Cái ổ riêng của Liễu Dật. Từ nhỏ đến lớn, dưới sự quản giáo chặt chẽ của cha, y đã cố sống cố chết xin được cái vườn hoa nhỏ này. Đây là thế giới của Liễu Dật, ở đây y không phải e sợ một ai hết. Liễu Dật đặt cho tiểu ổ của mình một cái tên hết sức nhã trí, “Thiên Thượng Nhân Gian”. Hoa viên cũng thật hợp với cái tên đó, vì y đã cho mời các bậc thầy về làm vườn đến vun trồng hơn trăm loài hoa, lại nghĩ ra một cách lạ lùng là đem chôn dưới mỗi gốc hoa một cuốn danh thư - mọt sách, đúng là mọt sách. Giờ thì Liễu Dật đang ngồi bên cái bàn đá giữa hoa viên, trên mặt bàn là bốn đĩa thức ăn tinh xảo, một hồ rượu, Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất vừa chậm rãi thưởng rượu, vừa nghe cô gái đối diện dạo cổ cầm, và ngắm cô gái trước mặt đang nhảy múa. Người dạo cầm là Băng Nhi, nha hoàn của Liễu Dật. Băng Nhi tuổi vừa đôi mươi, nhan sắc mười phần tú lệ, do cha y cử sang phục dịch từ hồi y còn nhỏ. Những lúc rảnh rỗi, Liễu Dật cũng dạy Băng Nhi một vài ngón đàn, lâu dần, Băng Nhi thường đàn cho Liễu Dật nghe. Người đang nhảy múa theo tiếng đàn là Thanh Nhi, cũng là nha hoàn của Liễu Dật, cùng tuổi với Băng Nhi, yêu kiều khả ái, do cha Liễu Dật mới mua cho y vài tháng trước, nói rằng y đã lớn rồi, một nha hoàn thì không đủ, nên lại cho thêm một ả.
Cũng may là Thanh Nhi biết ca biết đàn, vừa khéo phối hợp được với Băng Nhi. “Băng Nhi nhất khúc thiên thượng lai, Thanh Nhi nhất vũ thần tiên đảo!”
Vừa dứt một bài, Liễu Dật buột miệng tán thưởng. Thập Kiệt Nhất lập tức đặt chung rượu xuống, lớn tiếng khen: “Hay, hay! Băng Nhi và Thanh Nhi quả thực càng ngày càng giỏi, càng lớn lại càng đẹp, hê hê, hê hê...!” Băng Nhi, Thanh Nhi lại gần, khom mình nói với Liễu Dật: “Đa tạ công tử khen ngợi!” Liễu Dật khẽ hớp một ngụm rượu trong chén: “Thiên Thượng Nhân Gian này của ta so với thiên giới có kém sút gì. Mỗi ngày nghe Băng Nhi tấu một khúc, xem Thanh Nhi múa một điệu, chậm rãi thưởng vài chén rượu, quả thực là cuộc sống thần tiên.” Thập Kiệt Nhất ở bên cạnh càu nhàu: “Chỉ có điều rượu ít quá, không thể uống cho thống khoái.”
Liễu Dật chẳng để ý, tiếp tục nói với hai cô gái: “Các ngươi hãy lui về nghỉ đi!” Thanh Nhi vội vàng: “Công tử, để chúng tiểu tỳ ở lại thị hầu bên cạnh người!” Liễu Dật lắc đầu, xua tay bảo: “Nghe lời ta đi, đàn hát lâu như thế rồi, các ngươi chắc cũng đã mệt lắm, mau về nghỉ đi!” Băng Nhi, Thanh Nhi thường ở bên Liễu Dật, hiểu rõ tính khí của y, bèn thấp mình thưa: “Vâng, công tử!”
rồi hai ả từ từ lui ra. Liễu Dật rót một chén rượu nhỏ, gắp một miếng thức ăn, tiếp tục khoan thai dùng bữa, nhưng vừa ăn được mấy miếng, y đã nhận thấy có gì lạ lùng. Gã Thập Kiệt Nhất này, ngày thường vốn tham ăn tục uống lắm cơ mà, sao hôm nay không **ng đũa, lại đang trầm ngâm cái gì kia? Liễu Dật hỏi: “Thập Nhất, đang nghĩ gì thế? Có phải tại rượu ít quá không, tối mình lại uống nữa nhé!”
Thập Kiệt Nhất nhìn Liễu Dật, lắc lắc đầu: “Không phải rượu đâu lão đại, là A Cửu!” “A Cửu? A Cửu? Có phải cô nương đòi ta vẽ tranh đó không?” Liễu Dật sực nhớ. Thập Kiệt Nhất vội vàng gật đầu: “Đúng, là nàng ấy. Lão đại, nàng ấy đẹp quá phải không?” Liễu Dật đặt chén rượu xuống, đứng dậy, đi quanh Thập Kiệt Nhất một vòng, hỏi: “Tiểu tử, nữ nhân xinh đẹp trong thiên hạ này rất là nhiều, ngươi hỏi ta như vậy làm gì? Có phải... nói mau, ngươi đang mưu đồ gì?” Thập Kiệt Nhất vốn tính thật thà, làm sao mà chịu được Liễu Dật nghi ngờ, vội vàng đứng ngay dậy, lao lại bên Liễu Dật: “Lão đại, đệ muốn, đệ muốn... kết giao bằng hữu với nàng ấy!”
Liễu Dật mở chiếc quạt gấp, suy nghĩ một hồi rồi nói: “Ta quên mất A Cửu đó trông như thế nào rồi! Lúc nãy không chú ý nhìn, ngươi nếu thích thì đi theo họ đi!” Thập Kiệt Nhất tỏ vẻ lúng túng: “Lão đại, lão đại, còn không hiểu đệ ư, huynh bảo đệ đánh người còn được... chứ đệ vừa trông thấy A Cửu đã tâm hoảng ý loạn, không thể nói năng gì được nữa!” Đúng lúc hai người đang nói chuyện, một gia nhân thấp bé chạy vào. Gã này vì thân hình vừa gầy vừa nhỏ nên Liễu Dật gọi là A Thử; nhưng đừng có xem thường A Thử, gã là tai mắt mà Liễu Dật lén gài vào bên cạnh Liễu Mục Tịch. Có A Thử, Liễu Dật bớt được bao nhiêu phen bị đánh mắng. Liễu Dật thấy A Thử vào, biết chắc là có chuyện, chứ bình thường thì tiểu tử này không bao giờ khinh suất chạy tới hậu hoa viên. Quả nhiên, A Thử chạy tới trước mặt Liễu Dật: “Tiểu công tử, xảy ra chuyện lớn rồi, cô nương tên gọi A Cửu đó đang nói chuyện với lão gia!”
Liễu Dật xua quạt: “Chuyện đó mà lớn gì, nói chuyện thì nói chuyện chứ!” A Thử vội giải thích: “Không phải, A Cửu đó có hoàng kim, lại có châu bảo, lại có mỹ nữ, nói là mời công tử vẽ một bức họa, bây giờ đang đàm phán với lão gia.”
Liễu Dật nghe xong kêu lớn: “Cái gì, í... tiểu nha đầu, sao lại đi tìm cha ta. Thế coi sao được!” rồi y xoay mình chạy tới đại sảnh. Đương nhiên, nếu Liễu Mục Tịch muốn Liễu Dật vẽ tranh, Liễu Dật nhất định phải vẽ, nhưng Liễu Mục Tịch căn bản không biết tiểu nha đầu này đòi y vẽ “Long Phụng Trình Tường Đồ”, nếu cha đã nhận lời, thì không thể không vẽ, nhưng vẽ thì lại phạm tội khi quân.
Còn chưa đến đại sảnh, Liễu Dật đã nghe thấy giọng A Cửu: “Liễu lão gia, ta nghĩ ông cũng nên biết giá trị của những châu báu này, nói là có giá trị liên thành kể cũng không phải là quá. Châu báu này thừa sức mua được mười tòa Liễu phủ, chỉ cần ông nhận lời bảo quý công tử vẽ một bức họa, những châu báu này sẽ thuộc về ông!”
Rất lâu không thấy Liễu Mục Tịch lên tiếng. Liễu Dật ẩn mình sau cây cột đại sảnh, cho dù không quan sát được, y cũng biết cha đang ngắm nghía những món châu bảo kia, cha là một người làm ăn, thấy nhiều thứ quý như vậy, không động tâm mới là lạ.
Cuối cùng, y nghe thấy cha ngồi trở lại ghế, nói: “A Cửu cô nương, những món châu báu này quý thật đó, ta thừa nhận, toàn bộ Liễu phủ cũng không bằng một phần mười.”
A Cửu mỉm cười: “Chỉ cần một câu của Liễu lão gia, những châu bảo này sẽ thuộc về ông hết.” Lại nghe Liễu Mục Tịch phá lên cười sảng khoái: “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo(1). Huồng hồ cô lại muốn tranh vẽ của con ta, điều này kẻ làm cha như ta thật không có quyền bắt ép.”
A Cửu nghe xong, ngữ khí tựa hồ có chút không vui: “Liễu lão gia, ông nên nghĩ cho kỹ càng, nếu ông nhận lời, những châu báu này là của ông. Ta cho rằng ông mà nhận lời, quý công tử vẽ hay không chỉ là chuyện sớm muộn.”
Liễu Mục Tịch lắc lắc đầu: “Xem ra phải mời A Cửu cô nương hồi gia, hoặc là tìm Dật nhi đến nói chuyện. Việc này ta không làm chủ được, Dật nhi đã lớn rồi, để nó tự quyết định thôi!”
A Cửu đứng lên khỏi chỗ ngồi: “Liễu lão gia quả thực là không thích tài bảo rồi. Vậy thì, Liễu lão gia xem có đánh giá được vật phẩm này không?” Nói đoạn, nàng móc từ trong bọc ra một mảnh ngọc bạch sắc. Chỉ thấy trên mảnh ngọc chạm hai con bàn long, tinh tế sinh động, trông y như thật. Một vật phẩm như vậy, thiên hạ rộng lớn thế này, người không đánh giá được nó chắc có rất nhiều.
Nhưng Liễu Mục Tịch thì biết, lão vội đứng lên, xem xét một hồi rồi cúi mình nói: “Ồ, chẳng hay A Cửu cô nương và miếng ngọc này có uyên nguyên thế nào?” Trong giọng nói đã thêm mấy phần cung kính. A Cửu thu lại mảnh ngọc, quay mình trở về chỗ ngồi: “Giờ thì, Liễu lão gia có vui lòng thâu nhận những châu bảo này không? Phải nghĩ cho kỹ, đừng làm gì để sau hối hận, Liễu lão gia ạ!”
Liễu Mục Tịch toát mồ hôi trán, không ngờ sự việc lại phức tạp đến như vậy. Nếu nhận lời, liệu Dật nhi có chịu vẽ không? Nếu từ chối, toàn gia Liễu phủ có chịu nổi cái họa diệt môn không? A Cửu cười cười, nét mặt thay đổi: “Liễu lão gia, bản cô nương không có nhiều thời gian đợi chờ. Nếu không mau trả lời, coi như Liễu lão gia đã khước từ. Ta cũng đành bẩm báo lại như vậy thôi!” Nét mặt Liễu Mục Tịch trong một thoáng lộ ra vẻ giằng xé, nghe A Cửu hối, lão vội vàng đáp: “Việc này... A Cửu cô nương, xin... xin để lão phu nghĩ một lát!”
-----------------------
(1) Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo: Người quân tử mà thích của cải thì phải kiếm nó bằng cách hợp đạo lý.
Đúng lúc ấy, một thanh âm dõng dạc vang lên: “Khỏi cần nghĩ nữa, thứ tranh cô ta muốn con không thể vẽ được!” Đằng sau Thập Kiệt Nhất, Liễu Dật sải bước đi ra. A Cửu đâu ngờ sự việc lại biến thành như vậy, Liễu Dật đột nhiên từ đâu chen vào, nàng đỏ mặt, giận dữ: “Ngươi... ngươi một mực chống đối bản cô nương phải không?” Liễu Dật xua quạt: “Không dám, không dám! Quả thực tranh cô nương muốn vẽ, Liễu mỗ không vẽ được, ta nghĩ cô nên về đi!” A Cửu càng giận: “Đồ chết bầm, ngươi lại dám ăn nói với ta như vậy, tên thư sinh vô lễ kia!” Đúng lúc đó Liễu Mục Tịch xen vào: “Dật nhi, đừng hỗn, dẫu sao A Cửu cô nương cũng là khách mà!” Liễu Dật đi đến bên A Cửu, ngắm bên trái, ngó bên phải, rồi lắc lắc đầu, cảm thán: “Ai ngờ con mắt Thập Nhất lại kém cỏi như vậy!” A Cửu trừng lớn đôi mắt hạnh, giận dữ: “Ngươi nhìn cái gì, trên mặt bản cô nương có nhọ sao?” Liễu Dật mở quạt, quay sang Liễu Mục Tịch, rồi lại nhìn A Cửu nói: “Mọi người đều không hiểu, hoặc giả có người hiểu mà làm vẻ hồ đồ, thế thì Liễu mỗ phải nói trắng ra thôi.” Đoạn y phẩy quạt, tiếp: “Liễu mỗ ta không phải là cố ý chống đối A Cửu cô nương. Thêm nữa, huynh đệ của ta còn có ý kết giao với cô. Nếu có thể giúp được, ta nhất định giúp, nhưng tranh mà cô yêu cầu, ta không vẽ được, nếu ta vẽ, là phạm tội khi quân.” Vừa nghe thấy câu đó, tất thảy đều sững người, Liễu Mục Tịch kinh nghi hỏi: “Dật nhi, nói vậy là thế nào?” Liễu Dật nhìn sang: “Cha, cha biết A Cửu cô nương bảo con vẽ gì không? Vẽ Long Phụng Trình Tường Đồ, là bức họa mấy năm trước con đem dâng lên hoàng thượng ấy. Giờ cô ta muốn con vẽ lại, nếu con vẽ thật, thì Liễu phủ chúng ta, từ trên xuống dưới chẳng còn mạng nào sống sót được nữa rồi.” Liễu Mục Tịch nghe vậy, kinh hãi thốt lên: “Ối!” Lão cảm thấy sự việc này thật kỳ quái, miếng ngọc ban nãy A Cửu đưa ra, rõ ràng là “Bàn Long Ngọc” tượng trưng cho thân phận, chỉ người trong hoàng gia mới có, bây giờ lại đòi vẽ một bức họa của hoàng gia, rốt cục là chuyện gì đây
Nét mặt Liễu Mục Tịch đầy vẻ ngạc nhiên, còn khuôn mặt A Cửu thì hết sức điềm tĩnh, nàng lạnh lùng nói: “Được lắm, Liễu Dật, châu báu liên thành của ta đưa ra mời ngươi vẽ, ngươi lại khước từ. Hãy đợi đấy! Chúng ta đi thôi!” Đoạn nàng khoát tay, dẫn các a hoàn và mỹ nữ rời khỏi Liễu phủ. Thấy A Cửu đùng đùng tức giận bỏ đi, khuôn mặt Liễu Mục Tịch càng thêm nhăn nhó: “Xem ra Liễu phủ không yên rồi. Dật nhi, A Cửu cô nương mà con vừa đắc tội đấy, nhất định có quan hệ với đương kim hoàng thượng. Cô ta vừa đưa cho cha xem Bàn Long Ngọc, vật mà phải là người được hoàng thượng sủng ái mới có được.” Liễu Dật nghe dứt, ngạc nhiên: “Cha, cha nói gì vậy? Tiểu nha đầu đó có Bàn Long Ngọc? Không phải của giả chứ? Nếu quả thực có quan hệ với hoàng thượng, việc gì phải vẽ một bức mà hoàng thượng đã có, lẽ nào tự mình không muốn sống nữa?” Liễu Mục Tịch lắc đầu: “Cái này cha cũng nghĩ mãi không thông. Xem ra sự việc trở nên phức tạp rồi, chúng ta đi bước nào hay bước đó thôi, hoàng đế và A Cửu đều đừng nên trêu vào...” Liễu Dật nghe lời cha nói, biết lão đang lo lắng sự việc gây bất lợi cho gia đình mình: “Cha, yên tâm đi, quân đến sẽ có tướng ngăn, A Cửu đến sẽ có Liễu Dật chặn. Không để cô ta làm những việc bất trắc cho Liễu phủ!” Liễu Mục Tịch ngắm Liễu Dật, gật gật đầu: “Việc này cũng đành xem con xử sự thế nào thôi. Con lui ra đi, cha phải yên tĩnh một lát, ngẫm nghĩ cho rõ ràng rốt ráo mọi sự! ” Liễu Dật ứng tiếng, gật đầu: “Vâng, thưa cha!” rồi y cùng Thập Kiệt Nhất quay lại, trở về hậu hoa viên...
Hậu hoa viên.
Cái ổ riêng của Liễu Dật. Từ nhỏ đến lớn, dưới sự quản giáo chặt chẽ của cha, y đã cố sống cố chết xin được cái vườn hoa nhỏ này. Đây là thế giới của Liễu Dật, ở đây y không phải e sợ một ai hết. Liễu Dật đặt cho tiểu ổ của mình một cái tên hết sức nhã trí, “Thiên Thượng Nhân Gian”. Hoa viên cũng thật hợp với cái tên đó, vì y đã cho mời các bậc thầy về làm vườn đến vun trồng hơn trăm loài hoa, lại nghĩ ra một cách lạ lùng là đem chôn dưới mỗi gốc hoa một cuốn danh thư - mọt sách, đúng là mọt sách. Giờ thì Liễu Dật đang ngồi bên cái bàn đá giữa hoa viên, trên mặt bàn là bốn đĩa thức ăn tinh xảo, một hồ rượu, Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất vừa chậm rãi thưởng rượu, vừa nghe cô gái đối diện dạo cổ cầm, và ngắm cô gái trước mặt đang nhảy múa. Người dạo cầm là Băng Nhi, nha hoàn của Liễu Dật. Băng Nhi tuổi vừa đôi mươi, nhan sắc mười phần tú lệ, do cha y cử sang phục dịch từ hồi y còn nhỏ. Những lúc rảnh rỗi, Liễu Dật cũng dạy Băng Nhi một vài ngón đàn, lâu dần, Băng Nhi thường đàn cho Liễu Dật nghe. Người đang nhảy múa theo tiếng đàn là Thanh Nhi, cũng là nha hoàn của Liễu Dật, cùng tuổi với Băng Nhi, yêu kiều khả ái, do cha Liễu Dật mới mua cho y vài tháng trước, nói rằng y đã lớn rồi, một nha hoàn thì không đủ, nên lại cho thêm một ả.
Cũng may là Thanh Nhi biết ca biết đàn, vừa khéo phối hợp được với Băng Nhi. “Băng Nhi nhất khúc thiên thượng lai, Thanh Nhi nhất vũ thần tiên đảo!”
Vừa dứt một bài, Liễu Dật buột miệng tán thưởng. Thập Kiệt Nhất lập tức đặt chung rượu xuống, lớn tiếng khen: “Hay, hay! Băng Nhi và Thanh Nhi quả thực càng ngày càng giỏi, càng lớn lại càng đẹp, hê hê, hê hê...!” Băng Nhi, Thanh Nhi lại gần, khom mình nói với Liễu Dật: “Đa tạ công tử khen ngợi!” Liễu Dật khẽ hớp một ngụm rượu trong chén: “Thiên Thượng Nhân Gian này của ta so với thiên giới có kém sút gì. Mỗi ngày nghe Băng Nhi tấu một khúc, xem Thanh Nhi múa một điệu, chậm rãi thưởng vài chén rượu, quả thực là cuộc sống thần tiên.” Thập Kiệt Nhất ở bên cạnh càu nhàu: “Chỉ có điều rượu ít quá, không thể uống cho thống khoái.”
Liễu Dật chẳng để ý, tiếp tục nói với hai cô gái: “Các ngươi hãy lui về nghỉ đi!” Thanh Nhi vội vàng: “Công tử, để chúng tiểu tỳ ở lại thị hầu bên cạnh người!” Liễu Dật lắc đầu, xua tay bảo: “Nghe lời ta đi, đàn hát lâu như thế rồi, các ngươi chắc cũng đã mệt lắm, mau về nghỉ đi!” Băng Nhi, Thanh Nhi thường ở bên Liễu Dật, hiểu rõ tính khí của y, bèn thấp mình thưa: “Vâng, công tử!”
rồi hai ả từ từ lui ra. Liễu Dật rót một chén rượu nhỏ, gắp một miếng thức ăn, tiếp tục khoan thai dùng bữa, nhưng vừa ăn được mấy miếng, y đã nhận thấy có gì lạ lùng. Gã Thập Kiệt Nhất này, ngày thường vốn tham ăn tục uống lắm cơ mà, sao hôm nay không ng đũa, lại đang trầm ngâm cái gì kia? Liễu Dật hỏi: “Thập Nhất, đang nghĩ gì thế? Có phải tại rượu ít quá không, tối mình lại uống nữa nhé!”
Thập Kiệt Nhất nhìn Liễu Dật, lắc lắc đầu: “Không phải rượu đâu lão đại, là A Cửu!” “A Cửu? A Cửu? Có phải cô nương đòi ta vẽ tranh đó không?” Liễu Dật sực nhớ. Thập Kiệt Nhất vội vàng gật đầu: “Đúng, là nàng ấy. Lão đại, nàng ấy đẹp quá phải không?” Liễu Dật đặt chén rượu xuống, đứng dậy, đi quanh Thập Kiệt Nhất một vòng, hỏi: “Tiểu tử, nữ nhân xinh đẹp trong thiên hạ này rất là nhiều, ngươi hỏi ta như vậy làm gì? Có phải... nói mau, ngươi đang mưu đồ gì?” Thập Kiệt Nhất vốn tính thật thà, làm sao mà chịu được Liễu Dật nghi ngờ, vội vàng đứng ngay dậy, lao lại bên Liễu Dật: “Lão đại, đệ muốn, đệ muốn... kết giao bằng hữu với nàng ấy!”
Liễu Dật mở chiếc quạt gấp, suy nghĩ một hồi rồi nói: “Ta quên mất A Cửu đó trông như thế nào rồi! Lúc nãy không chú ý nhìn, ngươi nếu thích thì đi theo họ đi!” Thập Kiệt Nhất tỏ vẻ lúng túng: “Lão đại, lão đại, còn không hiểu đệ ư, huynh bảo đệ đánh người còn được... chứ đệ vừa trông thấy A Cửu đã tâm hoảng ý loạn, không thể nói năng gì được nữa!” Đúng lúc hai người đang nói chuyện, một gia nhân thấp bé chạy vào. Gã này vì thân hình vừa gầy vừa nhỏ nên Liễu Dật gọi là A Thử; nhưng đừng có xem thường A Thử, gã là tai mắt mà Liễu Dật lén gài vào bên cạnh Liễu Mục Tịch. Có A Thử, Liễu Dật bớt được bao nhiêu phen bị đánh mắng. Liễu Dật thấy A Thử vào, biết chắc là có chuyện, chứ bình thường thì tiểu tử này không bao giờ khinh suất chạy tới hậu hoa viên. Quả nhiên, A Thử chạy tới trước mặt Liễu Dật: “Tiểu công tử, xảy ra chuyện lớn rồi, cô nương tên gọi A Cửu đó đang nói chuyện với lão gia!”
Liễu Dật xua quạt: “Chuyện đó mà lớn gì, nói chuyện thì nói chuyện chứ!” A Thử vội giải thích: “Không phải, A Cửu đó có hoàng kim, lại có châu bảo, lại có mỹ nữ, nói là mời công tử vẽ một bức họa, bây giờ đang đàm phán với lão gia.”
Liễu Dật nghe xong kêu lớn: “Cái gì, í... tiểu nha đầu, sao lại đi tìm cha ta. Thế coi sao được!” rồi y xoay mình chạy tới đại sảnh. Đương nhiên, nếu Liễu Mục Tịch muốn Liễu Dật vẽ tranh, Liễu Dật nhất định phải vẽ, nhưng Liễu Mục Tịch căn bản không biết tiểu nha đầu này đòi y vẽ “Long Phụng Trình Tường Đồ”, nếu cha đã nhận lời, thì không thể không vẽ, nhưng vẽ thì lại phạm tội khi quân.
Còn chưa đến đại sảnh, Liễu Dật đã nghe thấy giọng A Cửu: “Liễu lão gia, ta nghĩ ông cũng nên biết giá trị của những châu báu này, nói là có giá trị liên thành kể cũng không phải là quá. Châu báu này thừa sức mua được mười tòa Liễu phủ, chỉ cần ông nhận lời bảo quý công tử vẽ một bức họa, những châu báu này sẽ thuộc về ông!”
Rất lâu không thấy Liễu Mục Tịch lên tiếng. Liễu Dật ẩn mình sau cây cột đại sảnh, cho dù không quan sát được, y cũng biết cha đang ngắm nghía những món châu bảo kia, cha là một người làm ăn, thấy nhiều thứ quý như vậy, không động tâm mới là lạ.
Cuối cùng, y nghe thấy cha ngồi trở lại ghế, nói: “A Cửu cô nương, những món châu báu này quý thật đó, ta thừa nhận, toàn bộ Liễu phủ cũng không bằng một phần mười.”
A Cửu mỉm cười: “Chỉ cần một câu của Liễu lão gia, những châu bảo này sẽ thuộc về ông hết.” Lại nghe Liễu Mục Tịch phá lên cười sảng khoái: “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo(). Huồng hồ cô lại muốn tranh vẽ của con ta, điều này kẻ làm cha như ta thật không có quyền bắt ép.”
A Cửu nghe xong, ngữ khí tựa hồ có chút không vui: “Liễu lão gia, ông nên nghĩ cho kỹ càng, nếu ông nhận lời, những châu báu này là của ông. Ta cho rằng ông mà nhận lời, quý công tử vẽ hay không chỉ là chuyện sớm muộn.”
Liễu Mục Tịch lắc lắc đầu: “Xem ra phải mời A Cửu cô nương hồi gia, hoặc là tìm Dật nhi đến nói chuyện. Việc này ta không làm chủ được, Dật nhi đã lớn rồi, để nó tự quyết định thôi!”
A Cửu đứng lên khỏi chỗ ngồi: “Liễu lão gia quả thực là không thích tài bảo rồi. Vậy thì, Liễu lão gia xem có đánh giá được vật phẩm này không?” Nói đoạn, nàng móc từ trong bọc ra một mảnh ngọc bạch sắc. Chỉ thấy trên mảnh ngọc chạm hai con bàn long, tinh tế sinh động, trông y như thật. Một vật phẩm như vậy, thiên hạ rộng lớn thế này, người không đánh giá được nó chắc có rất nhiều.
Nhưng Liễu Mục Tịch thì biết, lão vội đứng lên, xem xét một hồi rồi cúi mình nói: “Ồ, chẳng hay A Cửu cô nương và miếng ngọc này có uyên nguyên thế nào?” Trong giọng nói đã thêm mấy phần cung kính. A Cửu thu lại mảnh ngọc, quay mình trở về chỗ ngồi: “Giờ thì, Liễu lão gia có vui lòng thâu nhận những châu bảo này không? Phải nghĩ cho kỹ, đừng làm gì để sau hối hận, Liễu lão gia ạ!”
Liễu Mục Tịch toát mồ hôi trán, không ngờ sự việc lại phức tạp đến như vậy. Nếu nhận lời, liệu Dật nhi có chịu vẽ không? Nếu từ chối, toàn gia Liễu phủ có chịu nổi cái họa diệt môn không? A Cửu cười cười, nét mặt thay đổi: “Liễu lão gia, bản cô nương không có nhiều thời gian đợi chờ. Nếu không mau trả lời, coi như Liễu lão gia đã khước từ. Ta cũng đành bẩm báo lại như vậy thôi!” Nét mặt Liễu Mục Tịch trong một thoáng lộ ra vẻ giằng xé, nghe A Cửu hối, lão vội vàng đáp: “Việc này... A Cửu cô nương, xin... xin để lão phu nghĩ một lát!”
-----------------------
() Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo: Người quân tử mà thích của cải thì phải kiếm nó bằng cách hợp đạo lý.
Đúng lúc ấy, một thanh âm dõng dạc vang lên: “Khỏi cần nghĩ nữa, thứ tranh cô ta muốn con không thể vẽ được!” Đằng sau Thập Kiệt Nhất, Liễu Dật sải bước đi ra. A Cửu đâu ngờ sự việc lại biến thành như vậy, Liễu Dật đột nhiên từ đâu chen vào, nàng đỏ mặt, giận dữ: “Ngươi... ngươi một mực chống đối bản cô nương phải không?” Liễu Dật xua quạt: “Không dám, không dám! Quả thực tranh cô nương muốn vẽ, Liễu mỗ không vẽ được, ta nghĩ cô nên về đi!” A Cửu càng giận: “Đồ chết bầm, ngươi lại dám ăn nói với ta như vậy, tên thư sinh vô lễ kia!” Đúng lúc đó Liễu Mục Tịch xen vào: “Dật nhi, đừng hỗn, dẫu sao A Cửu cô nương cũng là khách mà!” Liễu Dật đi đến bên A Cửu, ngắm bên trái, ngó bên phải, rồi lắc lắc đầu, cảm thán: “Ai ngờ con mắt Thập Nhất lại kém cỏi như vậy!” A Cửu trừng lớn đôi mắt hạnh, giận dữ: “Ngươi nhìn cái gì, trên mặt bản cô nương có nhọ sao?” Liễu Dật mở quạt, quay sang Liễu Mục Tịch, rồi lại nhìn A Cửu nói: “Mọi người đều không hiểu, hoặc giả có người hiểu mà làm vẻ hồ đồ, thế thì Liễu mỗ phải nói trắng ra thôi.” Đoạn y phẩy quạt, tiếp: “Liễu mỗ ta không phải là cố ý chống đối A Cửu cô nương. Thêm nữa, huynh đệ của ta còn có ý kết giao với cô. Nếu có thể giúp được, ta nhất định giúp, nhưng tranh mà cô yêu cầu, ta không vẽ được, nếu ta vẽ, là phạm tội khi quân.” Vừa nghe thấy câu đó, tất thảy đều sững người, Liễu Mục Tịch kinh nghi hỏi: “Dật nhi, nói vậy là thế nào?” Liễu Dật nhìn sang: “Cha, cha biết A Cửu cô nương bảo con vẽ gì không? Vẽ Long Phụng Trình Tường Đồ, là bức họa mấy năm trước con đem dâng lên hoàng thượng ấy. Giờ cô ta muốn con vẽ lại, nếu con vẽ thật, thì Liễu phủ chúng ta, từ trên xuống dưới chẳng còn mạng nào sống sót được nữa rồi.” Liễu Mục Tịch nghe vậy, kinh hãi thốt lên: “Ối!” Lão cảm thấy sự việc này thật kỳ quái, miếng ngọc ban nãy A Cửu đưa ra, rõ ràng là “Bàn Long Ngọc” tượng trưng cho thân phận, chỉ người trong hoàng gia mới có, bây giờ lại đòi vẽ một bức họa của hoàng gia, rốt cục là chuyện gì đây
Nét mặt Liễu Mục Tịch đầy vẻ ngạc nhiên, còn khuôn mặt A Cửu thì hết sức điềm tĩnh, nàng lạnh lùng nói: “Được lắm, Liễu Dật, châu báu liên thành của ta đưa ra mời ngươi vẽ, ngươi lại khước từ. Hãy đợi đấy! Chúng ta đi thôi!” Đoạn nàng khoát tay, dẫn các a hoàn và mỹ nữ rời khỏi Liễu phủ. Thấy A Cửu đùng đùng tức giận bỏ đi, khuôn mặt Liễu Mục Tịch càng thêm nhăn nhó: “Xem ra Liễu phủ không yên rồi. Dật nhi, A Cửu cô nương mà con vừa đắc tội đấy, nhất định có quan hệ với đương kim hoàng thượng. Cô ta vừa đưa cho cha xem Bàn Long Ngọc, vật mà phải là người được hoàng thượng sủng ái mới có được.” Liễu Dật nghe dứt, ngạc nhiên: “Cha, cha nói gì vậy? Tiểu nha đầu đó có Bàn Long Ngọc? Không phải của giả chứ? Nếu quả thực có quan hệ với hoàng thượng, việc gì phải vẽ một bức mà hoàng thượng đã có, lẽ nào tự mình không muốn sống nữa?” Liễu Mục Tịch lắc đầu: “Cái này cha cũng nghĩ mãi không thông. Xem ra sự việc trở nên phức tạp rồi, chúng ta đi bước nào hay bước đó thôi, hoàng đế và A Cửu đều đừng nên trêu vào...” Liễu Dật nghe lời cha nói, biết lão đang lo lắng sự việc gây bất lợi cho gia đình mình: “Cha, yên tâm đi, quân đến sẽ có tướng ngăn, A Cửu đến sẽ có Liễu Dật chặn. Không để cô ta làm những việc bất trắc cho Liễu phủ!” Liễu Mục Tịch ngắm Liễu Dật, gật gật đầu: “Việc này cũng đành xem con xử sự thế nào thôi. Con lui ra đi, cha phải yên tĩnh một lát, ngẫm nghĩ cho rõ ràng rốt ráo mọi sự! ” Liễu Dật ứng tiếng, gật đầu: “Vâng, thưa cha!” rồi y cùng Thập Kiệt Nhất quay lại, trở về hậu hoa viên...
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Hậu hoa viên.
Cái ổ riêng của Liễu Dật. Từ nhỏ đến lớn, dưới sự quản giáo chặt chẽ của cha, y đã cố sống cố chết xin được cái vườn hoa nhỏ này. Đây là thế giới của Liễu Dật, ở đây y không phải e sợ một ai hết. Liễu Dật đặt cho tiểu ổ của mình một cái tên hết sức nhã trí, “Thiên Thượng Nhân Gian”. Hoa viên cũng thật hợp với cái tên đó, vì y đã cho mời các bậc thầy về làm vườn đến vun trồng hơn trăm loài hoa, lại nghĩ ra một cách lạ lùng là đem chôn dưới mỗi gốc hoa một cuốn danh thư - mọt sách, đúng là mọt sách. Giờ thì Liễu Dật đang ngồi bên cái bàn đá giữa hoa viên, trên mặt bàn là bốn đĩa thức ăn tinh xảo, một hồ rượu, Liễu Dật và Thập Kiệt Nhất vừa chậm rãi thưởng rượu, vừa nghe cô gái đối diện dạo cổ cầm, và ngắm cô gái trước mặt đang nhảy múa. Người dạo cầm là Băng Nhi, nha hoàn của Liễu Dật. Băng Nhi tuổi vừa đôi mươi, nhan sắc mười phần tú lệ, do cha y cử sang phục dịch từ hồi y còn nhỏ. Những lúc rảnh rỗi, Liễu Dật cũng dạy Băng Nhi một vài ngón đàn, lâu dần, Băng Nhi thường đàn cho Liễu Dật nghe. Người đang nhảy múa theo tiếng đàn là Thanh Nhi, cũng là nha hoàn của Liễu Dật, cùng tuổi với Băng Nhi, yêu kiều khả ái, do cha Liễu Dật mới mua cho y vài tháng trước, nói rằng y đã lớn rồi, một nha hoàn thì không đủ, nên lại cho thêm một ả.
Cũng may là Thanh Nhi biết ca biết đàn, vừa khéo phối hợp được với Băng Nhi. “Băng Nhi nhất khúc thiên thượng lai, Thanh Nhi nhất vũ thần tiên đảo!”
Vừa dứt một bài, Liễu Dật buột miệng tán thưởng. Thập Kiệt Nhất lập tức đặt chung rượu xuống, lớn tiếng khen: “Hay, hay! Băng Nhi và Thanh Nhi quả thực càng ngày càng giỏi, càng lớn lại càng đẹp, hê hê, hê hê...!” Băng Nhi, Thanh Nhi lại gần, khom mình nói với Liễu Dật: “Đa tạ công tử khen ngợi!” Liễu Dật khẽ hớp một ngụm rượu trong chén: “Thiên Thượng Nhân Gian này của ta so với thiên giới có kém sút gì. Mỗi ngày nghe Băng Nhi tấu một khúc, xem Thanh Nhi múa một điệu, chậm rãi thưởng vài chén rượu, quả thực là cuộc sống thần tiên.” Thập Kiệt Nhất ở bên cạnh càu nhàu: “Chỉ có điều rượu ít quá, không thể uống cho thống khoái.”
Liễu Dật chẳng để ý, tiếp tục nói với hai cô gái: “Các ngươi hãy lui về nghỉ đi!” Thanh Nhi vội vàng: “Công tử, để chúng tiểu tỳ ở lại thị hầu bên cạnh người!” Liễu Dật lắc đầu, xua tay bảo: “Nghe lời ta đi, đàn hát lâu như thế rồi, các ngươi chắc cũng đã mệt lắm, mau về nghỉ đi!” Băng Nhi, Thanh Nhi thường ở bên Liễu Dật, hiểu rõ tính khí của y, bèn thấp mình thưa: “Vâng, công tử!”
rồi hai ả từ từ lui ra. Liễu Dật rót một chén rượu nhỏ, gắp một miếng thức ăn, tiếp tục khoan thai dùng bữa, nhưng vừa ăn được mấy miếng, y đã nhận thấy có gì lạ lùng. Gã Thập Kiệt Nhất này, ngày thường vốn tham ăn tục uống lắm cơ mà, sao hôm nay không **ng đũa, lại đang trầm ngâm cái gì kia? Liễu Dật hỏi: “Thập Nhất, đang nghĩ gì thế? Có phải tại rượu ít quá không, tối mình lại uống nữa nhé!”
Thập Kiệt Nhất nhìn Liễu Dật, lắc lắc đầu: “Không phải rượu đâu lão đại, là A Cửu!” “A Cửu? A Cửu? Có phải cô nương đòi ta vẽ tranh đó không?” Liễu Dật sực nhớ. Thập Kiệt Nhất vội vàng gật đầu: “Đúng, là nàng ấy. Lão đại, nàng ấy đẹp quá phải không?” Liễu Dật đặt chén rượu xuống, đứng dậy, đi quanh Thập Kiệt Nhất một vòng, hỏi: “Tiểu tử, nữ nhân xinh đẹp trong thiên hạ này rất là nhiều, ngươi hỏi ta như vậy làm gì? Có phải... nói mau, ngươi đang mưu đồ gì?” Thập Kiệt Nhất vốn tính thật thà, làm sao mà chịu được Liễu Dật nghi ngờ, vội vàng đứng ngay dậy, lao lại bên Liễu Dật: “Lão đại, đệ muốn, đệ muốn... kết giao bằng hữu với nàng ấy!”
Liễu Dật mở chiếc quạt gấp, suy nghĩ một hồi rồi nói: “Ta quên mất A Cửu đó trông như thế nào rồi! Lúc nãy không chú ý nhìn, ngươi nếu thích thì đi theo họ đi!” Thập Kiệt Nhất tỏ vẻ lúng túng: “Lão đại, lão đại, còn không hiểu đệ ư, huynh bảo đệ đánh người còn được... chứ đệ vừa trông thấy A Cửu đã tâm hoảng ý loạn, không thể nói năng gì được nữa!” Đúng lúc hai người đang nói chuyện, một gia nhân thấp bé chạy vào. Gã này vì thân hình vừa gầy vừa nhỏ nên Liễu Dật gọi là A Thử; nhưng đừng có xem thường A Thử, gã là tai mắt mà Liễu Dật lén gài vào bên cạnh Liễu Mục Tịch. Có A Thử, Liễu Dật bớt được bao nhiêu phen bị đánh mắng. Liễu Dật thấy A Thử vào, biết chắc là có chuyện, chứ bình thường thì tiểu tử này không bao giờ khinh suất chạy tới hậu hoa viên. Quả nhiên, A Thử chạy tới trước mặt Liễu Dật: “Tiểu công tử, xảy ra chuyện lớn rồi, cô nương tên gọi A Cửu đó đang nói chuyện với lão gia!”
Liễu Dật xua quạt: “Chuyện đó mà lớn gì, nói chuyện thì nói chuyện chứ!” A Thử vội giải thích: “Không phải, A Cửu đó có hoàng kim, lại có châu bảo, lại có mỹ nữ, nói là mời công tử vẽ một bức họa, bây giờ đang đàm phán với lão gia.”
Liễu Dật nghe xong kêu lớn: “Cái gì, í... tiểu nha đầu, sao lại đi tìm cha ta. Thế coi sao được!” rồi y xoay mình chạy tới đại sảnh. Đương nhiên, nếu Liễu Mục Tịch muốn Liễu Dật vẽ tranh, Liễu Dật nhất định phải vẽ, nhưng Liễu Mục Tịch căn bản không biết tiểu nha đầu này đòi y vẽ “Long Phụng Trình Tường Đồ”, nếu cha đã nhận lời, thì không thể không vẽ, nhưng vẽ thì lại phạm tội khi quân.
Còn chưa đến đại sảnh, Liễu Dật đã nghe thấy giọng A Cửu: “Liễu lão gia, ta nghĩ ông cũng nên biết giá trị của những châu báu này, nói là có giá trị liên thành kể cũng không phải là quá. Châu báu này thừa sức mua được mười tòa Liễu phủ, chỉ cần ông nhận lời bảo quý công tử vẽ một bức họa, những châu báu này sẽ thuộc về ông!”
Rất lâu không thấy Liễu Mục Tịch lên tiếng. Liễu Dật ẩn mình sau cây cột đại sảnh, cho dù không quan sát được, y cũng biết cha đang ngắm nghía những món châu bảo kia, cha là một người làm ăn, thấy nhiều thứ quý như vậy, không động tâm mới là lạ.
Cuối cùng, y nghe thấy cha ngồi trở lại ghế, nói: “A Cửu cô nương, những món châu báu này quý thật đó, ta thừa nhận, toàn bộ Liễu phủ cũng không bằng một phần mười.”
A Cửu mỉm cười: “Chỉ cần một câu của Liễu lão gia, những châu bảo này sẽ thuộc về ông hết.” Lại nghe Liễu Mục Tịch phá lên cười sảng khoái: “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo(1). Huồng hồ cô lại muốn tranh vẽ của con ta, điều này kẻ làm cha như ta thật không có quyền bắt ép.”
A Cửu nghe xong, ngữ khí tựa hồ có chút không vui: “Liễu lão gia, ông nên nghĩ cho kỹ càng, nếu ông nhận lời, những châu báu này là của ông. Ta cho rằng ông mà nhận lời, quý công tử vẽ hay không chỉ là chuyện sớm muộn.”
Liễu Mục Tịch lắc lắc đầu: “Xem ra phải mời A Cửu cô nương hồi gia, hoặc là tìm Dật nhi đến nói chuyện. Việc này ta không làm chủ được, Dật nhi đã lớn rồi, để nó tự quyết định thôi!”
A Cửu đứng lên khỏi chỗ ngồi: “Liễu lão gia quả thực là không thích tài bảo rồi. Vậy thì, Liễu lão gia xem có đánh giá được vật phẩm này không?” Nói đoạn, nàng móc từ trong bọc ra một mảnh ngọc bạch sắc. Chỉ thấy trên mảnh ngọc chạm hai con bàn long, tinh tế sinh động, trông y như thật. Một vật phẩm như vậy, thiên hạ rộng lớn thế này, người không đánh giá được nó chắc có rất nhiều.
Nhưng Liễu Mục Tịch thì biết, lão vội đứng lên, xem xét một hồi rồi cúi mình nói: “Ồ, chẳng hay A Cửu cô nương và miếng ngọc này có uyên nguyên thế nào?” Trong giọng nói đã thêm mấy phần cung kính. A Cửu thu lại mảnh ngọc, quay mình trở về chỗ ngồi: “Giờ thì, Liễu lão gia có vui lòng thâu nhận những châu bảo này không? Phải nghĩ cho kỹ, đừng làm gì để sau hối hận, Liễu lão gia ạ!”
Liễu Mục Tịch toát mồ hôi trán, không ngờ sự việc lại phức tạp đến như vậy. Nếu nhận lời, liệu Dật nhi có chịu vẽ không? Nếu từ chối, toàn gia Liễu phủ có chịu nổi cái họa diệt môn không? A Cửu cười cười, nét mặt thay đổi: “Liễu lão gia, bản cô nương không có nhiều thời gian đợi chờ. Nếu không mau trả lời, coi như Liễu lão gia đã khước từ. Ta cũng đành bẩm báo lại như vậy thôi!” Nét mặt Liễu Mục Tịch trong một thoáng lộ ra vẻ giằng xé, nghe A Cửu hối, lão vội vàng đáp: “Việc này... A Cửu cô nương, xin... xin để lão phu nghĩ một lát!”
-----------------------
(1) Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo: Người quân tử mà thích của cải thì phải kiếm nó bằng cách hợp đạo lý.
Đúng lúc ấy, một thanh âm dõng dạc vang lên: “Khỏi cần nghĩ nữa, thứ tranh cô ta muốn con không thể vẽ được!” Đằng sau Thập Kiệt Nhất, Liễu Dật sải bước đi ra. A Cửu đâu ngờ sự việc lại biến thành như vậy, Liễu Dật đột nhiên từ đâu chen vào, nàng đỏ mặt, giận dữ: “Ngươi... ngươi một mực chống đối bản cô nương phải không?” Liễu Dật xua quạt: “Không dám, không dám! Quả thực tranh cô nương muốn vẽ, Liễu mỗ không vẽ được, ta nghĩ cô nên về đi!” A Cửu càng giận: “Đồ chết bầm, ngươi lại dám ăn nói với ta như vậy, tên thư sinh vô lễ kia!” Đúng lúc đó Liễu Mục Tịch xen vào: “Dật nhi, đừng hỗn, dẫu sao A Cửu cô nương cũng là khách mà!” Liễu Dật đi đến bên A Cửu, ngắm bên trái, ngó bên phải, rồi lắc lắc đầu, cảm thán: “Ai ngờ con mắt Thập Nhất lại kém cỏi như vậy!” A Cửu trừng lớn đôi mắt hạnh, giận dữ: “Ngươi nhìn cái gì, trên mặt bản cô nương có nhọ sao?” Liễu Dật mở quạt, quay sang Liễu Mục Tịch, rồi lại nhìn A Cửu nói: “Mọi người đều không hiểu, hoặc giả có người hiểu mà làm vẻ hồ đồ, thế thì Liễu mỗ phải nói trắng ra thôi.” Đoạn y phẩy quạt, tiếp: “Liễu mỗ ta không phải là cố ý chống đối A Cửu cô nương. Thêm nữa, huynh đệ của ta còn có ý kết giao với cô. Nếu có thể giúp được, ta nhất định giúp, nhưng tranh mà cô yêu cầu, ta không vẽ được, nếu ta vẽ, là phạm tội khi quân.” Vừa nghe thấy câu đó, tất thảy đều sững người, Liễu Mục Tịch kinh nghi hỏi: “Dật nhi, nói vậy là thế nào?” Liễu Dật nhìn sang: “Cha, cha biết A Cửu cô nương bảo con vẽ gì không? Vẽ Long Phụng Trình Tường Đồ, là bức họa mấy năm trước con đem dâng lên hoàng thượng ấy. Giờ cô ta muốn con vẽ lại, nếu con vẽ thật, thì Liễu phủ chúng ta, từ trên xuống dưới chẳng còn mạng nào sống sót được nữa rồi.” Liễu Mục Tịch nghe vậy, kinh hãi thốt lên: “Ối!” Lão cảm thấy sự việc này thật kỳ quái, miếng ngọc ban nãy A Cửu đưa ra, rõ ràng là “Bàn Long Ngọc” tượng trưng cho thân phận, chỉ người trong hoàng gia mới có, bây giờ lại đòi vẽ một bức họa của hoàng gia, rốt cục là chuyện gì đây
Nét mặt Liễu Mục Tịch đầy vẻ ngạc nhiên, còn khuôn mặt A Cửu thì hết sức điềm tĩnh, nàng lạnh lùng nói: “Được lắm, Liễu Dật, châu báu liên thành của ta đưa ra mời ngươi vẽ, ngươi lại khước từ. Hãy đợi đấy! Chúng ta đi thôi!” Đoạn nàng khoát tay, dẫn các a hoàn và mỹ nữ rời khỏi Liễu phủ. Thấy A Cửu đùng đùng tức giận bỏ đi, khuôn mặt Liễu Mục Tịch càng thêm nhăn nhó: “Xem ra Liễu phủ không yên rồi. Dật nhi, A Cửu cô nương mà con vừa đắc tội đấy, nhất định có quan hệ với đương kim hoàng thượng. Cô ta vừa đưa cho cha xem Bàn Long Ngọc, vật mà phải là người được hoàng thượng sủng ái mới có được.” Liễu Dật nghe dứt, ngạc nhiên: “Cha, cha nói gì vậy? Tiểu nha đầu đó có Bàn Long Ngọc? Không phải của giả chứ? Nếu quả thực có quan hệ với hoàng thượng, việc gì phải vẽ một bức mà hoàng thượng đã có, lẽ nào tự mình không muốn sống nữa?” Liễu Mục Tịch lắc đầu: “Cái này cha cũng nghĩ mãi không thông. Xem ra sự việc trở nên phức tạp rồi, chúng ta đi bước nào hay bước đó thôi, hoàng đế và A Cửu đều đừng nên trêu vào...” Liễu Dật nghe lời cha nói, biết lão đang lo lắng sự việc gây bất lợi cho gia đình mình: “Cha, yên tâm đi, quân đến sẽ có tướng ngăn, A Cửu đến sẽ có Liễu Dật chặn. Không để cô ta làm những việc bất trắc cho Liễu phủ!” Liễu Mục Tịch ngắm Liễu Dật, gật gật đầu: “Việc này cũng đành xem con xử sự thế nào thôi. Con lui ra đi, cha phải yên tĩnh một lát, ngẫm nghĩ cho rõ ràng rốt ráo mọi sự! ” Liễu Dật ứng tiếng, gật đầu: “Vâng, thưa cha!” rồi y cùng Thập Kiệt Nhất quay lại, trở về hậu hoa viên...