Con phố dài phủ đầy tuyết không còn một bóng người trong đêm, Ân Trục Ly đạp tuyết, khẽ ngâm nga khúc hát, đi đến Tây Giao. Phía tây thành Trường An có ngọn núi là nghĩa trang của mấy đại gia tộc, tổ lăng của Đường gia ở trong đó.
Từ sau khi Đường Ẩn si mê Ân Bích Ngô đến thần hồn điên đảo, Đường gia và Ân gia vẫn không hòa thuận. Khi đó, sĩ nông công thương thì thương nhân là không có địa vị nhất, người đọc sách tự cho bản thân rất cao, khó tránh khỏi việc khinh thường. Đường Ẩn lại vì một nữ nhân mà bỏ lỡ cả đời, thậm chí chịu khổ đến mức chết bất ngờ, mối quan hệ sơ sài của Đường gia và Ân gia kết thúc hẳn.
Ân Trục Ly càng nghĩ càng khó chịu. Sau khi Đường Ẩn chết, nàng chưa bao giờ đến bái tế. Nàng không muốn tin rằng nam tử thanh như lãng nguyệt kia đã thực sự trở thành cát bụi. Có điều, tối nay, dù trời giá lạnh, hơi thở cũng đông lại, nàng lại muốn tìm một nơi nào đó thanh tĩnh một chút.
Nàng uống rượu rất nhiều. Lúc ở tửu quán, lúc đứng lên định trả tiền vò Nữ nhi hồng mới nhớ ra mình đã đưa hết bạc cho Thẩm Đình Diêu, bản thân có thể xem như rỗng túi. Vì thế, nàng xấu hổ quá, đành dùng chiếc áo lông cừu đổi lấy hai vò từ Thiệu Hưng.
Chưởng quầy dù không biết nhìn đồ da nhưng dù thế nào cũng nhận ra rằng chiếc áo này có thể đổi đến cả trăm ngàn vò rượu. Dê béo ít gặp, hắn hớn hở đồng ý.
Ân Trục Ly ôm rượu lên ngựa. Bên trong nàng vẫn mặc một bộ áo kép làm từ gấm Vân Nam Yên Hà; gió lạnh thổi qua, nàng co rụt cổ.
Một đêm gió tuyết thế này, người canh lăng đã đi ngủ từ sớm. Nghĩa trang của thế gia khí phái bất phàm nhưng dù thế nào cũng chỉ là nơi mai táng. Ân Trục Ly nhún mình nhảy qua những bức tường cao. Tuyết trơn lầy lội, nàng trượt ngã, may vò rượu không sao.
Có hàng trăm căn phòng trong mộ đá. Ban đêm tối mờ mịt, nàng phải sờ soạng những tấm văn bia, sờ hơn mười khối thì tay đã tê lạnh không nhận diện được chữ viết trên bia nữa nhưng hai vò rượu được ủ vẫn còn rất ấm.
Tuyết dần ngừng rơi. Chân nàng đạp trên băng loạt soạt, mộ bia không nói một lời. Nàng đi đến đoạn giữa thì không sờ văn bia nữa: “Sư phụ? Sư phụ ở đâu?”
Lời nói tan ra trong gió lạnh, dường như cũng ngưng tụ lại thành băng. Ân Trục Ly biết mình không tìm thấy hắn, bèn tìm bừa một bia mộ, ngồi xuống trước bia, thì thào: “Dù sao mấy người cũng chả khác gì nhau, ta tìm đại một khối cũng được.”
Nàng tựa vào tấm bia, nước lạnh ngấm ướt áo kép, lạnh đến thấu xương. Vò rượu bên người vẫn giữ được chút hơi ấm. Nàng vỗ vỗ bia mộ, thân thiết nói: “Sư phụ có muốn uống không? Hôm nay không mang nhiều lắm, uống một chút thôi, đừng ham rượu.”
Nói xong, nàng đổ một ít rượu ra đất, tế tuyết đọng.
Cũng không biết bao lâu sau, tuyết trên bia tan ướt sũng áo. Nàng ỷ say chẳng sợ lạnh, khép hờ mắt lim dim. Đột nhiên có tiếng bước chân khiến mấy con chim giật mình. Ân Trục Ly nấp sau bia đá, một tay ôm vò rượu, một tay ôm Hoàng Tuyền Dẫn, dĩ bất biến ứng vạn biến.
Tuyết đọng xốp, tàn băng vỡ vụn. Người nọ dường như cũng vỗ tấm bia, xác định chủ nhân ngôi mộ. Ân Trục Ly thấy ngộ – thì ra không chỉ có mình là đồ đệ bất hiếu.
Một lát sau, có tiếng bước chân lại gần. Ân Trục Ly thấy đau đầu. Điều làm nàng nhức đầu hơn chính là người sau lên tiếng: “Vương thượng, vó ngựa, bước chân đều rất mới. Cần thần phái người vào lục soát không?”
“Không cần làm phiền tổ tiên. Lui ra hết đi.”
Ân Trục Ly vốn rất quen thuộc với giọng nói lạnh lùng như băng tuyết này. Không ngờ Thẩm Đình Giao lại đến đây. Nàng vẫn dựa lên tấm bia đá. Thẩm Đình Giao vỗ từng khối bia. Nói về việc ngụy trang, hắn kiên nhẫn và cẩn thận hơn Ân Trục Ly nhiều lắm. Hắn kiên nhẫn sờ từng tấm bia, xác định đợi Ân Trục Ly đi ra cần nửa canh giờ.
Ân Trục Ly lẳng lặng nhìn hắn dịch chuyển càng lúc càng gần. Cái áo khoác chồn tía kia – con chồn là nàng săn, trang phục là bút tích của Vân Thiên. Khi đó hắn nhu thuận đáng yêu, khi ôm vào lòng y hệt con mèo. Bây giờ hắn lộ nguyên hình, nàng cũng không thấy buồn hay giận gì – mọi người đều diễn trò vì những mục đích khác nhau.
Không ai cao thượng hơn ai, không ai đê tiện hơn ai. Nàng giận hắn làm gì?
Nàng thật sự khâm phục sức chịu đựng của hắn. Hơn mười năm, Thẩm Đình Giao chấp nhận bị nàng sai phái, còn nàng thì chẳng biết gì hết. Một người tỏ ra yếu thế là bình thường, nhưng một người có thể tỏ ra yếu thế đến mười năm thì cũng hơi biến thái.
Thẩm Đình Giao xoa bia một hồi, cuối cùng cũng phát hiện ra tấm bia nàng dựa vào. Hắn nhắm mắt, nhẹ nhàng nói: “Ân Trục Ly!”
Ân Trục Ly quyết định giả ngu, lập tức cầm vò rượu đi ra: “Trời lạnh thế này mà bệ hạ cũng tới rồi. Đến đây, uống một ngụm.”
Thẩm Đình Giao không tiếp rượu. Có quá nhiều chuyện, hắn không biết hỏi cái gì trước, đảnh nói: “Đây là mộ Đường Hiến, tự Mục Chi, nàng dựa vào làm gì?”
Ân Trục Ly thở dài: “Nhiều quá, ta không biết sư phụ ở đâu.”
Thẩm Đình Giao ngồi xổm xuống, giờ mới phát hiện ra nàng chỉ mặc bộ áo kép gấm Vân Nam, cả người ướt sũng. Hắn bực mình, cả đầu lẫn tim như bị kim đâm: “Chết tiệt, mặc thế này mà dám ra đường!”
Ân Trục Ly ngẩng đầu nhìn hắn. Lớp tuyết đọng khúc xạ ánh sáng mờ mờ, ma mị. Thẩm Đình Giao khoác áo khoác lông chồn lên vai nàng. Ân Trục Ly lắc đầu. Nàng đã uống hơn nửa vò, hơi choáng váng: “Trời lạnh lắm, ngươi không chịu được đâu.”
Thẩm Đình Giao kệ nàng, cúi xuống vỗ về tấm bia đá.
Ân Trục Ly không muốn đứng dậy, vẫn cứ tiếp tục uống từng ngụm từng ngụm rượu một. Bình thường hắn vốn ốm yếu, giờ lại mặc kệ gió thổi. Nàng nằm trên đất một lát; đêm không trăng không sao, gió lạnh thấu xương, người con gái thân thể lạnh buốt.
Không lâu sau, Thẩm Đình Giao ôm nàng, đi về phía bên trái một lúc, đến trước một tòa thạch mộ. Hắn cũng không khách khí, kéo áo choàng khoác chung với nàng. Hai người ngồi dưới tấm bia đá tránh tuyết.
Ân Trục Ly quẹt ngón cái lên mặt bia, nhìn thấy hai chữ quen thuộc, ngẫm nghĩ mà chịu không nổi. Nàng nghĩ đến rất nhiều tuyệt bút bi tráng hoặc thê lương, thậm chí cả “Bài điếu cúng tổ tiên đã bị lãng quên” với câu thơ tám cây gậy tre cũng nghĩ đến. Nàng tự an ủi rằng ai rồi cũng phải chết, buồn mà làm gì.
Nàng nghiêng đầu, áp má lên tấm bia đá lạnh như băng, người kia cười như trăng trong trong ký ức: “Đừng tựa vào đây, cảm lạnh đấy.”
Bỗng nhiên, nàng hiểu được sự tuyệt vọng của hắn. Chắc chắn năm sau, nàng sẽ không còn nhớ rõ gương mặt hắn, quên dần đi đôi mắt hắn, không nhớ được giọng nói hắn, quên rằng hắn đã từng dùng ngón tay vuốt ve hai má mình.
Nàng suy nghĩ đến thất thần. Bất chợt giọng nói trong trẻo mà lạnh lùng của Thẩm Đình Giao vang lên bên tai: “Muốn thương tâm thì thương tâm cho đã đi, hôm nay nàng thả Thẩm Đình Diêu, ngày mai ta chỉ có thể thiêu sống nàng.”
Gió tuyết làm phai nhạt ân oán. Ân Trục Ly ngà ngà say, nghe thấy thế thì vươn tay sờ soạng bên dưới hắn, thầm thì: “Hiếp sống vẫn hơn bị giết rồi hiếp.”
…
Thẩm Đình Giao xốc nàng lên, giận điên người: “Ngươi nghĩ trẫm không dám làm gì ngươi thật à?”
Ân Trục Ly thấy hắn giận thật cũng vẫn bình tĩnh hét lại: “Bệ hạ đã có ngôi cửu ngũ, Đại Huỳnh giờ là của ngài, có ai ngài không làm gì được?”
Thẩm Đình Giao hừ lạnh, nói nhạt nhẽo nhưng lại lạnh lùng đến thấu xương: “Đây là lần cuối, Ân Trục Ly… Nếu có lần sau,” – hắn ghé sát vào tai nàng, thản nhiên – “Trẫm sẽ sai người đào hắn lên, cho ngươi nhìn bộ dạng của hắn. Ngươi có tưởng tượng được giờ Đường Ẩn ra sao không? Thi thể chia lìa, cốt nhục hư thối, nước từ xác chết rỉ ra, giòi bọ lúc nhúc…”
Hắn bình thản, thốt lên từng chữ từng chữ khoét sâu vào tim người. Ân Trục Ly đưa tay nắm cây sáo nhỏ bên hông. Hơn mười năm, đây là lần đầu tiên nàng nổi sát khí với hắn. Tay phải nắm thả nhiều lần, máu trong miệng tanh ngọt, nàng vẫn cười với hắn: “Thì sao hả bệ hạ? Dù người đó hóa thành phù sa cát bụi, ta vẫn yêu chàng như thế.”
Thẩm Đình Giao ngẩn ra. Hắn cũng thấy hơi hối hận vì đã bức nàng đến như thế. Trước kia nàng không hề thừa nhận tình cảm với Đường Ẩn. Hắn buông tay, Ân Trục Ly vẫn không muốn giảng hòa: “Ta thương người thì có gì sai? Ta muốn ở bên người thì có gì sai? Chẳng nhẽ trong đời này, ngươi chưa bao giờ muốn ghi nhớ điều gì? Chẳng nhẽ trong đời này, người chưa từng không đành lòng buông tay một thứ tình cảm nào?”
Thẩm Đình Giao hơi giật mình, kéo tay nàng: “Quay về!”
Ân Trục Ly không cảm kích, cũng không đi xuống bậc thang cùng hắn: “Ta biết Phó Triêu Anh sẽ không để ta yên. Ta biết nhiều như thế, sao bọn họ có thể bỏ qua được? Ngươi muốn ổn định bọn họ cần gì phải tốn công sức như vậy, chém đầu ta luôn có phải hơn không?”
Thẩm Đình Giao vẫn khoác áo lông chồn lên người nàng, ôm nàng từ dưới bia ra. Mặt đất trơn trượt, hai người đi từng bước nhỏ một. Trương Thanh dẫn theo mười tùy tùng canh giữa ngoài lăng. Thẩm Đình Giao ôm nàng lên xe ngựa, buông màn xe. Hắn đưa tay nắm áo kép Ân Trục Ly đang mặc, cởi bộ đồ ướt sũng ra, trầm giọng nói: “Ta không thích hiếp xác chết, đầu ngươi cứ để trên cổ ngươi đã.”
Hắn đã cởi áo khoác đưa nàng, giờ người cũng bị lạnh. Ân Trục Ly ôm lò sưởi ấm nóng, để mặc hắn bế. Đệm giường da hổ rất ấm áp, hắn đè tay lên mạch của nàng, đôi mắt đen tuyền lấp lánh dịu dàng, lệ khí cũng giảm vài phần: “Trẫm đã mệnh Lễ bộ chuẩn bị đại lễ sắc phong Hoàng hậu, phong hào Văn Hú.”
Trước tiên hắn phải nói chuyện này cho rõ ràng, sau khi triền miên chắc chắn sẽ không nói nổi. Ân Trục Ly cười lạnh: “Sau đó?”
Khi nói lời này, lòng nàng cuộn sóng mãnh liệt. Thẩm Đình Giao nuốt nước bọt, bắt đầu tự cởi đồ. Hoàng đế nạp phi là chuyện hiển nhiên, sao hắn chột dạ nhỉ?
“Trẫm phải nạp Khúc Lăng Ngọc làm Huệ phi.”
Ân Trục Ly vẫn cười lạnh: “Bệ hạ hình như rất giữ mặt mũi cho nô tì. Người là kẻ kế vị, không thay đổi triều đại. Khúc Lăng Ngọc giờ làm Thái hậu, có huynh tử đệ cập thì cũng đâu ra cái đạo lý chị dâu làm thiếp thế này? Bệ hạ sao không nghe lời Hà thái phi, lập nàng làm hậu luôn?”
Thẩm Đình Giao cúi người hôn lên đôi môi đanh đá đó, nói qua quýt: “Tổ huấn Ân gia không cho làm thiếp còn gì?”
Ân Trục Ly cười xong thì lạnh nhạt nói: “Thảo dân vốn là thương nhân, cũng không có lòng trèo cao. Ngươi để ý đến tình nghĩa huynh đệ mười năm thì cho ta một bức hưu thư. Sau này gặp lại, ta cũng thừa nhận ân tình này của ngươi!”
Thẩm Đình Giao bất ngờ đưa tay bóp cổ nàng, dưới thân lại không kiên nhẫn được, cứ tiến vào. Hắn lạnh lùng nói: “Đừng có mơ!”
Nơi ấy của nàng khô khốc. Thẩm Đình Giao cũng thấy hơi bực bội: hai người cá nước thân mật ngày càng hài hòa, giờ lại loạn lên…
Có điều lòng đế vương sao có thể chỉ để ở một người? Đại Huỳnh đang thương tật đầy mình, nếu gian thương này lại làm loạn từ trên xuống thì đến bao giờ mới có thể có quốc phú dân cường?
Hắn tiếp tục công thành lược trì, chốt một câu: “Sau ngày mai, thuế thương lữ tăng một thành. Phỉ gia dụ địch thành công, miễn thuế hai thành trong vòng ba năm.”
Con phố dài phủ đầy tuyết không còn một bóng người trong đêm, Ân Trục Ly đạp tuyết, khẽ ngâm nga khúc hát, đi đến Tây Giao. Phía tây thành Trường An có ngọn núi là nghĩa trang của mấy đại gia tộc, tổ lăng của Đường gia ở trong đó.
Từ sau khi Đường Ẩn si mê Ân Bích Ngô đến thần hồn điên đảo, Đường gia và Ân gia vẫn không hòa thuận. Khi đó, sĩ nông công thương thì thương nhân là không có địa vị nhất, người đọc sách tự cho bản thân rất cao, khó tránh khỏi việc khinh thường. Đường Ẩn lại vì một nữ nhân mà bỏ lỡ cả đời, thậm chí chịu khổ đến mức chết bất ngờ, mối quan hệ sơ sài của Đường gia và Ân gia kết thúc hẳn.
Ân Trục Ly càng nghĩ càng khó chịu. Sau khi Đường Ẩn chết, nàng chưa bao giờ đến bái tế. Nàng không muốn tin rằng nam tử thanh như lãng nguyệt kia đã thực sự trở thành cát bụi. Có điều, tối nay, dù trời giá lạnh, hơi thở cũng đông lại, nàng lại muốn tìm một nơi nào đó thanh tĩnh một chút.
Nàng uống rượu rất nhiều. Lúc ở tửu quán, lúc đứng lên định trả tiền vò Nữ nhi hồng mới nhớ ra mình đã đưa hết bạc cho Thẩm Đình Diêu, bản thân có thể xem như rỗng túi. Vì thế, nàng xấu hổ quá, đành dùng chiếc áo lông cừu đổi lấy hai vò từ Thiệu Hưng.
Chưởng quầy dù không biết nhìn đồ da nhưng dù thế nào cũng nhận ra rằng chiếc áo này có thể đổi đến cả trăm ngàn vò rượu. Dê béo ít gặp, hắn hớn hở đồng ý.
Ân Trục Ly ôm rượu lên ngựa. Bên trong nàng vẫn mặc một bộ áo kép làm từ gấm Vân Nam Yên Hà; gió lạnh thổi qua, nàng co rụt cổ.
Một đêm gió tuyết thế này, người canh lăng đã đi ngủ từ sớm. Nghĩa trang của thế gia khí phái bất phàm nhưng dù thế nào cũng chỉ là nơi mai táng. Ân Trục Ly nhún mình nhảy qua những bức tường cao. Tuyết trơn lầy lội, nàng trượt ngã, may vò rượu không sao.
Có hàng trăm căn phòng trong mộ đá. Ban đêm tối mờ mịt, nàng phải sờ soạng những tấm văn bia, sờ hơn mười khối thì tay đã tê lạnh không nhận diện được chữ viết trên bia nữa nhưng hai vò rượu được ủ vẫn còn rất ấm.
Tuyết dần ngừng rơi. Chân nàng đạp trên băng loạt soạt, mộ bia không nói một lời. Nàng đi đến đoạn giữa thì không sờ văn bia nữa: “Sư phụ? Sư phụ ở đâu?”
Lời nói tan ra trong gió lạnh, dường như cũng ngưng tụ lại thành băng. Ân Trục Ly biết mình không tìm thấy hắn, bèn tìm bừa một bia mộ, ngồi xuống trước bia, thì thào: “Dù sao mấy người cũng chả khác gì nhau, ta tìm đại một khối cũng được.”
Nàng tựa vào tấm bia, nước lạnh ngấm ướt áo kép, lạnh đến thấu xương. Vò rượu bên người vẫn giữ được chút hơi ấm. Nàng vỗ vỗ bia mộ, thân thiết nói: “Sư phụ có muốn uống không? Hôm nay không mang nhiều lắm, uống một chút thôi, đừng ham rượu.”
Nói xong, nàng đổ một ít rượu ra đất, tế tuyết đọng.
Cũng không biết bao lâu sau, tuyết trên bia tan ướt sũng áo. Nàng ỷ say chẳng sợ lạnh, khép hờ mắt lim dim. Đột nhiên có tiếng bước chân khiến mấy con chim giật mình. Ân Trục Ly nấp sau bia đá, một tay ôm vò rượu, một tay ôm Hoàng Tuyền Dẫn, dĩ bất biến ứng vạn biến.
Tuyết đọng xốp, tàn băng vỡ vụn. Người nọ dường như cũng vỗ tấm bia, xác định chủ nhân ngôi mộ. Ân Trục Ly thấy ngộ – thì ra không chỉ có mình là đồ đệ bất hiếu.
Một lát sau, có tiếng bước chân lại gần. Ân Trục Ly thấy đau đầu. Điều làm nàng nhức đầu hơn chính là người sau lên tiếng: “Vương thượng, vó ngựa, bước chân đều rất mới. Cần thần phái người vào lục soát không?”
“Không cần làm phiền tổ tiên. Lui ra hết đi.”
Ân Trục Ly vốn rất quen thuộc với giọng nói lạnh lùng như băng tuyết này. Không ngờ Thẩm Đình Giao lại đến đây. Nàng vẫn dựa lên tấm bia đá. Thẩm Đình Giao vỗ từng khối bia. Nói về việc ngụy trang, hắn kiên nhẫn và cẩn thận hơn Ân Trục Ly nhiều lắm. Hắn kiên nhẫn sờ từng tấm bia, xác định đợi Ân Trục Ly đi ra cần nửa canh giờ.
Ân Trục Ly lẳng lặng nhìn hắn dịch chuyển càng lúc càng gần. Cái áo khoác chồn tía kia – con chồn là nàng săn, trang phục là bút tích của Vân Thiên. Khi đó hắn nhu thuận đáng yêu, khi ôm vào lòng y hệt con mèo. Bây giờ hắn lộ nguyên hình, nàng cũng không thấy buồn hay giận gì – mọi người đều diễn trò vì những mục đích khác nhau.
Không ai cao thượng hơn ai, không ai đê tiện hơn ai. Nàng giận hắn làm gì?
Nàng thật sự khâm phục sức chịu đựng của hắn. Hơn mười năm, Thẩm Đình Giao chấp nhận bị nàng sai phái, còn nàng thì chẳng biết gì hết. Một người tỏ ra yếu thế là bình thường, nhưng một người có thể tỏ ra yếu thế đến mười năm thì cũng hơi biến thái.
Thẩm Đình Giao xoa bia một hồi, cuối cùng cũng phát hiện ra tấm bia nàng dựa vào. Hắn nhắm mắt, nhẹ nhàng nói: “Ân Trục Ly!”
Ân Trục Ly quyết định giả ngu, lập tức cầm vò rượu đi ra: “Trời lạnh thế này mà bệ hạ cũng tới rồi. Đến đây, uống một ngụm.”
Thẩm Đình Giao không tiếp rượu. Có quá nhiều chuyện, hắn không biết hỏi cái gì trước, đảnh nói: “Đây là mộ Đường Hiến, tự Mục Chi, nàng dựa vào làm gì?”
Ân Trục Ly thở dài: “Nhiều quá, ta không biết sư phụ ở đâu.”
Thẩm Đình Giao ngồi xổm xuống, giờ mới phát hiện ra nàng chỉ mặc bộ áo kép gấm Vân Nam, cả người ướt sũng. Hắn bực mình, cả đầu lẫn tim như bị kim đâm: “Chết tiệt, mặc thế này mà dám ra đường!”
Ân Trục Ly ngẩng đầu nhìn hắn. Lớp tuyết đọng khúc xạ ánh sáng mờ mờ, ma mị. Thẩm Đình Giao khoác áo khoác lông chồn lên vai nàng. Ân Trục Ly lắc đầu. Nàng đã uống hơn nửa vò, hơi choáng váng: “Trời lạnh lắm, ngươi không chịu được đâu.”
Thẩm Đình Giao kệ nàng, cúi xuống vỗ về tấm bia đá.
Ân Trục Ly không muốn đứng dậy, vẫn cứ tiếp tục uống từng ngụm từng ngụm rượu một. Bình thường hắn vốn ốm yếu, giờ lại mặc kệ gió thổi. Nàng nằm trên đất một lát; đêm không trăng không sao, gió lạnh thấu xương, người con gái thân thể lạnh buốt.
Không lâu sau, Thẩm Đình Giao ôm nàng, đi về phía bên trái một lúc, đến trước một tòa thạch mộ. Hắn cũng không khách khí, kéo áo choàng khoác chung với nàng. Hai người ngồi dưới tấm bia đá tránh tuyết.
Ân Trục Ly quẹt ngón cái lên mặt bia, nhìn thấy hai chữ quen thuộc, ngẫm nghĩ mà chịu không nổi. Nàng nghĩ đến rất nhiều tuyệt bút bi tráng hoặc thê lương, thậm chí cả “Bài điếu cúng tổ tiên đã bị lãng quên” với câu thơ tám cây gậy tre cũng nghĩ đến. Nàng tự an ủi rằng ai rồi cũng phải chết, buồn mà làm gì.
Nàng nghiêng đầu, áp má lên tấm bia đá lạnh như băng, người kia cười như trăng trong trong ký ức: “Đừng tựa vào đây, cảm lạnh đấy.”
Bỗng nhiên, nàng hiểu được sự tuyệt vọng của hắn. Chắc chắn năm sau, nàng sẽ không còn nhớ rõ gương mặt hắn, quên dần đi đôi mắt hắn, không nhớ được giọng nói hắn, quên rằng hắn đã từng dùng ngón tay vuốt ve hai má mình.
Nàng suy nghĩ đến thất thần. Bất chợt giọng nói trong trẻo mà lạnh lùng của Thẩm Đình Giao vang lên bên tai: “Muốn thương tâm thì thương tâm cho đã đi, hôm nay nàng thả Thẩm Đình Diêu, ngày mai ta chỉ có thể thiêu sống nàng.”
Gió tuyết làm phai nhạt ân oán. Ân Trục Ly ngà ngà say, nghe thấy thế thì vươn tay sờ soạng bên dưới hắn, thầm thì: “Hiếp sống vẫn hơn bị giết rồi hiếp.”
…
Thẩm Đình Giao xốc nàng lên, giận điên người: “Ngươi nghĩ trẫm không dám làm gì ngươi thật à?”
Ân Trục Ly thấy hắn giận thật cũng vẫn bình tĩnh hét lại: “Bệ hạ đã có ngôi cửu ngũ, Đại Huỳnh giờ là của ngài, có ai ngài không làm gì được?”
Thẩm Đình Giao hừ lạnh, nói nhạt nhẽo nhưng lại lạnh lùng đến thấu xương: “Đây là lần cuối, Ân Trục Ly… Nếu có lần sau,” – hắn ghé sát vào tai nàng, thản nhiên – “Trẫm sẽ sai người đào hắn lên, cho ngươi nhìn bộ dạng của hắn. Ngươi có tưởng tượng được giờ Đường Ẩn ra sao không? Thi thể chia lìa, cốt nhục hư thối, nước từ xác chết rỉ ra, giòi bọ lúc nhúc…”
Hắn bình thản, thốt lên từng chữ từng chữ khoét sâu vào tim người. Ân Trục Ly đưa tay nắm cây sáo nhỏ bên hông. Hơn mười năm, đây là lần đầu tiên nàng nổi sát khí với hắn. Tay phải nắm thả nhiều lần, máu trong miệng tanh ngọt, nàng vẫn cười với hắn: “Thì sao hả bệ hạ? Dù người đó hóa thành phù sa cát bụi, ta vẫn yêu chàng như thế.”
Thẩm Đình Giao ngẩn ra. Hắn cũng thấy hơi hối hận vì đã bức nàng đến như thế. Trước kia nàng không hề thừa nhận tình cảm với Đường Ẩn. Hắn buông tay, Ân Trục Ly vẫn không muốn giảng hòa: “Ta thương người thì có gì sai? Ta muốn ở bên người thì có gì sai? Chẳng nhẽ trong đời này, ngươi chưa bao giờ muốn ghi nhớ điều gì? Chẳng nhẽ trong đời này, người chưa từng không đành lòng buông tay một thứ tình cảm nào?”
Thẩm Đình Giao hơi giật mình, kéo tay nàng: “Quay về!”
Ân Trục Ly không cảm kích, cũng không đi xuống bậc thang cùng hắn: “Ta biết Phó Triêu Anh sẽ không để ta yên. Ta biết nhiều như thế, sao bọn họ có thể bỏ qua được? Ngươi muốn ổn định bọn họ cần gì phải tốn công sức như vậy, chém đầu ta luôn có phải hơn không?”
Thẩm Đình Giao vẫn khoác áo lông chồn lên người nàng, ôm nàng từ dưới bia ra. Mặt đất trơn trượt, hai người đi từng bước nhỏ một. Trương Thanh dẫn theo mười tùy tùng canh giữa ngoài lăng. Thẩm Đình Giao ôm nàng lên xe ngựa, buông màn xe. Hắn đưa tay nắm áo kép Ân Trục Ly đang mặc, cởi bộ đồ ướt sũng ra, trầm giọng nói: “Ta không thích hiếp xác chết, đầu ngươi cứ để trên cổ ngươi đã.”
Hắn đã cởi áo khoác đưa nàng, giờ người cũng bị lạnh. Ân Trục Ly ôm lò sưởi ấm nóng, để mặc hắn bế. Đệm giường da hổ rất ấm áp, hắn đè tay lên mạch của nàng, đôi mắt đen tuyền lấp lánh dịu dàng, lệ khí cũng giảm vài phần: “Trẫm đã mệnh Lễ bộ chuẩn bị đại lễ sắc phong Hoàng hậu, phong hào Văn Hú.”
Trước tiên hắn phải nói chuyện này cho rõ ràng, sau khi triền miên chắc chắn sẽ không nói nổi. Ân Trục Ly cười lạnh: “Sau đó?”
Khi nói lời này, lòng nàng cuộn sóng mãnh liệt. Thẩm Đình Giao nuốt nước bọt, bắt đầu tự cởi đồ. Hoàng đế nạp phi là chuyện hiển nhiên, sao hắn chột dạ nhỉ?
“Trẫm phải nạp Khúc Lăng Ngọc làm Huệ phi.”
Ân Trục Ly vẫn cười lạnh: “Bệ hạ hình như rất giữ mặt mũi cho nô tì. Người là kẻ kế vị, không thay đổi triều đại. Khúc Lăng Ngọc giờ làm Thái hậu, có huynh tử đệ cập thì cũng đâu ra cái đạo lý chị dâu làm thiếp thế này? Bệ hạ sao không nghe lời Hà thái phi, lập nàng làm hậu luôn?”
Thẩm Đình Giao cúi người hôn lên đôi môi đanh đá đó, nói qua quýt: “Tổ huấn Ân gia không cho làm thiếp còn gì?”
Ân Trục Ly cười xong thì lạnh nhạt nói: “Thảo dân vốn là thương nhân, cũng không có lòng trèo cao. Ngươi để ý đến tình nghĩa huynh đệ mười năm thì cho ta một bức hưu thư. Sau này gặp lại, ta cũng thừa nhận ân tình này của ngươi!”
Thẩm Đình Giao bất ngờ đưa tay bóp cổ nàng, dưới thân lại không kiên nhẫn được, cứ tiến vào. Hắn lạnh lùng nói: “Đừng có mơ!”
Nơi ấy của nàng khô khốc. Thẩm Đình Giao cũng thấy hơi bực bội: hai người cá nước thân mật ngày càng hài hòa, giờ lại loạn lên…
Có điều lòng đế vương sao có thể chỉ để ở một người? Đại Huỳnh đang thương tật đầy mình, nếu gian thương này lại làm loạn từ trên xuống thì đến bao giờ mới có thể có quốc phú dân cường?
Hắn tiếp tục công thành lược trì, chốt một câu: “Sau ngày mai, thuế thương lữ tăng một thành. Phỉ gia dụ địch thành công, miễn thuế hai thành trong vòng ba năm.”