tiếng đàn sáo trên sâu khấu réo rắt. Tĩnh Uyển chứng kiến sự phồn hoa đến mức này, tuy sinh ra, lớn lên trong sự phú quý, nhưng cô vẫn cảm thấy xa xỉ khó nói nên lời. Từ phu nhân thấy cô nhìn lên sân khấu, liền cười với cô, hỏi: “Doãn tiểu thư cũng thích nghe kịch sao? Hôm nay tiết mục áp chót là Hạnh ân và Giấc ngủ xuân của diễn viên nôi tiếng Kỷ Ngọc My, kịch của ông chủ Kỷ là đệ nhất thiên hạ, bình thường không diễn tại nhà”. Tĩnh Uyển trả lời ầm ừ một đôi câu, Từ phu nhân liền đưa cô xuyên qua phòng khách, lại vào một sân vườn nữa, sân vườn đó trồng mấy cây ngô đồng, con đường đá nho uốn lượn dưới bóng tán cây. Bà đưa Tĩnh Uyển men theo con đường đó đi qua hòn non bộ, tiếng cười nói đàn sáo phía trước nhạt nhòa dần đi, giờ mới nghe thấy tiếng ồn ào từ căn nhà phía sau.
Từ phu nhân chưa đi vào phòng đã cười nói: “Nhân vật chính đâu? Người đến chúc mừng sinh nhật đến rồi này”. Người đánh bài trong nhà đều quay đầu lại nhìn bà Từ, hóa ra người ngồi ghế đầu tiên, trên người mặc chiếc áo gấm rất đẹp, tóc vấn kiểu Như Ý, một phụ nữ kiểu xưa xinh đẹp chính là Mộ Dung tam tiểu thư, cô gọi Từ phu nhân một tiếng “chị họ”, cười nói: “Cô gái chị họ đưa đến là ai thế, thật xinh đẹp”. Tĩnh Uyển giờ mới thoải mái gọi: “Tam tiểu thư”, lại tự giới thiệu: “Tôi họ Doãn, tam tiểu thư cứ gọi tôi là Tĩnh Uyển”. Cô ấy lấy ra một chiếc hộp nhỏ, nói: “Sinh nhật tam tiểu thư, tôi chuẩn bị trước chút quá nhỏ, mong tiểu thư không chê”.
Mộ Dung tam tiểu thư thấy thái độ của cô khiêm tốn nhã nhặn, nói chuyện lại thoải mái, không biết vì sao cảm thấy khá vui vẻ, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo quá rồi”. Cô ấy bảo người hầu nhận quà, lại kêu Từ phu nhân và Tĩnh Uyên đánh bài. Tĩnh Uyên từ chối qua loa rồi ngồi cùng đánh tám vòng. Cô vốn ngồi phía trên Mộ Dung tam tiểu thư, cô đến chuẩn bị trước, lại cố gắng đoán ý qua sắc mặt và lời nói, so với những quân bài mình không hợp cạ, Mộ Dung tam tiểu thư cần quân nào, cô liền đánh quân đó, hết tám vòng rồi lại đánh tám vòng, Mộ Dung tam tiểu thư đã thắng hơn hai ngàn đồng. Từ phu nhân bên cạnh giúp Mộ Dung tam tiểu thư xem bài, tươi cười như hoa, nói: “Tam tiểu thư may mắn thật, trước khi mở tiệc đã thắng một sô kha khá rồi phải không, e rằng tám vòng này đánh không hết đã phải mở tiệc rồi”. Mộ Dung tam tiểu thư nói: “Hôm nay là ngày chính, Cậu Sáu đã nói là sẽ đến, đợi cậu ấy đến mới bắt đầu”.
Tĩnh Uyển nghe thấy vậy, cười hỏi: “Cậu Sáu có đến sao? Nói ra tôi và Cậu Sáu từng có duyên gặp mặt, không biết Cậu Sáu còn nhớ hay không?”. Vừa nói, cô vừa làm như vô ý, tiện tay lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra xem giờ. Mộ Dung tam tiểu thư tinh mắt, đã nhận ra ngay đó là chiếc đồng hồ Mộ Dung Thần đặt làm riêng cho Mộ Dung Phong vào lần sinh nhật hai mươi tuổi của anh, chỉ không biết vì sao nó lại ở trên tay người phụ nữ này. Nghĩ lại một chút, cô đoán chắc là được cậu em phong lưu này tặng làm kỷ niệm rồi. Vị Doãn tiểu thư tướng mạo xuất chúng như vậy, chẳng trách ngay cả chiếc đồng hồ này nó cũng tặng cô ấy. Trong lòng suy nghĩ, vị Doãn tiểu thư này thua mình nhiều tiền như vậy, hóa ra là có chủ ý. Cô đã quen với việc này, tuy thầm buồn cười nhưng cũng không vạch trần chỉ nói: “Mấy hôm trước tôi còn nói với chị cả, Cậu Sáu nhà chúng ta cũng sắp theo kịp mấy minh tinh điện ảnh rồi”. Tĩnh Uyển nghe cô nói một câu không mặn không nhạt như thế, cũng không tiếp lời, chỉ cười thật tươi.
Mộ Dung tam tiểu thư thắng cô không ít tiền, trong lòng nghĩ đây vốn là chuyện thuận nước xuôi thuyền, hơn nữa Mộ Dung Phong xưa nay lại có tật xấu này, bản thân cô thay người ta làm mối cũng không phải là lần đầu. Vừa tính toán trong lòng vừa đánh bài, đợi đến lúc bên ngoài giục mở tiệc, cô mới đứng dậy đi ra.
Bữa tiệc này Tĩnh Uyển cứ thấp thỏm, ăn cũng không yên, tuy là bào ngư vi cá cũng chỉ thấy nhạt như nước ốc. Phòng trên vốn là tiệc cơ động (*), dùng bữa xong rời đến phòng sau dùng tra, kịch mới dừng, lại có mấy diễn viên lên thuyết thư (**), đang rất náo nhiệt, bỗng nhiên một cô bé dáng vẻ nhanh nhẹn đi lên, nói nhỏ với cô: “Doãn tiểu thư, tam tiểu thư chúng tôi mời cô đến phòng sau dùng trà”. Tim cô nhảy lên, cô đứng dậy liền theo người hầu đó ra phía sau, đi qua một cánh cửa màu đỏ nhỏ, bên trong là một căn phòng vô cùng yên tĩnh, trước phòng trồng vài cây hoa lê, lúc này lá đã sum suê đầy cành.
(*) Tiệc cơ động: Ai đến trước thì ăn trước, đến sau ăn sau (ND)
(**) Thuyết thư: Loại hình biểu diễn các loại khí khúc như binh thư, bình thoại, đàn từ… (ND)
Người hầu mở cửa ra, nói nhỏ: “Tiểu thư đợi ở đây một lát”. Tĩnh Uyển nhìn căn phòng đó, tuy bố trí kiểu cũ nhưng cũng rất nhã nhặn. Trong phòng bày một bộ đồ dùng bằng gỗ tư đàn kiểu đời Minh rất tinh xảo. Cô ngồi trên ghế đợi một lát, nghe a hoàn đó đã đi rất xa, xung quanh yên lặng không tiếng động, từ xa lờ mờ truyền đến chút âm thanh tiệc tùng náo nhiệt, khiến trong phòng càng trở nên yên tĩnh hơn. Bỗng nhiên nghe thấy bên ngoài phòng truyền đến tiếng giày da, tim cô đập thình thịch, người cũng bất giác đứng lên, cô vốn rất to gan, đến lúc này lại bỗng trở nên sợ hãi, nghe thấy tiếng bước chân càng ngày càng gần liền nấp sau tấm rèm màu xanh nước biển.
Người đó đi thẳng vào phòng, gọi hai tiếng “Ngọc My”, hỏi: “Ngọc My, có phải em không, đừng trốn nữa”. Cô nghe thấy giọng nói của một chàng trai trẻ, không biết có phải là Mộ Dung Phong không, trái tim chỉ chực nhảy ra khỏi lồng ngực, cô đứng yên đó không động đậy. Lại nghe thấy người đó nói: “Được rồi, đừng đùa nữa, mau ra đi. Khó khăn lắm anh mới thoát thân để đến được, lát nữa họ không thấy anh lại đến tìm đấy”.
Tĩnh Uyển rối loạn, chốc lát trong đầu có vô số ý nghĩ, chỉ nghe thấy người đó nói: “Em còn không ra, anh phải đi rồi đấy”. Cô chần chứ không nhúc nhích, chỉ nghe anh nói: “Ngọc My, em thật sự không ra, vậy anh đi thật đây”. Một lúc sau, liền nghe thấy tiếng bước chân xa dần, xung quanh lại trở nên yên ắng, người đó đi thật rồi. Cô không biết vì sao thở phào một tiếng, chầm chậm bước ra khỏi chiếc rèm, thấy trong phòng không có ai, trong lòng cô rối như tơ vò, không biết phải làm thế nào.
Chính trong giây phút tim đập loạn nhịp đó, bỗng có người ôm eo cô từ phía sau, cô giật mình hoảng hốt, đầu óc quay cuồng, bị người khác đè lên chiếc giường nhỏ, hơi thở ấm ấm phả vào tai, cảm giác vừa mềm vừa ngứa đó khiến cô vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Lại nghe thấy giọng nói của người đó kề sát bên cạnh, hóa ra người đó chỉ giả vờ bỏ đi, lúc này bất ngờ đè cô xuống, cười lớn nói: “Đồ láu lỉnh, em cứ nghịch ngợm như vậy, hôm nay anh nhất định phải cho em biết tay”. Trên người anh có mùi hương bạc hà thoang thoảng, pha trộn mùi đàn ông lạ lẫm, còn cả mùi khói thuốc súng nhàn nhạt xộc vào mũi, cô ra sức vùng vẫy, một tay anh đè cô xuống, một tay xô mái tóc rối của cô, đang muốn hôn lên môi cô thì nhìn rõ mặt cô, anh không kìm được sững sờ.
Tĩnh Uyển cẩn thận nghĩ lại một lượt từ đầu dến cuối, thay bộ quần áo, đến phòng nói với mẹ: “Con đi thăm bác Hứa một lát”. Doãn phu nhân gật đầu nói: “Nên qua đó xem xem, khuyên bà ấy đừng quá sốt ruột”. Liền gọi xe trong nhà đưa Tĩnh Uyển đến Hứa gia.
Hứa gia cũng là căn nhà lớn kiểu cũ, giờ đã xế hiều, ánh mặt trời cuối xuân nghiêng nghiêng chiếu xuống tường, không khỏi có phần tiêu điều. Hứa phu nhân nghe người làm báo lại, sớm đã ra ngoài đón từ xa, trong phòng đã bật đèn, bà mặc một chiếc sườn xám lụa nhàu Hồ Châu màu xanh sẫm, nổi bật dưới ánh đèn vàng, vẻ mặt trông càng mệt mỏi, vàng vọt hơn. Tĩnh Uyển thấy vậy lòng càng đau buồn. Hứa phu nhân đi mấy bước, kéo tay cô chỉ gọi một tiếng “Tĩnh Uyển”. Dáng vẻ đó lại giống như sắp rớt nước mắt. Tĩnh Uyển thật sự sợ bà khóc, khi ấy bản thân cô cũng sẽ không kiềm chế được khóc lớn, gượng gọi một tiếng “Bác gái”, rồi đỡ tay bà ngồi xuống ghế sofa.
Hứa phu nhân lấy ra chiếc khăn tay lau nước mắt, chỉ nói: “Thế này sao được chứ? Kiến Chương vừa xảy ra chuyện, chẳng khác gì trời sụp xuống”. Tĩnh Uyển nói: “Bác đừng quá lo lắng, giữ gìn sức khỏe quan trọng hơn, chuyện của Kiến Chương cũng chỉ là phải tốn chút tiền mà thôi, không biết bác có biết bây giờ Kiến Chương có những người bạn nào còn có thể giúp được không ạ?”. Hứa phu nhân nói: “Chuyện bên ngoài bác không hiểu nhiều, e rằng chỉ có ông Liêu biết”. Tĩnh Uyển liền hỏi: “Có thể mời Liêu tiên sinh đến đây nói chuyện được không ạ?”. Hứa phu nhân sớm đã hồn bay phách lạc, thấy sắc mặt cô trấn tĩnh, trong lòng mới dần dần được yên tâm một chút, nghe cô nói vậy liền lập tức sai người đi mời.
Vị Liêu tiên sinh đó là nhân viên thu chi lâu năm của Hứa gia, từng cùng Hứa Kiến Chương làm rất nhiều việc, nghe nói Hứa phu nhân mời, ông liền lập tức đến ngay. Tĩnh Uyển thường ngày cũng có quen biết ông, gọi ông một tiếng “chú Liêu”, nói “Chú Liêu, trước mắt phải nhờ chú nghĩ thật kỹ, Kiến Chương còn bạn bè nào ở trong Thừa quân có thể giúp đỡ được không?”. Liêu tiên sinh chần chừ một lát nói: “Việc lần này liên lụy rất lớn, mấy người tôi biết đều đã không giúp được rồi”. Tĩnh Uyển hỏi: “Vật có cách nào khác không? Ví dụ không phải là trực tiếp tìm người giúp đỡ, chỉ là tìm cách gặp mặt Cậu Sáu, có cách nào không?”.
Liêu tiên sinh nghe vậy, giật bắn mình, lấy mũ trên đầu xuống hoài nghi nói: “Tìm gặp Cậu Sáu – đấy không phải chuyện đơn giản, cậu ta là thống soái Thừa quân, là Tuần duyệt sứ () của chin tỉnh, muốn gặp mặt cậu ta đâu phải dễ dàng. Cho dù gặp được rồi, cũng có ích gì chứ?”.
() Tuần duyệt sứ: Thời kỳ quân phiệt Bắc Dương, gọi người quản lý hai tỉnh trở lên là Tuần duyệt sứ.
Tĩnh Uyển nói: “Cha cháu có một người bạn, có chút giao hảo với Cậu Sáu, có thể nhờ cậy được, chỉ là nhiều năm không gặp, bây giờ Cậu Sáu quyền cao chức trọng, ngồi ở ngôi cao, sợ rằng không dễ gặp, nếu có thể gặp mặt nhờ vả chút tình cũ, biết đâu có thể có hiệu quả”.
Lưu tiên sinh nghe thấy cô bình tĩnh như thế, cân nhắc nói: “Muốn gặp Cậu Sáu quả thật không có cách nào, nhưng có một cửa không biết có được hay không?”. Tĩnh Uyển nói vội: “Mong chú nói rõ”. Hứa gia vốn có quan hệ khá tốt với một vị sư đoàn trưởng họ Từ của Thừa quân, mà vị sư đoàn trưởng họ Từ này chính là em họ của Đào Đoan Nhân, anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong. Liêu tiên sinh thành thật nói: “Tìm vị sư đoàn trưởng Từ đó giúp đỡ, có lẽ có thể gặp được tam tiểu thư nhà Mộ Dung”. Tĩnh Uyển lặng lẽ gật gật đầu, Liêu tiên sinh lại nói: “Nghe nói Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, các tiểu thư đều không được phép hỏi chuyện bên ngoài, chỉ e gặp được Mộ Dung tiểu thư cũng vô ích”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói với Liêu tiên sinh: “Trước mắt cũng chỉ có nước này thôi. Có thể nhờ chú viết một bức thư cho sư đoàn trưởng Từ, giới thiệu người bạn đó của cha cháu, mong ông ấy giúp đỡ từ bên trong, để người bạn đó của cha cháu có thể gặp mặt. Mộ Dung tiểu thư”. Liêu tiên sinh đương nhiên đồng ý. Hứa phu nhân lập tức sai người đem bút nghiên đến, Liêu tiên sinh viết một bức thư dài, nói rõ quan hệ lợi hại, rồi mới đưa cho Tĩnh Uyển.
Hứa phu nhân mắt ngấn lệ nhìn cô, hỏi: “Người bạn đó của lệnh tôn thật sự có thể giúp đỡ sao?”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói: “Thật ra cũng chẳng chắc chắn bao nhiêu, nhưng người đó nhất định sẽ cố hết sức giúp chúng ta”.
Tĩnh Uyển về đến nhà trời đã muộn, Doãn phu nhân thấy dáng vẻ cô vội vã, liền gọi cô lại hỏi: “Con ăn cơm chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Con ăn cơm với bác Hứa gia rồi, bác ấy trông thật đáng thương, thật sự là ăn không nổi”. Doãn phu nhân khẽ than một tiếng nói: “Con cũng đừng quá lo lắng, cha con đã nghĩ cách rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Ngày mai con đi tìm bạn học của con, cha cậu ấy vốn qua lại mật thiết với người của Thừa quân, biết đâu có thể có cửa”. Doãn phu nhân gật gật đầu, nói: “Chúng ta có bệnh phải cầu tứ phương”. Tĩnh Uyển không biết vì sao, gọi nhỏ một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nhìn cô với vẻ yêu thương vô hạn, bà nói: “Con xem con kìa, chỉ vất vả mộ tngày, đã lo lắng đến tiều tụy”. Tĩnh Uyển không kìm được xoa mặt, gượng cười nói: “Mẹ, con đi ngủ trước đây, sáng sớm ngày mai dậy còn phải đi tìm người bạn học đó nữa”.
Sáng sớm hôm sau, Tĩnh Uyển đi ô tô ra ngoài, Doãn phu nhân ở nhà, không biết vì sao tâm trạng bất an, bà chỉ nghĩ là vì đang lo lắng chuyện của Kiến Chương. Đợi đến trưa, lái xe ô tô quay lại, nhưng không thấy Tĩnh Uyển đâu. Lái xe nói: “Đại tiểu thư bảo tôi đợi cô ấy ở cửa, đợi đến tận bây giờ, tôi tưởng đại tiểu thư đã thuê xe về rồi”. Doãn phu nhân nghe vậy, vừa sốt ruột vừa lo lắng, vội gọi điện kể với Doãn Sở Phàn, bà lại nghĩ có lẽ là ở chỗ bạn học, bà gọi điện hỏi hết người này đến người khác, họ đều nói cô khong đến chỗ mình. Đến lúc trời đã tối, Tĩnh Uyển vẫn chưa quay về, vợ chồng họ Doãn lòng như lửa đốt, đến phòng con gái xem, thiếu mấy bộ quần áo, trên bàn trang điểm lại đặt một bức thư. Doãn phu nhân xem xong, gần như ngất đi, Doãn Sở Phàn bình tĩnh hơn một chút, bàn tay cầm tẩu thuốc run run, ông vội vàng gọi điện cho người quen ở ngân hàng, quả nhiên sáng sớm nay Tĩnh Uyển đã rút một khoản tiền lớn, vợ chồng họ Doãn thấy sự việc quá đột ngột, hối hận không kịp.
Tối đó trăng rất đep, Tĩnh Uyển nằm ở giường mềm trên tàu, rèm cửa sổ không kéo kín, qua một khe hở hẹp, cô ngắm vầng trăng khuyết đó, trên bầu trời tối ánh trăng hơi đỏ, giống như có ai dùng móng tay cấu một vết, để lại một vết nho nhỏ nhàn nhạt. Tàu đi rất nhanh, giữa khoảng tranh tối tranh sáng mảng trăng khuyết ấy luôn ở nơi đó, giống như chạy theo đoàn tàu vậy. Tâm trạng cô lên xuống không yên, dứt khoát ngồi dậy lấy chiếc đồng hồ quả quýt từ trong túi áo ra, cẩn thận tìm kiếm chữ khắc trên mặt đồng hồ. Cảm giác tinh tế truyền từ đầu ngón tay đến tận trong đáy tim, “Bái Lâm” – nếu thật sự là anh, vậy có lẽ cô có hy vọng, dẫu sao anh cũng nợ cô một ân tình.
Trong lòng hơi yên tâm, cô lại ngủ tiếp, ánh trăng tối đến mức gần chuyển sang màu đỏ sẫm, từ trên gối nhìn lên, nó giống một vệt son trên tách thủy tinh, nhòe đi như sắp tan ra, và cô lại ngủ thiếp đi.
Vừa ra khỏi ga Thừa Châu, cô mới cảm thấy bầu không khí là lạ. Cô thân gái một mình, đành thuê một chiếc xe kéo đến nhà trọ, trên đường đi cô hỏi phu kéo xe: “Sao hôm nay trên đường nhiều cảnh vệ thế, xảy ra chuyện gì rồi sao?”. Phu kéo xe đáp: “Người ta đổ xô đi xem hành hình phạm nhân đấy”. Không biết vì sao tim cô đập loạn nhịp, hỏi: “Là phạm nhân gì?”. Phu kéo xe đó nói: “Là người vận chuyển hàng cấm trái phép”. Cô gần như muốn ngừng thở, thất thần mấy giây liền, mới lắc đầu thật mạnh, hỏi: “Chỉ là vận chuyển hàng cấm trái phép thôi, sao có thể xử nặng như thế chứ?”. Phu kéo xe đó đáp: “Cái đó cũng không rõ”.
Cô đến nhà trọ, không kịp tắm rửa liền thuê một chiếc ô tô đến phủ của sư đoàn trưởng Từ, may mà trời còn sơm vị sư đoàn trường đó vẫn chưa ra ngoài, người coi cửa để cô đợi ở phòng khách, người hầu đưa thư của Liêu tiên sinh vào, không lâu sau sư đoàn trưởng Từ đích thân đi ra. Vừa thấy Tĩnh Uyển, đương nhiên ông ta kinh ngạc vô cùng, dò xét từ trên xuống dưới hồi lâu, mới hỏi: “Người Liêu tiên sinh nhắc đến trong thư chính là cô?”.
Tĩnh Uyển không biết tình hình như thế nào, cố gắng trấn tĩnh, hơi mĩm cười nói: “Tôi họ Doãn, quả thật không dám giấu, Hứa Kiến Chương là chồng chưa cưới của tôi, sư đoàn trưởng Từ nhất định là biết rất rõ mục đích tôi đến đây”. Vị sư đoàn trưởng Từ đó lại dò xét cô một lượt, bỗng nhiên đứa ngón tay lên khen ngợi: “Tiểu Hứa có con mắt nhìn, Doãn tiểu thư gan dạ sáng suốt”. Bỗng ông ta thở dài, lắc đầu nói: “Nhưng đáng tiếc, đáng tiếc”.
Ông ta liên miệng nói hai tiếng đáng tiếc, trong lòng Tĩnh Uyển lạnh đi, không kìm được hỏi: “Chẳng lẽ người bị hành hình hôm nay là…”. Ông ta nói: “Hóa ra Doãn tiểu thư đã nghe nói rồi?”. Trái tim Tĩnh Uyển chỉ chực nhảy ra ngoài, không khỏi lớn tiếng hỏi: “Vận chuyển hàng cấm tuy là trọng tội, nhưng sao có thể không xét xử mà đã giết người chứ?”. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Chuyện bên trong thật sự là một lời khó nói hết. Người bị hành hình hôm nay so với Kiến Chương, nói thẳng ra là có lai lịch hơn rất nhiều”. Tĩnh Uyển nghe thấy câu này, trong lòng bỗng chốc thở phào, cơ thể cũng yếu ớt đến mức gần như đứng không vững, trong lòng chỉ nghĩ, tạ ơn trời đất hóa ra không phải anh, hóa ra là vẫn chưa muộn.
Chỉ nghe sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư không phải người ngoài, tôi cũng nói thật. Người bị hành hình hôm nay là cháu đích tôn của Từ Trị Bình – thống chế Vọng Châu. Từ thống chế vì chuyên này mà lật mặt với Cậu Sáu, ép Cậu Sáu hạ lệnh trước mặt một thuộc cấp của chín tỉnh, tất cả người bắt được lần này đều giết hết không tha”.
Tĩnh Uyển không ngăn được cơn rùng mình. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Cậu Sáu đã nói những lời đó trước mặt mọi người, vậy chắc chắn sẽ không xoay chuyển, tôi khuyên Doãn tiểu thư về Càn Bình trước thì hơn”.
Tĩnh Uyển nghe nói người bị hành hình hôm nay là cháu của thống chế một tỉnh, đã biết hy vọng rất mong manh. Lại nghe nói Cậu Sáu hạ lệnh như thế trước mặt thuộc cấp, cô nghĩ cho dù mình là ân nhân cứu mạng của anh ta e rằng anh ta cũng không thể thu hồi mệnh lệnh, nếu không uy tín ở đâu? Anh ta là một thống soái trẻ tuổi, tuy không ít cấp dưới là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, nhưng khó đám bảo có người trong lòng thật ra không phục, anh ta vì áp chế thuộc cấp quyết không thể có chút sai sót nào. Việc này anh ta đã làm đến nước này, cũng là cưỡi lên lưng cọp, e rằng cho dù là người thân của chính mình, Cậu Sáu cũng sẽ theo luật mà làm.
Cô nghĩ trước nghĩ sau, nhưng việc đã đến nước này vẫn phải liều một phen. Do đó cô nói với sư đoàn trưởng Từ: “Tôi vẫn muốn gặp Mộ Dung tiểu thư một chút, không biết sư đoàn trưởng có tiện sắp xếp không?” Sư đoàn trưởng Từ đó được hưởng lợi không ít từ Hứa gia bao năm nay, lần này sự việc xảy ra, ông ta sớm đã muốn cứu giúp Hứa Kiến Chương, chỉ là trong lòng muốn mà không đủ khả năng thôi. Nghe cô nói muốn gặp Mộ Dung tiểu thư, việc này bản thân có thể giúp được, ông ta lập tức vui vẻ đồng ý, nói: “Cơ hội thì sẵn có, để chúc mừng sinh nhật ba mươi tuổi của tam tiểu thư, Đào gia tổ chức tiệc mời khách mấy ngày liền, khách khứa rất đông, tôi sẽ đưa cô vào, cũng không để ý đến đâu”.
Tĩnh Uyển cảm ơn, sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư thân gái yếu ớt, lại có thể vạn dặm đến cứu, tôi là bạn của Kiến Chương, chẳng lẽ không nên góp chút sức mọn sao?”. Tĩnh Uyển thấy ông ta tuy là người thô lỗ, nhưng tính cách thẳng thắn, sẵn lòng giúp đỡ lúc hoạn nạn, trong lòng cô thầm cảm kích.
Đào Đoan Nhân vô đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong Thừa Quân, hoa viên lớn nhất trong phủ và tòa lầu xây bằng gạch đỏ mới được tu sửa rất bắt mắt, xa xa đã nhìn thấy. Tĩnh Uyển thấy trên một nửa con phố trước Đào phủ xe đã đỗ kín, đông như trẩy hội, khí thế phi thường. Sư đoàn trưởng Từ bảo Từ phu nhân đi cùng, hai vợ chồng dẫn cô vào Đào Phủ. Khách nam đều được tiếp đãi ở bên ngoài, Từ phu nhân dẫn Tĩnh Uyển vào sân trong, hóa ra bên trong còn có phòng khách rất hoành tráng, trước phòng rực rỡ gấm hoa, bày những chậu hoa đương mùa như thược dược và mẫu đơn… đều nở những bông to, rực rỡ đua sắc trên nền lá xanh mướt.
Trong phòng khách toàn là khách nữ, đều là các thiếu phu nhân, tiểu thư cao quý, váy áo họ mặc còn đua nhau khoe sắc hơn cả hoa trong phòng khách, trước cửa phòng khách có một sân khấu nhỏ, trên sân khấu diễn viên đang hát ê a, dưới sân khấu, các phu nhân, tiểu thư người thì xem kịch, người thì nói chuyện, cười nói tíu tít, kèm theo tiếng đàn sáo trên sâu khấu réo rắt. Tĩnh Uyển chứng kiến sự phồn hoa đến mức này, tuy sinh ra, lớn lên trong sự phú quý, nhưng cô vẫn cảm thấy xa xỉ khó nói nên lời. Từ phu nhân thấy cô nhìn lên sân khấu, liền cười với cô, hỏi: “Doãn tiểu thư cũng thích nghe kịch sao? Hôm nay tiết mục áp chót là Hạnh ân và Giấc ngủ xuân của diễn viên nôi tiếng Kỷ Ngọc My, kịch của ông chủ Kỷ là đệ nhất thiên hạ, bình thường không diễn tại nhà”. Tĩnh Uyển trả lời ầm ừ một đôi câu, Từ phu nhân liền đưa cô xuyên qua phòng khách, lại vào một sân vườn nữa, sân vườn đó trồng mấy cây ngô đồng, con đường đá nho uốn lượn dưới bóng tán cây. Bà đưa Tĩnh Uyển men theo con đường đó đi qua hòn non bộ, tiếng cười nói đàn sáo phía trước nhạt nhòa dần đi, giờ mới nghe thấy tiếng ồn ào từ căn nhà phía sau.
Từ phu nhân chưa đi vào phòng đã cười nói: “Nhân vật chính đâu? Người đến chúc mừng sinh nhật đến rồi này”. Người đánh bài trong nhà đều quay đầu lại nhìn bà Từ, hóa ra người ngồi ghế đầu tiên, trên người mặc chiếc áo gấm rất đẹp, tóc vấn kiểu Như Ý, một phụ nữ kiểu xưa xinh đẹp chính là Mộ Dung tam tiểu thư, cô gọi Từ phu nhân một tiếng “chị họ”, cười nói: “Cô gái chị họ đưa đến là ai thế, thật xinh đẹp”. Tĩnh Uyển giờ mới thoải mái gọi: “Tam tiểu thư”, lại tự giới thiệu: “Tôi họ Doãn, tam tiểu thư cứ gọi tôi là Tĩnh Uyển”. Cô ấy lấy ra một chiếc hộp nhỏ, nói: “Sinh nhật tam tiểu thư, tôi chuẩn bị trước chút quá nhỏ, mong tiểu thư không chê”.
Mộ Dung tam tiểu thư thấy thái độ của cô khiêm tốn nhã nhặn, nói chuyện lại thoải mái, không biết vì sao cảm thấy khá vui vẻ, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo quá rồi”. Cô ấy bảo người hầu nhận quà, lại kêu Từ phu nhân và Tĩnh Uyên đánh bài. Tĩnh Uyên từ chối qua loa rồi ngồi cùng đánh tám vòng. Cô vốn ngồi phía trên Mộ Dung tam tiểu thư, cô đến chuẩn bị trước, lại cố gắng đoán ý qua sắc mặt và lời nói, so với những quân bài mình không hợp cạ, Mộ Dung tam tiểu thư cần quân nào, cô liền đánh quân đó, hết tám vòng rồi lại đánh tám vòng, Mộ Dung tam tiểu thư đã thắng hơn hai ngàn đồng. Từ phu nhân bên cạnh giúp Mộ Dung tam tiểu thư xem bài, tươi cười như hoa, nói: “Tam tiểu thư may mắn thật, trước khi mở tiệc đã thắng một sô kha khá rồi phải không, e rằng tám vòng này đánh không hết đã phải mở tiệc rồi”. Mộ Dung tam tiểu thư nói: “Hôm nay là ngày chính, Cậu Sáu đã nói là sẽ đến, đợi cậu ấy đến mới bắt đầu”.
Tĩnh Uyển nghe thấy vậy, cười hỏi: “Cậu Sáu có đến sao? Nói ra tôi và Cậu Sáu từng có duyên gặp mặt, không biết Cậu Sáu còn nhớ hay không?”. Vừa nói, cô vừa làm như vô ý, tiện tay lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra xem giờ. Mộ Dung tam tiểu thư tinh mắt, đã nhận ra ngay đó là chiếc đồng hồ Mộ Dung Thần đặt làm riêng cho Mộ Dung Phong vào lần sinh nhật hai mươi tuổi của anh, chỉ không biết vì sao nó lại ở trên tay người phụ nữ này. Nghĩ lại một chút, cô đoán chắc là được cậu em phong lưu này tặng làm kỷ niệm rồi. Vị Doãn tiểu thư tướng mạo xuất chúng như vậy, chẳng trách ngay cả chiếc đồng hồ này nó cũng tặng cô ấy. Trong lòng suy nghĩ, vị Doãn tiểu thư này thua mình nhiều tiền như vậy, hóa ra là có chủ ý. Cô đã quen với việc này, tuy thầm buồn cười nhưng cũng không vạch trần chỉ nói: “Mấy hôm trước tôi còn nói với chị cả, Cậu Sáu nhà chúng ta cũng sắp theo kịp mấy minh tinh điện ảnh rồi”. Tĩnh Uyển nghe cô nói một câu không mặn không nhạt như thế, cũng không tiếp lời, chỉ cười thật tươi.
Mộ Dung tam tiểu thư thắng cô không ít tiền, trong lòng nghĩ đây vốn là chuyện thuận nước xuôi thuyền, hơn nữa Mộ Dung Phong xưa nay lại có tật xấu này, bản thân cô thay người ta làm mối cũng không phải là lần đầu. Vừa tính toán trong lòng vừa đánh bài, đợi đến lúc bên ngoài giục mở tiệc, cô mới đứng dậy đi ra.
Bữa tiệc này Tĩnh Uyển cứ thấp thỏm, ăn cũng không yên, tuy là bào ngư vi cá cũng chỉ thấy nhạt như nước ốc. Phòng trên vốn là tiệc cơ động (), dùng bữa xong rời đến phòng sau dùng tra, kịch mới dừng, lại có mấy diễn viên lên thuyết thư (), đang rất náo nhiệt, bỗng nhiên một cô bé dáng vẻ nhanh nhẹn đi lên, nói nhỏ với cô: “Doãn tiểu thư, tam tiểu thư chúng tôi mời cô đến phòng sau dùng trà”. Tim cô nhảy lên, cô đứng dậy liền theo người hầu đó ra phía sau, đi qua một cánh cửa màu đỏ nhỏ, bên trong là một căn phòng vô cùng yên tĩnh, trước phòng trồng vài cây hoa lê, lúc này lá đã sum suê đầy cành.
() Tiệc cơ động: Ai đến trước thì ăn trước, đến sau ăn sau (ND)
() Thuyết thư: Loại hình biểu diễn các loại khí khúc như binh thư, bình thoại, đàn từ… (ND)
Người hầu mở cửa ra, nói nhỏ: “Tiểu thư đợi ở đây một lát”. Tĩnh Uyển nhìn căn phòng đó, tuy bố trí kiểu cũ nhưng cũng rất nhã nhặn. Trong phòng bày một bộ đồ dùng bằng gỗ tư đàn kiểu đời Minh rất tinh xảo. Cô ngồi trên ghế đợi một lát, nghe a hoàn đó đã đi rất xa, xung quanh yên lặng không tiếng động, từ xa lờ mờ truyền đến chút âm thanh tiệc tùng náo nhiệt, khiến trong phòng càng trở nên yên tĩnh hơn. Bỗng nhiên nghe thấy bên ngoài phòng truyền đến tiếng giày da, tim cô đập thình thịch, người cũng bất giác đứng lên, cô vốn rất to gan, đến lúc này lại bỗng trở nên sợ hãi, nghe thấy tiếng bước chân càng ngày càng gần liền nấp sau tấm rèm màu xanh nước biển.
Người đó đi thẳng vào phòng, gọi hai tiếng “Ngọc My”, hỏi: “Ngọc My, có phải em không, đừng trốn nữa”. Cô nghe thấy giọng nói của một chàng trai trẻ, không biết có phải là Mộ Dung Phong không, trái tim chỉ chực nhảy ra khỏi lồng ngực, cô đứng yên đó không động đậy. Lại nghe thấy người đó nói: “Được rồi, đừng đùa nữa, mau ra đi. Khó khăn lắm anh mới thoát thân để đến được, lát nữa họ không thấy anh lại đến tìm đấy”.
Tĩnh Uyển rối loạn, chốc lát trong đầu có vô số ý nghĩ, chỉ nghe thấy người đó nói: “Em còn không ra, anh phải đi rồi đấy”. Cô chần chứ không nhúc nhích, chỉ nghe anh nói: “Ngọc My, em thật sự không ra, vậy anh đi thật đây”. Một lúc sau, liền nghe thấy tiếng bước chân xa dần, xung quanh lại trở nên yên ắng, người đó đi thật rồi. Cô không biết vì sao thở phào một tiếng, chầm chậm bước ra khỏi chiếc rèm, thấy trong phòng không có ai, trong lòng cô rối như tơ vò, không biết phải làm thế nào.
Chính trong giây phút tim đập loạn nhịp đó, bỗng có người ôm eo cô từ phía sau, cô giật mình hoảng hốt, đầu óc quay cuồng, bị người khác đè lên chiếc giường nhỏ, hơi thở ấm ấm phả vào tai, cảm giác vừa mềm vừa ngứa đó khiến cô vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Lại nghe thấy giọng nói của người đó kề sát bên cạnh, hóa ra người đó chỉ giả vờ bỏ đi, lúc này bất ngờ đè cô xuống, cười lớn nói: “Đồ láu lỉnh, em cứ nghịch ngợm như vậy, hôm nay anh nhất định phải cho em biết tay”. Trên người anh có mùi hương bạc hà thoang thoảng, pha trộn mùi đàn ông lạ lẫm, còn cả mùi khói thuốc súng nhàn nhạt xộc vào mũi, cô ra sức vùng vẫy, một tay anh đè cô xuống, một tay xô mái tóc rối của cô, đang muốn hôn lên môi cô thì nhìn rõ mặt cô, anh không kìm được sững sờ.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Tĩnh Uyển cẩn thận nghĩ lại một lượt từ đầu dến cuối, thay bộ quần áo, đến phòng nói với mẹ: “Con đi thăm bác Hứa một lát”. Doãn phu nhân gật đầu nói: “Nên qua đó xem xem, khuyên bà ấy đừng quá sốt ruột”. Liền gọi xe trong nhà đưa Tĩnh Uyển đến Hứa gia.
Hứa gia cũng là căn nhà lớn kiểu cũ, giờ đã xế hiều, ánh mặt trời cuối xuân nghiêng nghiêng chiếu xuống tường, không khỏi có phần tiêu điều. Hứa phu nhân nghe người làm báo lại, sớm đã ra ngoài đón từ xa, trong phòng đã bật đèn, bà mặc một chiếc sườn xám lụa nhàu Hồ Châu màu xanh sẫm, nổi bật dưới ánh đèn vàng, vẻ mặt trông càng mệt mỏi, vàng vọt hơn. Tĩnh Uyển thấy vậy lòng càng đau buồn. Hứa phu nhân đi mấy bước, kéo tay cô chỉ gọi một tiếng “Tĩnh Uyển”. Dáng vẻ đó lại giống như sắp rớt nước mắt. Tĩnh Uyển thật sự sợ bà khóc, khi ấy bản thân cô cũng sẽ không kiềm chế được khóc lớn, gượng gọi một tiếng “Bác gái”, rồi đỡ tay bà ngồi xuống ghế sofa.
Hứa phu nhân lấy ra chiếc khăn tay lau nước mắt, chỉ nói: “Thế này sao được chứ? Kiến Chương vừa xảy ra chuyện, chẳng khác gì trời sụp xuống”. Tĩnh Uyển nói: “Bác đừng quá lo lắng, giữ gìn sức khỏe quan trọng hơn, chuyện của Kiến Chương cũng chỉ là phải tốn chút tiền mà thôi, không biết bác có biết bây giờ Kiến Chương có những người bạn nào còn có thể giúp được không ạ?”. Hứa phu nhân nói: “Chuyện bên ngoài bác không hiểu nhiều, e rằng chỉ có ông Liêu biết”. Tĩnh Uyển liền hỏi: “Có thể mời Liêu tiên sinh đến đây nói chuyện được không ạ?”. Hứa phu nhân sớm đã hồn bay phách lạc, thấy sắc mặt cô trấn tĩnh, trong lòng mới dần dần được yên tâm một chút, nghe cô nói vậy liền lập tức sai người đi mời.
Vị Liêu tiên sinh đó là nhân viên thu chi lâu năm của Hứa gia, từng cùng Hứa Kiến Chương làm rất nhiều việc, nghe nói Hứa phu nhân mời, ông liền lập tức đến ngay. Tĩnh Uyển thường ngày cũng có quen biết ông, gọi ông một tiếng “chú Liêu”, nói “Chú Liêu, trước mắt phải nhờ chú nghĩ thật kỹ, Kiến Chương còn bạn bè nào ở trong Thừa quân có thể giúp đỡ được không?”. Liêu tiên sinh chần chừ một lát nói: “Việc lần này liên lụy rất lớn, mấy người tôi biết đều đã không giúp được rồi”. Tĩnh Uyển hỏi: “Vật có cách nào khác không? Ví dụ không phải là trực tiếp tìm người giúp đỡ, chỉ là tìm cách gặp mặt Cậu Sáu, có cách nào không?”.
Liêu tiên sinh nghe vậy, giật bắn mình, lấy mũ trên đầu xuống hoài nghi nói: “Tìm gặp Cậu Sáu – đấy không phải chuyện đơn giản, cậu ta là thống soái Thừa quân, là Tuần duyệt sứ (*) của chin tỉnh, muốn gặp mặt cậu ta đâu phải dễ dàng. Cho dù gặp được rồi, cũng có ích gì chứ?”.
(*) Tuần duyệt sứ: Thời kỳ quân phiệt Bắc Dương, gọi người quản lý hai tỉnh trở lên là Tuần duyệt sứ.
Tĩnh Uyển nói: “Cha cháu có một người bạn, có chút giao hảo với Cậu Sáu, có thể nhờ cậy được, chỉ là nhiều năm không gặp, bây giờ Cậu Sáu quyền cao chức trọng, ngồi ở ngôi cao, sợ rằng không dễ gặp, nếu có thể gặp mặt nhờ vả chút tình cũ, biết đâu có thể có hiệu quả”.
Lưu tiên sinh nghe thấy cô bình tĩnh như thế, cân nhắc nói: “Muốn gặp Cậu Sáu quả thật không có cách nào, nhưng có một cửa không biết có được hay không?”. Tĩnh Uyển nói vội: “Mong chú nói rõ”. Hứa gia vốn có quan hệ khá tốt với một vị sư đoàn trưởng họ Từ của Thừa quân, mà vị sư đoàn trưởng họ Từ này chính là em họ của Đào Đoan Nhân, anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong. Liêu tiên sinh thành thật nói: “Tìm vị sư đoàn trưởng Từ đó giúp đỡ, có lẽ có thể gặp được tam tiểu thư nhà Mộ Dung”. Tĩnh Uyển lặng lẽ gật gật đầu, Liêu tiên sinh lại nói: “Nghe nói Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, các tiểu thư đều không được phép hỏi chuyện bên ngoài, chỉ e gặp được Mộ Dung tiểu thư cũng vô ích”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói với Liêu tiên sinh: “Trước mắt cũng chỉ có nước này thôi. Có thể nhờ chú viết một bức thư cho sư đoàn trưởng Từ, giới thiệu người bạn đó của cha cháu, mong ông ấy giúp đỡ từ bên trong, để người bạn đó của cha cháu có thể gặp mặt. Mộ Dung tiểu thư”. Liêu tiên sinh đương nhiên đồng ý. Hứa phu nhân lập tức sai người đem bút nghiên đến, Liêu tiên sinh viết một bức thư dài, nói rõ quan hệ lợi hại, rồi mới đưa cho Tĩnh Uyển.
Hứa phu nhân mắt ngấn lệ nhìn cô, hỏi: “Người bạn đó của lệnh tôn thật sự có thể giúp đỡ sao?”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói: “Thật ra cũng chẳng chắc chắn bao nhiêu, nhưng người đó nhất định sẽ cố hết sức giúp chúng ta”.
Tĩnh Uyển về đến nhà trời đã muộn, Doãn phu nhân thấy dáng vẻ cô vội vã, liền gọi cô lại hỏi: “Con ăn cơm chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Con ăn cơm với bác Hứa gia rồi, bác ấy trông thật đáng thương, thật sự là ăn không nổi”. Doãn phu nhân khẽ than một tiếng nói: “Con cũng đừng quá lo lắng, cha con đã nghĩ cách rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Ngày mai con đi tìm bạn học của con, cha cậu ấy vốn qua lại mật thiết với người của Thừa quân, biết đâu có thể có cửa”. Doãn phu nhân gật gật đầu, nói: “Chúng ta có bệnh phải cầu tứ phương”. Tĩnh Uyển không biết vì sao, gọi nhỏ một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nhìn cô với vẻ yêu thương vô hạn, bà nói: “Con xem con kìa, chỉ vất vả mộ tngày, đã lo lắng đến tiều tụy”. Tĩnh Uyển không kìm được xoa mặt, gượng cười nói: “Mẹ, con đi ngủ trước đây, sáng sớm ngày mai dậy còn phải đi tìm người bạn học đó nữa”.
Sáng sớm hôm sau, Tĩnh Uyển đi ô tô ra ngoài, Doãn phu nhân ở nhà, không biết vì sao tâm trạng bất an, bà chỉ nghĩ là vì đang lo lắng chuyện của Kiến Chương. Đợi đến trưa, lái xe ô tô quay lại, nhưng không thấy Tĩnh Uyển đâu. Lái xe nói: “Đại tiểu thư bảo tôi đợi cô ấy ở cửa, đợi đến tận bây giờ, tôi tưởng đại tiểu thư đã thuê xe về rồi”. Doãn phu nhân nghe vậy, vừa sốt ruột vừa lo lắng, vội gọi điện kể với Doãn Sở Phàn, bà lại nghĩ có lẽ là ở chỗ bạn học, bà gọi điện hỏi hết người này đến người khác, họ đều nói cô khong đến chỗ mình. Đến lúc trời đã tối, Tĩnh Uyển vẫn chưa quay về, vợ chồng họ Doãn lòng như lửa đốt, đến phòng con gái xem, thiếu mấy bộ quần áo, trên bàn trang điểm lại đặt một bức thư. Doãn phu nhân xem xong, gần như ngất đi, Doãn Sở Phàn bình tĩnh hơn một chút, bàn tay cầm tẩu thuốc run run, ông vội vàng gọi điện cho người quen ở ngân hàng, quả nhiên sáng sớm nay Tĩnh Uyển đã rút một khoản tiền lớn, vợ chồng họ Doãn thấy sự việc quá đột ngột, hối hận không kịp.
Tối đó trăng rất đep, Tĩnh Uyển nằm ở giường mềm trên tàu, rèm cửa sổ không kéo kín, qua một khe hở hẹp, cô ngắm vầng trăng khuyết đó, trên bầu trời tối ánh trăng hơi đỏ, giống như có ai dùng móng tay cấu một vết, để lại một vết nho nhỏ nhàn nhạt. Tàu đi rất nhanh, giữa khoảng tranh tối tranh sáng mảng trăng khuyết ấy luôn ở nơi đó, giống như chạy theo đoàn tàu vậy. Tâm trạng cô lên xuống không yên, dứt khoát ngồi dậy lấy chiếc đồng hồ quả quýt từ trong túi áo ra, cẩn thận tìm kiếm chữ khắc trên mặt đồng hồ. Cảm giác tinh tế truyền từ đầu ngón tay đến tận trong đáy tim, “Bái Lâm” – nếu thật sự là anh, vậy có lẽ cô có hy vọng, dẫu sao anh cũng nợ cô một ân tình.
Trong lòng hơi yên tâm, cô lại ngủ tiếp, ánh trăng tối đến mức gần chuyển sang màu đỏ sẫm, từ trên gối nhìn lên, nó giống một vệt son trên tách thủy tinh, nhòe đi như sắp tan ra, và cô lại ngủ thiếp đi.
Vừa ra khỏi ga Thừa Châu, cô mới cảm thấy bầu không khí là lạ. Cô thân gái một mình, đành thuê một chiếc xe kéo đến nhà trọ, trên đường đi cô hỏi phu kéo xe: “Sao hôm nay trên đường nhiều cảnh vệ thế, xảy ra chuyện gì rồi sao?”. Phu kéo xe đáp: “Người ta đổ xô đi xem hành hình phạm nhân đấy”. Không biết vì sao tim cô đập loạn nhịp, hỏi: “Là phạm nhân gì?”. Phu kéo xe đó nói: “Là người vận chuyển hàng cấm trái phép”. Cô gần như muốn ngừng thở, thất thần mấy giây liền, mới lắc đầu thật mạnh, hỏi: “Chỉ là vận chuyển hàng cấm trái phép thôi, sao có thể xử nặng như thế chứ?”. Phu kéo xe đó đáp: “Cái đó cũng không rõ”.
Cô đến nhà trọ, không kịp tắm rửa liền thuê một chiếc ô tô đến phủ của sư đoàn trưởng Từ, may mà trời còn sơm vị sư đoàn trường đó vẫn chưa ra ngoài, người coi cửa để cô đợi ở phòng khách, người hầu đưa thư của Liêu tiên sinh vào, không lâu sau sư đoàn trưởng Từ đích thân đi ra. Vừa thấy Tĩnh Uyển, đương nhiên ông ta kinh ngạc vô cùng, dò xét từ trên xuống dưới hồi lâu, mới hỏi: “Người Liêu tiên sinh nhắc đến trong thư chính là cô?”.
Tĩnh Uyển không biết tình hình như thế nào, cố gắng trấn tĩnh, hơi mĩm cười nói: “Tôi họ Doãn, quả thật không dám giấu, Hứa Kiến Chương là chồng chưa cưới của tôi, sư đoàn trưởng Từ nhất định là biết rất rõ mục đích tôi đến đây”. Vị sư đoàn trưởng Từ đó lại dò xét cô một lượt, bỗng nhiên đứa ngón tay lên khen ngợi: “Tiểu Hứa có con mắt nhìn, Doãn tiểu thư gan dạ sáng suốt”. Bỗng ông ta thở dài, lắc đầu nói: “Nhưng đáng tiếc, đáng tiếc”.
Ông ta liên miệng nói hai tiếng đáng tiếc, trong lòng Tĩnh Uyển lạnh đi, không kìm được hỏi: “Chẳng lẽ người bị hành hình hôm nay là…”. Ông ta nói: “Hóa ra Doãn tiểu thư đã nghe nói rồi?”. Trái tim Tĩnh Uyển chỉ chực nhảy ra ngoài, không khỏi lớn tiếng hỏi: “Vận chuyển hàng cấm tuy là trọng tội, nhưng sao có thể không xét xử mà đã giết người chứ?”. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Chuyện bên trong thật sự là một lời khó nói hết. Người bị hành hình hôm nay so với Kiến Chương, nói thẳng ra là có lai lịch hơn rất nhiều”. Tĩnh Uyển nghe thấy câu này, trong lòng bỗng chốc thở phào, cơ thể cũng yếu ớt đến mức gần như đứng không vững, trong lòng chỉ nghĩ, tạ ơn trời đất hóa ra không phải anh, hóa ra là vẫn chưa muộn.
Chỉ nghe sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư không phải người ngoài, tôi cũng nói thật. Người bị hành hình hôm nay là cháu đích tôn của Từ Trị Bình – thống chế Vọng Châu. Từ thống chế vì chuyên này mà lật mặt với Cậu Sáu, ép Cậu Sáu hạ lệnh trước mặt một thuộc cấp của chín tỉnh, tất cả người bắt được lần này đều giết hết không tha”.
Tĩnh Uyển không ngăn được cơn rùng mình. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Cậu Sáu đã nói những lời đó trước mặt mọi người, vậy chắc chắn sẽ không xoay chuyển, tôi khuyên Doãn tiểu thư về Càn Bình trước thì hơn”.
Tĩnh Uyển nghe nói người bị hành hình hôm nay là cháu của thống chế một tỉnh, đã biết hy vọng rất mong manh. Lại nghe nói Cậu Sáu hạ lệnh như thế trước mặt thuộc cấp, cô nghĩ cho dù mình là ân nhân cứu mạng của anh ta e rằng anh ta cũng không thể thu hồi mệnh lệnh, nếu không uy tín ở đâu? Anh ta là một thống soái trẻ tuổi, tuy không ít cấp dưới là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, nhưng khó đám bảo có người trong lòng thật ra không phục, anh ta vì áp chế thuộc cấp quyết không thể có chút sai sót nào. Việc này anh ta đã làm đến nước này, cũng là cưỡi lên lưng cọp, e rằng cho dù là người thân của chính mình, Cậu Sáu cũng sẽ theo luật mà làm.
Cô nghĩ trước nghĩ sau, nhưng việc đã đến nước này vẫn phải liều một phen. Do đó cô nói với sư đoàn trưởng Từ: “Tôi vẫn muốn gặp Mộ Dung tiểu thư một chút, không biết sư đoàn trưởng có tiện sắp xếp không?” Sư đoàn trưởng Từ đó được hưởng lợi không ít từ Hứa gia bao năm nay, lần này sự việc xảy ra, ông ta sớm đã muốn cứu giúp Hứa Kiến Chương, chỉ là trong lòng muốn mà không đủ khả năng thôi. Nghe cô nói muốn gặp Mộ Dung tiểu thư, việc này bản thân có thể giúp được, ông ta lập tức vui vẻ đồng ý, nói: “Cơ hội thì sẵn có, để chúc mừng sinh nhật ba mươi tuổi của tam tiểu thư, Đào gia tổ chức tiệc mời khách mấy ngày liền, khách khứa rất đông, tôi sẽ đưa cô vào, cũng không để ý đến đâu”.
Tĩnh Uyển cảm ơn, sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư thân gái yếu ớt, lại có thể vạn dặm đến cứu, tôi là bạn của Kiến Chương, chẳng lẽ không nên góp chút sức mọn sao?”. Tĩnh Uyển thấy ông ta tuy là người thô lỗ, nhưng tính cách thẳng thắn, sẵn lòng giúp đỡ lúc hoạn nạn, trong lòng cô thầm cảm kích.
Đào Đoan Nhân vô đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong Thừa Quân, hoa viên lớn nhất trong phủ và tòa lầu xây bằng gạch đỏ mới được tu sửa rất bắt mắt, xa xa đã nhìn thấy. Tĩnh Uyển thấy trên một nửa con phố trước Đào phủ xe đã đỗ kín, đông như trẩy hội, khí thế phi thường. Sư đoàn trưởng Từ bảo Từ phu nhân đi cùng, hai vợ chồng dẫn cô vào Đào Phủ. Khách nam đều được tiếp đãi ở bên ngoài, Từ phu nhân dẫn Tĩnh Uyển vào sân trong, hóa ra bên trong còn có phòng khách rất hoành tráng, trước phòng rực rỡ gấm hoa, bày những chậu hoa đương mùa như thược dược và mẫu đơn… đều nở những bông to, rực rỡ đua sắc trên nền lá xanh mướt.
Trong phòng khách toàn là khách nữ, đều là các thiếu phu nhân, tiểu thư cao quý, váy áo họ mặc còn đua nhau khoe sắc hơn cả hoa trong phòng khách, trước cửa phòng khách có một sân khấu nhỏ, trên sân khấu diễn viên đang hát ê a, dưới sân khấu, các phu nhân, tiểu thư người thì xem kịch, người thì nói chuyện, cười nói tíu tít, kèm theo tiếng đàn sáo trên sâu khấu réo rắt. Tĩnh Uyển chứng kiến sự phồn hoa đến mức này, tuy sinh ra, lớn lên trong sự phú quý, nhưng cô vẫn cảm thấy xa xỉ khó nói nên lời. Từ phu nhân thấy cô nhìn lên sân khấu, liền cười với cô, hỏi: “Doãn tiểu thư cũng thích nghe kịch sao? Hôm nay tiết mục áp chót là Hạnh ân và Giấc ngủ xuân của diễn viên nôi tiếng Kỷ Ngọc My, kịch của ông chủ Kỷ là đệ nhất thiên hạ, bình thường không diễn tại nhà”. Tĩnh Uyển trả lời ầm ừ một đôi câu, Từ phu nhân liền đưa cô xuyên qua phòng khách, lại vào một sân vườn nữa, sân vườn đó trồng mấy cây ngô đồng, con đường đá nho uốn lượn dưới bóng tán cây. Bà đưa Tĩnh Uyển men theo con đường đó đi qua hòn non bộ, tiếng cười nói đàn sáo phía trước nhạt nhòa dần đi, giờ mới nghe thấy tiếng ồn ào từ căn nhà phía sau.
Từ phu nhân chưa đi vào phòng đã cười nói: “Nhân vật chính đâu? Người đến chúc mừng sinh nhật đến rồi này”. Người đánh bài trong nhà đều quay đầu lại nhìn bà Từ, hóa ra người ngồi ghế đầu tiên, trên người mặc chiếc áo gấm rất đẹp, tóc vấn kiểu Như Ý, một phụ nữ kiểu xưa xinh đẹp chính là Mộ Dung tam tiểu thư, cô gọi Từ phu nhân một tiếng “chị họ”, cười nói: “Cô gái chị họ đưa đến là ai thế, thật xinh đẹp”. Tĩnh Uyển giờ mới thoải mái gọi: “Tam tiểu thư”, lại tự giới thiệu: “Tôi họ Doãn, tam tiểu thư cứ gọi tôi là Tĩnh Uyển”. Cô ấy lấy ra một chiếc hộp nhỏ, nói: “Sinh nhật tam tiểu thư, tôi chuẩn bị trước chút quá nhỏ, mong tiểu thư không chê”.
Mộ Dung tam tiểu thư thấy thái độ của cô khiêm tốn nhã nhặn, nói chuyện lại thoải mái, không biết vì sao cảm thấy khá vui vẻ, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo quá rồi”. Cô ấy bảo người hầu nhận quà, lại kêu Từ phu nhân và Tĩnh Uyên đánh bài. Tĩnh Uyên từ chối qua loa rồi ngồi cùng đánh tám vòng. Cô vốn ngồi phía trên Mộ Dung tam tiểu thư, cô đến chuẩn bị trước, lại cố gắng đoán ý qua sắc mặt và lời nói, so với những quân bài mình không hợp cạ, Mộ Dung tam tiểu thư cần quân nào, cô liền đánh quân đó, hết tám vòng rồi lại đánh tám vòng, Mộ Dung tam tiểu thư đã thắng hơn hai ngàn đồng. Từ phu nhân bên cạnh giúp Mộ Dung tam tiểu thư xem bài, tươi cười như hoa, nói: “Tam tiểu thư may mắn thật, trước khi mở tiệc đã thắng một sô kha khá rồi phải không, e rằng tám vòng này đánh không hết đã phải mở tiệc rồi”. Mộ Dung tam tiểu thư nói: “Hôm nay là ngày chính, Cậu Sáu đã nói là sẽ đến, đợi cậu ấy đến mới bắt đầu”.
Tĩnh Uyển nghe thấy vậy, cười hỏi: “Cậu Sáu có đến sao? Nói ra tôi và Cậu Sáu từng có duyên gặp mặt, không biết Cậu Sáu còn nhớ hay không?”. Vừa nói, cô vừa làm như vô ý, tiện tay lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra xem giờ. Mộ Dung tam tiểu thư tinh mắt, đã nhận ra ngay đó là chiếc đồng hồ Mộ Dung Thần đặt làm riêng cho Mộ Dung Phong vào lần sinh nhật hai mươi tuổi của anh, chỉ không biết vì sao nó lại ở trên tay người phụ nữ này. Nghĩ lại một chút, cô đoán chắc là được cậu em phong lưu này tặng làm kỷ niệm rồi. Vị Doãn tiểu thư tướng mạo xuất chúng như vậy, chẳng trách ngay cả chiếc đồng hồ này nó cũng tặng cô ấy. Trong lòng suy nghĩ, vị Doãn tiểu thư này thua mình nhiều tiền như vậy, hóa ra là có chủ ý. Cô đã quen với việc này, tuy thầm buồn cười nhưng cũng không vạch trần chỉ nói: “Mấy hôm trước tôi còn nói với chị cả, Cậu Sáu nhà chúng ta cũng sắp theo kịp mấy minh tinh điện ảnh rồi”. Tĩnh Uyển nghe cô nói một câu không mặn không nhạt như thế, cũng không tiếp lời, chỉ cười thật tươi.
Mộ Dung tam tiểu thư thắng cô không ít tiền, trong lòng nghĩ đây vốn là chuyện thuận nước xuôi thuyền, hơn nữa Mộ Dung Phong xưa nay lại có tật xấu này, bản thân cô thay người ta làm mối cũng không phải là lần đầu. Vừa tính toán trong lòng vừa đánh bài, đợi đến lúc bên ngoài giục mở tiệc, cô mới đứng dậy đi ra.
Bữa tiệc này Tĩnh Uyển cứ thấp thỏm, ăn cũng không yên, tuy là bào ngư vi cá cũng chỉ thấy nhạt như nước ốc. Phòng trên vốn là tiệc cơ động (*), dùng bữa xong rời đến phòng sau dùng tra, kịch mới dừng, lại có mấy diễn viên lên thuyết thư (**), đang rất náo nhiệt, bỗng nhiên một cô bé dáng vẻ nhanh nhẹn đi lên, nói nhỏ với cô: “Doãn tiểu thư, tam tiểu thư chúng tôi mời cô đến phòng sau dùng trà”. Tim cô nhảy lên, cô đứng dậy liền theo người hầu đó ra phía sau, đi qua một cánh cửa màu đỏ nhỏ, bên trong là một căn phòng vô cùng yên tĩnh, trước phòng trồng vài cây hoa lê, lúc này lá đã sum suê đầy cành.
(*) Tiệc cơ động: Ai đến trước thì ăn trước, đến sau ăn sau (ND)
(**) Thuyết thư: Loại hình biểu diễn các loại khí khúc như binh thư, bình thoại, đàn từ… (ND)
Người hầu mở cửa ra, nói nhỏ: “Tiểu thư đợi ở đây một lát”. Tĩnh Uyển nhìn căn phòng đó, tuy bố trí kiểu cũ nhưng cũng rất nhã nhặn. Trong phòng bày một bộ đồ dùng bằng gỗ tư đàn kiểu đời Minh rất tinh xảo. Cô ngồi trên ghế đợi một lát, nghe a hoàn đó đã đi rất xa, xung quanh yên lặng không tiếng động, từ xa lờ mờ truyền đến chút âm thanh tiệc tùng náo nhiệt, khiến trong phòng càng trở nên yên tĩnh hơn. Bỗng nhiên nghe thấy bên ngoài phòng truyền đến tiếng giày da, tim cô đập thình thịch, người cũng bất giác đứng lên, cô vốn rất to gan, đến lúc này lại bỗng trở nên sợ hãi, nghe thấy tiếng bước chân càng ngày càng gần liền nấp sau tấm rèm màu xanh nước biển.
Người đó đi thẳng vào phòng, gọi hai tiếng “Ngọc My”, hỏi: “Ngọc My, có phải em không, đừng trốn nữa”. Cô nghe thấy giọng nói của một chàng trai trẻ, không biết có phải là Mộ Dung Phong không, trái tim chỉ chực nhảy ra khỏi lồng ngực, cô đứng yên đó không động đậy. Lại nghe thấy người đó nói: “Được rồi, đừng đùa nữa, mau ra đi. Khó khăn lắm anh mới thoát thân để đến được, lát nữa họ không thấy anh lại đến tìm đấy”.
Tĩnh Uyển rối loạn, chốc lát trong đầu có vô số ý nghĩ, chỉ nghe thấy người đó nói: “Em còn không ra, anh phải đi rồi đấy”. Cô chần chứ không nhúc nhích, chỉ nghe anh nói: “Ngọc My, em thật sự không ra, vậy anh đi thật đây”. Một lúc sau, liền nghe thấy tiếng bước chân xa dần, xung quanh lại trở nên yên ắng, người đó đi thật rồi. Cô không biết vì sao thở phào một tiếng, chầm chậm bước ra khỏi chiếc rèm, thấy trong phòng không có ai, trong lòng cô rối như tơ vò, không biết phải làm thế nào.
Chính trong giây phút tim đập loạn nhịp đó, bỗng có người ôm eo cô từ phía sau, cô giật mình hoảng hốt, đầu óc quay cuồng, bị người khác đè lên chiếc giường nhỏ, hơi thở ấm ấm phả vào tai, cảm giác vừa mềm vừa ngứa đó khiến cô vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Lại nghe thấy giọng nói của người đó kề sát bên cạnh, hóa ra người đó chỉ giả vờ bỏ đi, lúc này bất ngờ đè cô xuống, cười lớn nói: “Đồ láu lỉnh, em cứ nghịch ngợm như vậy, hôm nay anh nhất định phải cho em biết tay”. Trên người anh có mùi hương bạc hà thoang thoảng, pha trộn mùi đàn ông lạ lẫm, còn cả mùi khói thuốc súng nhàn nhạt xộc vào mũi, cô ra sức vùng vẫy, một tay anh đè cô xuống, một tay xô mái tóc rối của cô, đang muốn hôn lên môi cô thì nhìn rõ mặt cô, anh không kìm được sững sờ.