Vào lúc hai giờ sáng thằng bé mặt tàn nhang từ Creston dừng con ngựa còn ngái ngủ trước cửa ngôi nhà đỏ, và Charity bước ra. Harney đã rời nàng ở Creston River, trả tiền để thằng bé đưa nàng về nhà. Trong tâm trí nàng vẫn còn một đám mây mù khổ đau. Nàng không nhớ rõ lắm những gì đã xảy ra, hay những gì mà họ nói với nhau trong suốt chặng đường từ khi họ khởi hành đi Nettleton. Bản năng thầm kín của một con thú đang bị thương rất nặng làm nàng có cảm giác nhẹ nhõm khi Harney bước ra và nàng đi về nhà một mình.
Mặt trăng tròn vành vạnh treo trên North Dormer, làm cho đám sương mù trở nên trắng toát bao phủ trên các thung lũng giữa các ngọn đồi. Ánh trăng bàng bạc, trong suốt trên những cánh đồng. Charity đứng một lúc ở cổng, nhìn vào không gian lúc đêm tàn. Nàng nhìn thằng bé lái ngựa đi, đầu con ngựa lúc lắc nặng nề từ trước ra sau và từ sau ra trước; rồi nàng đi vòng ra cửa nhà bếp, cúi mình xuống thảm chùi chân để lấy chìa khóa. Nàng tìm thấy nó, mở cửa và bước vào nhà. Nhà bếp tối om nhưng nàng tìm được hộp diêm và đốt một cây nến rồi bước lên cầu thang. Cửa phòng của ông Royall đối diện phòng nàng vẫn mở, trong phòng không đốt đèn chứng tỏ rằng ông chưa về nhà. Nàng vào phòng mình, cài then cửa và chầm chậm cởi dây thắt lưng ra, rồi cởi áo. Dưới chân giường nàng thấy cái túi giấy nàng giấu cái nón mới để tránh khỏi những đôi mắt tò mò tọc mạch.
Nằm trên giường lâu lắm mà không ngủ được, nàng nhìn lên ánh trăng xuyên qua trần nhà thấp, rồi bình minh ló dạng phía chân trời khi nàng vừa ngủ. Khi nàng tỉnh giấc thì mặt trời đã chiếu trên mặt nàng.
Nàng mặc đồ vào và xuống nhà bếp. Verena ở đó một mình: bà ta lặng lẽ nhìn Charity với đôi mắt già nua, điếc lác. Không có dấu hiệu nào cho thấy có sự hiện diện của ông Royall ở trong nhà, đã nhiều giờ trôi qua mà vẫn không thấy ông về. Charity trở lên phòng mình, ngồi đó bơ phờ, hai bàn tay để lên đùi. Những luồng gió phụt ra hơi nóng thổi tung những tấm rèm cửa có sọc nổi của nàng và những con ruồi vo ve khó chịu trên tấm kính xanh lơ.
Vào lúc một giờ trưa, Verena tập tễnh lên lầu để xem Charity có dùng bữa hay không nhưng nàng lắc đầu; bà già đi xuống và nói: “Tôi sẽ đậy nó lại.”
Mặt trời chuyển hướng khỏi phòng nàng, Charity ngồi ở cửa sổ, nhìn xuống con đường làng qua những cửa chớp khép hờ. Đầu óc trông rỗng, chỉ có những hình ảnh hỗn độn quay cuồng. Nàng nhìn người ta đi lại trên đường như thể nàng nhìn những cảnh quen thuộc từ bên này qua bên kia của thế giới âm ty: nhóm thợ của Dan Targatt đang kéo những khúc gỗ thông xuống Hepburn, con ngựa trắng già của “ông từ” ở nhà thờ nhai cỏ bên kia bờ sông.
Nàng đang trong trạng thái thẫn thờ bỗng bị khuấy động khi thấy Ally Hawes ra khỏi cổng nhà Fry và chầm chậm đi về hướng ngôi nhà màu đỏ với những bước đi khập khiễng. Cảnh tượng đó làm cho Charity trở về với thực tại. Nàng đoán rằng Ally đang đến để nghe kể về cái ngày của nàng: không một ai biết nàng bí mật đến Nettleton, chỉ có Ally mà thôi.
Với ý nghĩ gặp lại Ally, nhìn vào đôi mắt nó, nàng không biết phải trả lời hay tránh né các câu hỏi của nó. Rồi tất cả nỗi kinh hoàng của cuộc mạo hiểm đêm trước ồ ạt trở về đè nặng trên Charity. Nó như cơn ác mộng bồn chồn, và đã trở thành một cơn ớn lạnh mà sự thật không thể nào xóa bỏ được. Ở thời điểm đó, Ally tội nghiệp, đại diện cho North Dormer, với tất cả sự tò mò bần tiện, sự dã tâm thầm kín, sự vô cảm của ma quỷ. Charity biết rằng mặc dù những môi quan hệ của Julia được coi là kinh khủng, nhưng một Ally có trái tim dịu dàng vẫn giao tiếp một cách bí mật với nàng... Nàng chắc chắn Julia sẽ hoan hỉ có dịp bán lẻ tin “xì căng đan” ở cầu tàu. Câu chuyện được thổi phồng và méo mó sự thật chắc là đang trên đường về đến North Dormer.
Bước chân lê lết của Ally chưa kéo nó đi khỏi cổng nhà Fry được bao xa thì bị bà Sollas chặn lại, bà ta là kẻ nhiều chuyện kinh khủng. Bà ta nói rất chậm bởi vì không bao giờ có thể quen với bộ răng giả bà ta làm từ Hepburn. Tuy nhiên thời gian dừng lại của Ally không lâu, khoảng 10 phút sau nó sẽ có mặt ở cửa, và Charity sẽ nghe tiếng nó chào Venera trong nhà bếp và gọi vọng lên từ dưới chân cầu thang.
Việc quyết định “tung cánh bay xa” trở nên rõ ràng hơn. Phải ra đi lập tức, là điều duy nhất nàng có thể nghĩ ra được. Niềm khát khao được trôn thoát, tránh xa những gương mặt quen thuộc và những nơi nàng biết đã luôn cuồn cuộn đến với nàng trong những khoảnh khắc khổ đau này. Nàng có một niềm tin ngây ngô vào sức mạnh huyền diệu của những khung cảnh lạ, những gương mặt mới sẽ làm thay đổi cuộc đời nàng và xóa tan những ký ức đắng cay. Nhưng những ý thức tự chủ như thế chỉ thoáng qua so với sự quyết tâm mạnh mẽ hiện giờ đang chế ngự trong nàng. Nàng cảm thấy mình không thể nào ở lại lâu hơn dưới mái nhà của người đàn ông đã nhục mạ nàng trước đám đông, và mặt đối mặt với những kẻ nhìn nàng bằng đôi mắt hả hê về những điều làm cho nàng bị bẽ mặt.
Sự thương hại dành cho ông Royall chỉ thoáng qua, giờ đã nén lại thành khinh ghét: nàng nhớ lại quang cảnh một ông già say xỉn nói với nàng những lời thô lỗ trước mặt những kẻ lêu lổng và công chúng. Bất ngờ, nàng hồi tưởng lại một cách sông động về khoảnh khắc kinh hoàng khi ông cố gắng bước vào phòng nàng. Những gì nàng nghĩ trước đó chỉ là sự lầm lạc của người điên thì giờ đây nàng cho đó là hành động trác táng, tục tĩu và đê tiện.
Khi những ý tưởng này đang vội vã kéo đến thì nàng lôi ra cái túi học trò cũ bằng vải bạt, nhét vào đó một số bài báo về thời trang và một gói nhỏ những lá thư nàng nhận được từ Harney. Nàng rút chìa khóa thư viện dưới chiếc gối găm kim và đặt nó vào chỗ trống, rồi nàng lấy cây kim cài áo màu xanh mà Harney đã tặng nàng từ phía sau một ngăn kéo. Nàng sẽ không dám cài nó một cách công khai khi ở North Dormer, nhưng giờ đây nàng ghì chặt nó trong ngực mình như thể nó là một cái bùa hộ mệnh phù hộ cho nàng trong “chuyến bay xa.” Những sự chuẩn bị này chỉ trong vòng ít phút, và khi tất cả đã xong thì Ally vẫn còn ở góc nhà Fry nói chuyện cùng mụ già Solla.
Nàng đã tự nói với mình trong những lúc nổi loạn như thế này: “Mình sẽ đi lên Núi - mình sẽ trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.” Nàng chưa bao giờ thật sự nghĩ đến nó trước đây, nhưng bây giờ, khi nàng cân nhắc trường hợp của mình thì không còn cách nào giải quyết tốt hơn. Nàng chưa bao giờ học một nghề gì để nàng có thể sông tự lập ở nơi xa lạ. Nàng cũng không biết một ai ở những thành phố lớn trong vùng thung lũng này, nơi mà nàng hy vọng tìm được một việc làm. Cô Hatchard vẫn còn ở xa nhà, nhưng ngay khi cô ấy ở North Dormer thì cô ấy là người sau cùng Charity có thể quay về và tìm đến. Nhưng một trong những động cơ thúc giục nàng ra đi là không muốn gặp lại Lucius Harney. Việc trở về từ Nettleton trong chuyến xe lửa rực ánh đèn, tất cả sự trao đổi giữa họ khó thể xảy ra vì bị sự hiện diện của thằng nhỏ mặt đầy tàn nhang làm chướng ngại; nhưng suốt đoạn đường từ Hepburn đến Creston River nàng đã thu gom những lời an ủi dỗ dành của Harney rằng chàng có ý định gặp lại nàng ngày hôm sau. Ớ khoảnh khắc đó, nàng thấy có điều gì mơ hồ, không chắc chắn, nhưng rồi sự minh mẫn đã trở về, nàng thấy mình không thể tìm gặp anh ta nữa. Giấc mơ bằng hữu đã trôi qua, chỉ còn lại cảnh bến tàu cực kỳ ghê tởm và nhục nhã đã phơi bày dưới ánh sáng vào giây phút ngu xuẩn của nàng. Những lời của ông Royall như lột trần nàng ra trước những gương mặt nham nhở và công bố cho thế giới biết rằng sự thầm lén của nàng phải bị lương tâm phán xét.
Nàng đã không nghĩ những điều này một cách rõ ràng được, đơn giản là nàng bị cuốn đi bởi những nỗi thống khổ của mình mà thôi. Nàng không bao giờ muốn gặp lại bất cứ người nào mình quen biết, nhất là nàng không muốn gặp Harney.
Nàng leo lên con đường đồi phía sau nhà rồi xuyên qua rừng cây bằng con đường tắt dẫn đến con đường Creston. Bầu trời màu chì treo lủng lẳng trên các cánh đồng, và trong rừng thì cây côi đứng yên, không có gió, nhưng nàng lao tới, nôn nóng vọt ra con đường ngắn nhất để đến Núi.
Để làm việc đó, nàng phải đi theo đường Creston một vài dặm. Giờ đây nàng chỉ cách làng có nửa dặm, nàng đi rất nhanh vì sợ gặp phải Harney. Nhưng ở đằng kia không có dấu hiệu nào của anh ta. Khi nàng đến gần ngã ba đường thì nàng thấy những sườn với một cái lều trắng rộng dựng xuyên qua chòm cây gần bên lề đường. Nàng cho rằng nó là lều của gánh xiếc đã đến đó vào ngày mùng bốn, nhưng khi nàng đến gần thì thấy một bảng hiệu to đề chữ “Gospel Tent” (Lều Chân lý). Bên trong dường như không có ai, nhưng rồi một người đàn ông trẻ trong chiếc áo lông lạc đà đen, tóc thẳng rẽ hai bên rủ xuống trên một gương mặt trắng tròn bước ra từ vạt lều và mỉm cười rồi tiến thẳng về phía nàng.
“Này cô em, Chúa lòng lành biết tất cả mọi sự. Sao cô em không vào trong và thú tội trước Người?” - ông ta vừa nói bóng gió vừa để tay ông ta trên cánh tay nàng.
Charity giật mình lùi lại phía sau và đỏ mặt. Trong một lúc nàng nghĩ nhà truyền giáo chắc đã nghe báo cáo về cảnh tượng ở Nettleton; rồi nàng thấy thật vô lý hết sức về điều phỏng đoán này.
“Ước gì tôi có tội để xưng!” - nàng vặn lại, với một trong những kiểu nhạo báng dữ tợn của nàng; và người đàn ông trẻ thì thào kinh ngạc: “Ôi, cô gái đừng nói báng bổ như thế!”
Nàng giật mạnh tay mình ra khỏi cái ôm của ông ta và chạy một mạch lên ngã ba đường, run lên vì sợ gặp phải một gương mặt quen thuộc. Chẳng mấy chốc nàng ra khỏi tầm nhìn của ngôi làng và leo lên trung tâm khu rừng. Nàng không hy vọng sẽ đi nốt mười lăm dặm lên Núi buổi chiều hôm ấy được, và đó là nơi không một ai nghĩ nàng sẽ tới mà tìm kiếm nàng. Có một ngôi nhà hoang bé nhỏ nằm trên dốc của một trong những khe đồi. Nàng đã nhìn thấy nó một lần, nhiều năm trước, khi nàng đã làm một chuyến thám hiểm vào mùa thu hoạch quả hạnh đến lùm cây óc chó phía dưới nó. Những người cùng đi đã vào ẩn náu trong ngôi nhà do cơn bão núi thình lình ập đến, và nàng còn nhớ Ben Sollas thích làm cho các cô gái sợ hãi, nên đã kể cho họ nghe rằng ngôi nhà đó có ma.
Nàng đang lả dần và mệt rũ vì từ sáng tới giờ nàng đã chẳng ăn uống gì, và vì không quen đi xa. Nàng cảm thấy đầu mình nhẹ tênh, nàng ngồi một lát bên lề đường. Khi nàng ngồi đó nàng nghe tiếng chuông xe đạp reo, nàng đứng lên định lao trở lại vào rừng; nhưng trước khi nàng di chuyển thì xe chiếc xe đạp quét một vòng tròn trên đường và Harney nhảy xuống, chạy đến với nàng với vòng tay mở rộng.
“Charity! Cái gì xảy ra trên trái đất làm cho em ở đây thế?”
Nàng nhìn trân trân như thể anh ta là bóng ma, sự hiện diện đột ngột này khiến nàng không nói nên lời.
“Em đang đi đâu? Em quên là anh sẽ tới sao?” - anh ta vừa nói vừa kéo nàng theo mình nhưng nàng lùi lại để tránh cái ôm của anh ta.
“Tôi đang đi xa. Tôi không muốn gặp lại anh. Tôi muốn anh để tôi một mình.” - nàng tuôn ra những lời đó một cách man dại.
Anh ta nhìn nàng và gương mặt trở nên tối sầm như thể bóng tối của một linh cảm chẳng lành vừa quét ngang nó.
“Đi xa - xa anh hả Charity?”
“Xa hết mọi người. Tôi muốn anh sẽ rời xa tôi.”
Anh ta đứng nhìn lên nhìn xuống con đường rừng đơn độc trải dài xa tít chỉ còn là một vệt nhỏ dưới ánh mặt trời một cách nghi ngại.
“Em sẽ đi dâu?”
“Nhà.”
“Nhà - con đường này ư?”
Nàng hất đầu ra sau một cách ngổ ngáo. “Về nhà tôi - trên đó - trên Núi.”
Khi nàng nói, nàng nhìn thấy sự thay đổi trên mặt anh ta. Anh ta không còn nghe nàng nói nữa chỉ nhìn nàng thôi, một cái nhìn nồng nàn say đắm mà nàng đã thấy sau khi họ hôn nhau trên bục ở Nettleton. Anh ta trở lại là một Harney mới, một Harney đột ngột tiết lộ thân phận mình trong cái ôm đó. Anh ta dường như ngập tràn niềm vui khi có sự hiện diện của nàng mà anh ta hoàn toàn không cần nàng đang nghĩ gì hay cảm thấy gì.
Anh ta cười, nói một cách vui vẻ và chụp lấy hai bàn tay nàng: “Em có biết tại sao anh tìm được em không?” Anh ta rút ra một gói nhỏ đựng những lá thư của anh ta và vung mạnh chúng trước đôi mắt bối rối của nàng.
“Em đánh rơi chúng, em đó nghen, người trẻ tuổi bất cẩn! Em đã để rơi chúng giữa đường, cách đây không xa, và một người đàn ông trẻ ở hội truyền giảng Phúc âm đã nhặt chúng khi anh vừa chạy xe ngang qua.” Anh ta lùi lại, ôm nàng trong tay và nhìn kĩ vào gương mặt băn khoăn của nàng với đôi mắt cận thị dò tìm của mình.
Anh ta nói: “Em thật sự nghĩ có thể chạy xa khỏi anh hả? Em thấy đấy, em không được nghĩ như thế đâu.” và trước khi nàng trả lời thì anh ta lại hôn nàng, không mãnh liệt nhưng dịu dàng, như thể anh ta đã đoán được nàng đang đau khổ, bối rối và muốn cho nàng biết mình đã hiểu việc đó. Anh ta luồn các ngón tay mình vào các ngón tay nàng.
“Nào chúng ta hãy đi bộ một chút nhé. Anh muốn nói chuyện với em. Có nhiều điều để nói đấy.”
Anh ta nói với sự vui vẻ của một cậu con trai, không e dè và tự tin như thể không có gì có thể làm cho họ mắc cỡ hay xấu hổ cả, và trong chốc lát sự khuây khỏa thình lình đến làm nàng giảm đi sự ưu tư, cô đơn. Nàng nhượng bộ theo tâm trạng của anh ta.
“Em sẽ không trở lại.” - Nàng nói.
Họ nhìn nhau một lúc trong im lặng; rồi anh ta nhẹ nhàng nói “Tốt lắm: Vậy chúng ta hãy đi theo hướng khác.”
Nàng vẫn đứng im, lặng lẽ nhìn xuống đất, anh ta nói tiếp: “Bộ không có ngôi nhà nào quanh đây hay sao - một ngôi nhà nhỏ bỏ hoang - hôm trước em nói sẽ chỉ cho anh ngôi nhà đó, nhớ không?” Nàng vẫn không trả lời, còn anh ta thì vẫn tiếp tục trong một giọng nhẹ nhàng đoan chắc: “Chúng ta hãy lên trên đó ngay bây giờ, ngồi xuống và nói chuyện một cách bình tĩnh.” Anh ta cầm tay nàng và hôn lên đó. “Em nghĩ là anh để cho em bỏ anh ra hả? Bộ em nghĩ anh không hiểu sao?”
Có một ngôi nhà nhỏ cũ kỹ trong một vườn cây ăn quả trên con đường, những bức vách ván của nó bị bạc màu thành màu xám cũ kỹ. Những cọc rào ngoài vườn đã xiêu vẹo, cái cổng gãy đong đưa giữa hai cái cột và lối đi vào nhà thì có những cụm hoa hồng hoang mang những nụ hoa nhạt trên đám cỏ rậm rì. Những cây cột mảnh khảnh và một khung cửa hình bán nguyệt mở ra, còn bản thân cánh cửa nằm mục nát trên đám cỏ và bị một cây táo ngã đè lên.
Gió và thời tiết đã làm bạc màu mọi thứ; bên trong ngôi nhà không có một thứ gì. Nhưng phải thừa nhận rằng, nó được xây cất rất kỹ vì những phòng nhỏ còn giữ lại một cái gì đó mang tính đặc trưng của con người làm ra nó: mặt lò sưởi với những vật trang trí cổ điển được sắp xếp gọn gàng đâu vào đấy, và những góc của trần nhà vẫn còn giữ lại một loại họa tiết bằng nhựa nhẹ.
Harney đã tìm được một băng ghế cũ ở phía sau cửa và kéo nó vào nhà. Charity ngồi lên tựa đầu vào bức tường trong một trạng thái buồn ngủ, mệt mỏi. Anh ta đã đoán nàng đang đói và khát nên đã mang cho nàng vài thanh sô cô la lấy ra từ túi vải trên chiếc xe đạp rồi rót đầy một tách nước suôi lấy trong vườn cây ăn trái. Anh ta ngồi chồm hỗm hút xì gà và nhìn nàng mà không nói lời nào. Bên ngoài, bóng chiều kéo dài ngang đồng cỏ. Qua khung cửa sổ trống trước mặt, nàng thấy Núi nhả khói đen của nó vào buổi hoàng hôn oi bức. Đã đến giờ phải đi.
Nàng đứng lên, và anh ta cũng đứng lên theo. Anh ta choàng cánh tay mình quanh nàng với một vẻ quyền uy. “Nào, Charity, em phải theo anh trở về.”
Nàng nhìn anh ta và lắc đầu: “Em không bao giờ trở lại. Anh không biết đâu.”
“Anh không biết gì chứ?” Nàng lặng thinh và anh ta tiếp tục: “Những gì xảy ra trên bến tàu thì thật là kinh khủng, em có quyền nghĩ những gì em muốn. Nhưng nó không thể làm sự thật khác đi được: em không thể bị tổn thương vì những điều như vậy. Em phải cố gắng để quên. Và em phải hiểu rằng những người đàn ông đôi khi...”
“Em biết... Tại sao đàn ông lại...”
Anh ta đỏ mặt một chút về sự bắt bẻ này như thể nó đã chạm đến anh ta trong một cách mà nàng không ngờ.
“Vâng, rồi anh phải biết, người ta phải làm những việc đứng đắn chứ. Ông ta đã say xỉn.”
“Em cũng biết tất cả về việc đó. Em đã thấy ông ta như thế trước đây. Nhưng ông ta sẽ không dám nói với em cách đó nếu ông ta không...”
“Không cái gì?” Em muốn nói gì?”
“Không muốn em giống như những cô gái khác.” Nàng hạ giọng và nhìn ra nơi khác: “Vì vậy ông ta sẽ không phải đi ra ngoài.”
Harney trân trân nhìn nàng. Trong phút chốc anh ta không hiểu được ý nghĩ của nàng; rồi gương mặt nàng sa sầm: “Đồ đê tiện đáng khinh! Đồ côn đồ hạ lưu đê tiện!” Sự phẫn nộ của anh ta bộc phát, mặt đỏ như quả gấc tận thái dương: “Anh không bao giờ nghĩ tới - Chúa lòng lành, điều đó thật kinh tởm.”
“Em sẽ không bao giờ về lại nơi đó.” - nàng lặp lại một cách lì lợm.
“Không!” - anh ta tán thành.
Có một khoảng im lặng khá lâu, mà qua đó nàng hình dung rằng anh ta đang nhìn mặt nàng để xem xem nó tiết lộ với mình điều gì không. Đột nhiên nàng đỏ mặt mắc cỡ.
“Em biết anh nghĩ gì về em.” - nàng bùng nổ - “khi kể với anh những chuyện như vậy.”
Nhưng một lần nữa, khi nàng nói, nàng nhận ra anh ta không còn lắng nghe. Anh ta đến gần hơn và chộp lấy nàng như thể anh ta đang vồ lấy nàng ra khỏi mối nguy hiểm sắp xảy ra: đôi mắt mạnh mẽ nhìn vào mắt nàng, và nàng có thể cảm thấy trái tim anh ta nhảy mạnh khi ôm nàng vào lòng.
“Nào, hôn anh lần nữa đi - giống như đêm qua vậy!” - anh ta vừa nói vừa vén tóc nàng ra sau như thể để kéo trọn gương mặt nàng lên để nhận nụ hôn của anh ta.
Vào lúc hai giờ sáng thằng bé mặt tàn nhang từ Creston dừng con ngựa còn ngái ngủ trước cửa ngôi nhà đỏ, và Charity bước ra. Harney đã rời nàng ở Creston River, trả tiền để thằng bé đưa nàng về nhà. Trong tâm trí nàng vẫn còn một đám mây mù khổ đau. Nàng không nhớ rõ lắm những gì đã xảy ra, hay những gì mà họ nói với nhau trong suốt chặng đường từ khi họ khởi hành đi Nettleton. Bản năng thầm kín của một con thú đang bị thương rất nặng làm nàng có cảm giác nhẹ nhõm khi Harney bước ra và nàng đi về nhà một mình.
Mặt trăng tròn vành vạnh treo trên North Dormer, làm cho đám sương mù trở nên trắng toát bao phủ trên các thung lũng giữa các ngọn đồi. Ánh trăng bàng bạc, trong suốt trên những cánh đồng. Charity đứng một lúc ở cổng, nhìn vào không gian lúc đêm tàn. Nàng nhìn thằng bé lái ngựa đi, đầu con ngựa lúc lắc nặng nề từ trước ra sau và từ sau ra trước; rồi nàng đi vòng ra cửa nhà bếp, cúi mình xuống thảm chùi chân để lấy chìa khóa. Nàng tìm thấy nó, mở cửa và bước vào nhà. Nhà bếp tối om nhưng nàng tìm được hộp diêm và đốt một cây nến rồi bước lên cầu thang. Cửa phòng của ông Royall đối diện phòng nàng vẫn mở, trong phòng không đốt đèn chứng tỏ rằng ông chưa về nhà. Nàng vào phòng mình, cài then cửa và chầm chậm cởi dây thắt lưng ra, rồi cởi áo. Dưới chân giường nàng thấy cái túi giấy nàng giấu cái nón mới để tránh khỏi những đôi mắt tò mò tọc mạch.
Nằm trên giường lâu lắm mà không ngủ được, nàng nhìn lên ánh trăng xuyên qua trần nhà thấp, rồi bình minh ló dạng phía chân trời khi nàng vừa ngủ. Khi nàng tỉnh giấc thì mặt trời đã chiếu trên mặt nàng.
Nàng mặc đồ vào và xuống nhà bếp. Verena ở đó một mình: bà ta lặng lẽ nhìn Charity với đôi mắt già nua, điếc lác. Không có dấu hiệu nào cho thấy có sự hiện diện của ông Royall ở trong nhà, đã nhiều giờ trôi qua mà vẫn không thấy ông về. Charity trở lên phòng mình, ngồi đó bơ phờ, hai bàn tay để lên đùi. Những luồng gió phụt ra hơi nóng thổi tung những tấm rèm cửa có sọc nổi của nàng và những con ruồi vo ve khó chịu trên tấm kính xanh lơ.
Vào lúc một giờ trưa, Verena tập tễnh lên lầu để xem Charity có dùng bữa hay không nhưng nàng lắc đầu; bà già đi xuống và nói: “Tôi sẽ đậy nó lại.”
Mặt trời chuyển hướng khỏi phòng nàng, Charity ngồi ở cửa sổ, nhìn xuống con đường làng qua những cửa chớp khép hờ. Đầu óc trông rỗng, chỉ có những hình ảnh hỗn độn quay cuồng. Nàng nhìn người ta đi lại trên đường như thể nàng nhìn những cảnh quen thuộc từ bên này qua bên kia của thế giới âm ty: nhóm thợ của Dan Targatt đang kéo những khúc gỗ thông xuống Hepburn, con ngựa trắng già của “ông từ” ở nhà thờ nhai cỏ bên kia bờ sông.
Nàng đang trong trạng thái thẫn thờ bỗng bị khuấy động khi thấy Ally Hawes ra khỏi cổng nhà Fry và chầm chậm đi về hướng ngôi nhà màu đỏ với những bước đi khập khiễng. Cảnh tượng đó làm cho Charity trở về với thực tại. Nàng đoán rằng Ally đang đến để nghe kể về cái ngày của nàng: không một ai biết nàng bí mật đến Nettleton, chỉ có Ally mà thôi.
Với ý nghĩ gặp lại Ally, nhìn vào đôi mắt nó, nàng không biết phải trả lời hay tránh né các câu hỏi của nó. Rồi tất cả nỗi kinh hoàng của cuộc mạo hiểm đêm trước ồ ạt trở về đè nặng trên Charity. Nó như cơn ác mộng bồn chồn, và đã trở thành một cơn ớn lạnh mà sự thật không thể nào xóa bỏ được. Ở thời điểm đó, Ally tội nghiệp, đại diện cho North Dormer, với tất cả sự tò mò bần tiện, sự dã tâm thầm kín, sự vô cảm của ma quỷ. Charity biết rằng mặc dù những môi quan hệ của Julia được coi là kinh khủng, nhưng một Ally có trái tim dịu dàng vẫn giao tiếp một cách bí mật với nàng... Nàng chắc chắn Julia sẽ hoan hỉ có dịp bán lẻ tin “xì căng đan” ở cầu tàu. Câu chuyện được thổi phồng và méo mó sự thật chắc là đang trên đường về đến North Dormer.
Bước chân lê lết của Ally chưa kéo nó đi khỏi cổng nhà Fry được bao xa thì bị bà Sollas chặn lại, bà ta là kẻ nhiều chuyện kinh khủng. Bà ta nói rất chậm bởi vì không bao giờ có thể quen với bộ răng giả bà ta làm từ Hepburn. Tuy nhiên thời gian dừng lại của Ally không lâu, khoảng phút sau nó sẽ có mặt ở cửa, và Charity sẽ nghe tiếng nó chào Venera trong nhà bếp và gọi vọng lên từ dưới chân cầu thang.
Việc quyết định “tung cánh bay xa” trở nên rõ ràng hơn. Phải ra đi lập tức, là điều duy nhất nàng có thể nghĩ ra được. Niềm khát khao được trôn thoát, tránh xa những gương mặt quen thuộc và những nơi nàng biết đã luôn cuồn cuộn đến với nàng trong những khoảnh khắc khổ đau này. Nàng có một niềm tin ngây ngô vào sức mạnh huyền diệu của những khung cảnh lạ, những gương mặt mới sẽ làm thay đổi cuộc đời nàng và xóa tan những ký ức đắng cay. Nhưng những ý thức tự chủ như thế chỉ thoáng qua so với sự quyết tâm mạnh mẽ hiện giờ đang chế ngự trong nàng. Nàng cảm thấy mình không thể nào ở lại lâu hơn dưới mái nhà của người đàn ông đã nhục mạ nàng trước đám đông, và mặt đối mặt với những kẻ nhìn nàng bằng đôi mắt hả hê về những điều làm cho nàng bị bẽ mặt.
Sự thương hại dành cho ông Royall chỉ thoáng qua, giờ đã nén lại thành khinh ghét: nàng nhớ lại quang cảnh một ông già say xỉn nói với nàng những lời thô lỗ trước mặt những kẻ lêu lổng và công chúng. Bất ngờ, nàng hồi tưởng lại một cách sông động về khoảnh khắc kinh hoàng khi ông cố gắng bước vào phòng nàng. Những gì nàng nghĩ trước đó chỉ là sự lầm lạc của người điên thì giờ đây nàng cho đó là hành động trác táng, tục tĩu và đê tiện.
Khi những ý tưởng này đang vội vã kéo đến thì nàng lôi ra cái túi học trò cũ bằng vải bạt, nhét vào đó một số bài báo về thời trang và một gói nhỏ những lá thư nàng nhận được từ Harney. Nàng rút chìa khóa thư viện dưới chiếc gối găm kim và đặt nó vào chỗ trống, rồi nàng lấy cây kim cài áo màu xanh mà Harney đã tặng nàng từ phía sau một ngăn kéo. Nàng sẽ không dám cài nó một cách công khai khi ở North Dormer, nhưng giờ đây nàng ghì chặt nó trong ngực mình như thể nó là một cái bùa hộ mệnh phù hộ cho nàng trong “chuyến bay xa.” Những sự chuẩn bị này chỉ trong vòng ít phút, và khi tất cả đã xong thì Ally vẫn còn ở góc nhà Fry nói chuyện cùng mụ già Solla.
Nàng đã tự nói với mình trong những lúc nổi loạn như thế này: “Mình sẽ đi lên Núi - mình sẽ trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.” Nàng chưa bao giờ thật sự nghĩ đến nó trước đây, nhưng bây giờ, khi nàng cân nhắc trường hợp của mình thì không còn cách nào giải quyết tốt hơn. Nàng chưa bao giờ học một nghề gì để nàng có thể sông tự lập ở nơi xa lạ. Nàng cũng không biết một ai ở những thành phố lớn trong vùng thung lũng này, nơi mà nàng hy vọng tìm được một việc làm. Cô Hatchard vẫn còn ở xa nhà, nhưng ngay khi cô ấy ở North Dormer thì cô ấy là người sau cùng Charity có thể quay về và tìm đến. Nhưng một trong những động cơ thúc giục nàng ra đi là không muốn gặp lại Lucius Harney. Việc trở về từ Nettleton trong chuyến xe lửa rực ánh đèn, tất cả sự trao đổi giữa họ khó thể xảy ra vì bị sự hiện diện của thằng nhỏ mặt đầy tàn nhang làm chướng ngại; nhưng suốt đoạn đường từ Hepburn đến Creston River nàng đã thu gom những lời an ủi dỗ dành của Harney rằng chàng có ý định gặp lại nàng ngày hôm sau. Ớ khoảnh khắc đó, nàng thấy có điều gì mơ hồ, không chắc chắn, nhưng rồi sự minh mẫn đã trở về, nàng thấy mình không thể tìm gặp anh ta nữa. Giấc mơ bằng hữu đã trôi qua, chỉ còn lại cảnh bến tàu cực kỳ ghê tởm và nhục nhã đã phơi bày dưới ánh sáng vào giây phút ngu xuẩn của nàng. Những lời của ông Royall như lột trần nàng ra trước những gương mặt nham nhở và công bố cho thế giới biết rằng sự thầm lén của nàng phải bị lương tâm phán xét.
Nàng đã không nghĩ những điều này một cách rõ ràng được, đơn giản là nàng bị cuốn đi bởi những nỗi thống khổ của mình mà thôi. Nàng không bao giờ muốn gặp lại bất cứ người nào mình quen biết, nhất là nàng không muốn gặp Harney.
Nàng leo lên con đường đồi phía sau nhà rồi xuyên qua rừng cây bằng con đường tắt dẫn đến con đường Creston. Bầu trời màu chì treo lủng lẳng trên các cánh đồng, và trong rừng thì cây côi đứng yên, không có gió, nhưng nàng lao tới, nôn nóng vọt ra con đường ngắn nhất để đến Núi.
Để làm việc đó, nàng phải đi theo đường Creston một vài dặm. Giờ đây nàng chỉ cách làng có nửa dặm, nàng đi rất nhanh vì sợ gặp phải Harney. Nhưng ở đằng kia không có dấu hiệu nào của anh ta. Khi nàng đến gần ngã ba đường thì nàng thấy những sườn với một cái lều trắng rộng dựng xuyên qua chòm cây gần bên lề đường. Nàng cho rằng nó là lều của gánh xiếc đã đến đó vào ngày mùng bốn, nhưng khi nàng đến gần thì thấy một bảng hiệu to đề chữ “Gospel Tent” (Lều Chân lý). Bên trong dường như không có ai, nhưng rồi một người đàn ông trẻ trong chiếc áo lông lạc đà đen, tóc thẳng rẽ hai bên rủ xuống trên một gương mặt trắng tròn bước ra từ vạt lều và mỉm cười rồi tiến thẳng về phía nàng.
“Này cô em, Chúa lòng lành biết tất cả mọi sự. Sao cô em không vào trong và thú tội trước Người?” - ông ta vừa nói bóng gió vừa để tay ông ta trên cánh tay nàng.
Charity giật mình lùi lại phía sau và đỏ mặt. Trong một lúc nàng nghĩ nhà truyền giáo chắc đã nghe báo cáo về cảnh tượng ở Nettleton; rồi nàng thấy thật vô lý hết sức về điều phỏng đoán này.
“Ước gì tôi có tội để xưng!” - nàng vặn lại, với một trong những kiểu nhạo báng dữ tợn của nàng; và người đàn ông trẻ thì thào kinh ngạc: “Ôi, cô gái đừng nói báng bổ như thế!”
Nàng giật mạnh tay mình ra khỏi cái ôm của ông ta và chạy một mạch lên ngã ba đường, run lên vì sợ gặp phải một gương mặt quen thuộc. Chẳng mấy chốc nàng ra khỏi tầm nhìn của ngôi làng và leo lên trung tâm khu rừng. Nàng không hy vọng sẽ đi nốt mười lăm dặm lên Núi buổi chiều hôm ấy được, và đó là nơi không một ai nghĩ nàng sẽ tới mà tìm kiếm nàng. Có một ngôi nhà hoang bé nhỏ nằm trên dốc của một trong những khe đồi. Nàng đã nhìn thấy nó một lần, nhiều năm trước, khi nàng đã làm một chuyến thám hiểm vào mùa thu hoạch quả hạnh đến lùm cây óc chó phía dưới nó. Những người cùng đi đã vào ẩn náu trong ngôi nhà do cơn bão núi thình lình ập đến, và nàng còn nhớ Ben Sollas thích làm cho các cô gái sợ hãi, nên đã kể cho họ nghe rằng ngôi nhà đó có ma.
Nàng đang lả dần và mệt rũ vì từ sáng tới giờ nàng đã chẳng ăn uống gì, và vì không quen đi xa. Nàng cảm thấy đầu mình nhẹ tênh, nàng ngồi một lát bên lề đường. Khi nàng ngồi đó nàng nghe tiếng chuông xe đạp reo, nàng đứng lên định lao trở lại vào rừng; nhưng trước khi nàng di chuyển thì xe chiếc xe đạp quét một vòng tròn trên đường và Harney nhảy xuống, chạy đến với nàng với vòng tay mở rộng.
“Charity! Cái gì xảy ra trên trái đất làm cho em ở đây thế?”
Nàng nhìn trân trân như thể anh ta là bóng ma, sự hiện diện đột ngột này khiến nàng không nói nên lời.
“Em đang đi đâu? Em quên là anh sẽ tới sao?” - anh ta vừa nói vừa kéo nàng theo mình nhưng nàng lùi lại để tránh cái ôm của anh ta.
“Tôi đang đi xa. Tôi không muốn gặp lại anh. Tôi muốn anh để tôi một mình.” - nàng tuôn ra những lời đó một cách man dại.
Anh ta nhìn nàng và gương mặt trở nên tối sầm như thể bóng tối của một linh cảm chẳng lành vừa quét ngang nó.
“Đi xa - xa anh hả Charity?”
“Xa hết mọi người. Tôi muốn anh sẽ rời xa tôi.”
Anh ta đứng nhìn lên nhìn xuống con đường rừng đơn độc trải dài xa tít chỉ còn là một vệt nhỏ dưới ánh mặt trời một cách nghi ngại.
“Em sẽ đi dâu?”
“Nhà.”
“Nhà - con đường này ư?”
Nàng hất đầu ra sau một cách ngổ ngáo. “Về nhà tôi - trên đó - trên Núi.”
Khi nàng nói, nàng nhìn thấy sự thay đổi trên mặt anh ta. Anh ta không còn nghe nàng nói nữa chỉ nhìn nàng thôi, một cái nhìn nồng nàn say đắm mà nàng đã thấy sau khi họ hôn nhau trên bục ở Nettleton. Anh ta trở lại là một Harney mới, một Harney đột ngột tiết lộ thân phận mình trong cái ôm đó. Anh ta dường như ngập tràn niềm vui khi có sự hiện diện của nàng mà anh ta hoàn toàn không cần nàng đang nghĩ gì hay cảm thấy gì.
Anh ta cười, nói một cách vui vẻ và chụp lấy hai bàn tay nàng: “Em có biết tại sao anh tìm được em không?” Anh ta rút ra một gói nhỏ đựng những lá thư của anh ta và vung mạnh chúng trước đôi mắt bối rối của nàng.
“Em đánh rơi chúng, em đó nghen, người trẻ tuổi bất cẩn! Em đã để rơi chúng giữa đường, cách đây không xa, và một người đàn ông trẻ ở hội truyền giảng Phúc âm đã nhặt chúng khi anh vừa chạy xe ngang qua.” Anh ta lùi lại, ôm nàng trong tay và nhìn kĩ vào gương mặt băn khoăn của nàng với đôi mắt cận thị dò tìm của mình.
Anh ta nói: “Em thật sự nghĩ có thể chạy xa khỏi anh hả? Em thấy đấy, em không được nghĩ như thế đâu.” và trước khi nàng trả lời thì anh ta lại hôn nàng, không mãnh liệt nhưng dịu dàng, như thể anh ta đã đoán được nàng đang đau khổ, bối rối và muốn cho nàng biết mình đã hiểu việc đó. Anh ta luồn các ngón tay mình vào các ngón tay nàng.
“Nào chúng ta hãy đi bộ một chút nhé. Anh muốn nói chuyện với em. Có nhiều điều để nói đấy.”
Anh ta nói với sự vui vẻ của một cậu con trai, không e dè và tự tin như thể không có gì có thể làm cho họ mắc cỡ hay xấu hổ cả, và trong chốc lát sự khuây khỏa thình lình đến làm nàng giảm đi sự ưu tư, cô đơn. Nàng nhượng bộ theo tâm trạng của anh ta.
“Em sẽ không trở lại.” - Nàng nói.
Họ nhìn nhau một lúc trong im lặng; rồi anh ta nhẹ nhàng nói “Tốt lắm: Vậy chúng ta hãy đi theo hướng khác.”
Nàng vẫn đứng im, lặng lẽ nhìn xuống đất, anh ta nói tiếp: “Bộ không có ngôi nhà nào quanh đây hay sao - một ngôi nhà nhỏ bỏ hoang - hôm trước em nói sẽ chỉ cho anh ngôi nhà đó, nhớ không?” Nàng vẫn không trả lời, còn anh ta thì vẫn tiếp tục trong một giọng nhẹ nhàng đoan chắc: “Chúng ta hãy lên trên đó ngay bây giờ, ngồi xuống và nói chuyện một cách bình tĩnh.” Anh ta cầm tay nàng và hôn lên đó. “Em nghĩ là anh để cho em bỏ anh ra hả? Bộ em nghĩ anh không hiểu sao?”
Có một ngôi nhà nhỏ cũ kỹ trong một vườn cây ăn quả trên con đường, những bức vách ván của nó bị bạc màu thành màu xám cũ kỹ. Những cọc rào ngoài vườn đã xiêu vẹo, cái cổng gãy đong đưa giữa hai cái cột và lối đi vào nhà thì có những cụm hoa hồng hoang mang những nụ hoa nhạt trên đám cỏ rậm rì. Những cây cột mảnh khảnh và một khung cửa hình bán nguyệt mở ra, còn bản thân cánh cửa nằm mục nát trên đám cỏ và bị một cây táo ngã đè lên.
Gió và thời tiết đã làm bạc màu mọi thứ; bên trong ngôi nhà không có một thứ gì. Nhưng phải thừa nhận rằng, nó được xây cất rất kỹ vì những phòng nhỏ còn giữ lại một cái gì đó mang tính đặc trưng của con người làm ra nó: mặt lò sưởi với những vật trang trí cổ điển được sắp xếp gọn gàng đâu vào đấy, và những góc của trần nhà vẫn còn giữ lại một loại họa tiết bằng nhựa nhẹ.
Harney đã tìm được một băng ghế cũ ở phía sau cửa và kéo nó vào nhà. Charity ngồi lên tựa đầu vào bức tường trong một trạng thái buồn ngủ, mệt mỏi. Anh ta đã đoán nàng đang đói và khát nên đã mang cho nàng vài thanh sô cô la lấy ra từ túi vải trên chiếc xe đạp rồi rót đầy một tách nước suôi lấy trong vườn cây ăn trái. Anh ta ngồi chồm hỗm hút xì gà và nhìn nàng mà không nói lời nào. Bên ngoài, bóng chiều kéo dài ngang đồng cỏ. Qua khung cửa sổ trống trước mặt, nàng thấy Núi nhả khói đen của nó vào buổi hoàng hôn oi bức. Đã đến giờ phải đi.
Nàng đứng lên, và anh ta cũng đứng lên theo. Anh ta choàng cánh tay mình quanh nàng với một vẻ quyền uy. “Nào, Charity, em phải theo anh trở về.”
Nàng nhìn anh ta và lắc đầu: “Em không bao giờ trở lại. Anh không biết đâu.”
“Anh không biết gì chứ?” Nàng lặng thinh và anh ta tiếp tục: “Những gì xảy ra trên bến tàu thì thật là kinh khủng, em có quyền nghĩ những gì em muốn. Nhưng nó không thể làm sự thật khác đi được: em không thể bị tổn thương vì những điều như vậy. Em phải cố gắng để quên. Và em phải hiểu rằng những người đàn ông đôi khi...”
“Em biết... Tại sao đàn ông lại...”
Anh ta đỏ mặt một chút về sự bắt bẻ này như thể nó đã chạm đến anh ta trong một cách mà nàng không ngờ.
“Vâng, rồi anh phải biết, người ta phải làm những việc đứng đắn chứ. Ông ta đã say xỉn.”
“Em cũng biết tất cả về việc đó. Em đã thấy ông ta như thế trước đây. Nhưng ông ta sẽ không dám nói với em cách đó nếu ông ta không...”
“Không cái gì?” Em muốn nói gì?”
“Không muốn em giống như những cô gái khác.” Nàng hạ giọng và nhìn ra nơi khác: “Vì vậy ông ta sẽ không phải đi ra ngoài.”
Harney trân trân nhìn nàng. Trong phút chốc anh ta không hiểu được ý nghĩ của nàng; rồi gương mặt nàng sa sầm: “Đồ đê tiện đáng khinh! Đồ côn đồ hạ lưu đê tiện!” Sự phẫn nộ của anh ta bộc phát, mặt đỏ như quả gấc tận thái dương: “Anh không bao giờ nghĩ tới - Chúa lòng lành, điều đó thật kinh tởm.”
“Em sẽ không bao giờ về lại nơi đó.” - nàng lặp lại một cách lì lợm.
“Không!” - anh ta tán thành.
Có một khoảng im lặng khá lâu, mà qua đó nàng hình dung rằng anh ta đang nhìn mặt nàng để xem xem nó tiết lộ với mình điều gì không. Đột nhiên nàng đỏ mặt mắc cỡ.
“Em biết anh nghĩ gì về em.” - nàng bùng nổ - “khi kể với anh những chuyện như vậy.”
Nhưng một lần nữa, khi nàng nói, nàng nhận ra anh ta không còn lắng nghe. Anh ta đến gần hơn và chộp lấy nàng như thể anh ta đang vồ lấy nàng ra khỏi mối nguy hiểm sắp xảy ra: đôi mắt mạnh mẽ nhìn vào mắt nàng, và nàng có thể cảm thấy trái tim anh ta nhảy mạnh khi ôm nàng vào lòng.
“Nào, hôn anh lần nữa đi - giống như đêm qua vậy!” - anh ta vừa nói vừa vén tóc nàng ra sau như thể để kéo trọn gương mặt nàng lên để nhận nụ hôn của anh ta.