Từ khi nhận lại đặc ân của cô Hatchard, Charity không dám xén bớt thời gian ở thư viện nữa. Nàng đến sớm một chút và tỏ ra tức giận khi con gái nhỏ nhất nhà Targitt đến trễ và lôi thôi trong công việc. Con bé này được cử đến để phụ nàng lau chùi và sắp xếp lại các quyển sách nhưng nó chỉ biết ngắm nhìn thằng con nhà Sollas qua cửa sổ mà thôi. Vì vậy mà những ngày ở thư viện dường như tẻ nhạt hơn bao giờ hết đôi với Charity sau những ngày tự do. Nàng cảm thấy khó thực hiện tốt nhiệm vụ của mình nếu Lucius Harney không được ủy quyền nghiên cứu với đám thợ mộc địa phương tìm cách nào tốt nhất để làm hệ thông thông gió cho “Memorial”, trước chuyến khởi hành của cô Hatchard.
Anh ta cẩn thận tiếp tục theo dõi công việc này vào những ngày thư viện mở cửa cho bạn đọc, còn Charity thì biết anh ta dành hết buổi chiều cho công ty của mình. Sự hiện diện của con gái nhà Targatt, và những khách qua đường đến để xem có thư hay không, dù họ trao đổi những lời nói tầm phào nhưng cũng đủ mê hoặc Charity trong sự đối nghịch giữa phép lịch sự công khai và mối thân tình thầm kín của họ.
Sau ngày họ lái xe ngựa lên ngôi nhà màu nâu là “ngày ở thư viện” nàng ngồi ở bàn của mình duyệt lại danh sách trong khi cô gái nhà Targatt một con mắt để trên cửa sổ, nhịp nhàng đọc tên của những quyển sách. Ý nghĩ của Charity để ở tận xa tít mù xa, nàng nghĩ đến ngôi nhà ảm đạm tối tăm bên đầm lầy và những lời an ủi mến yêu của Lucius Harney dưới bầu trời tranh tối tranh sáng trên quãng đường dài về nhà. Kể từ khi anh ta ở trọ trong nhà nàng, hôm đó là lần đầu tiên, anh ta đã không xuất hiện như thường lệ vào bữa ăn trưa. Không một thông tin nào giải thích việc vắng mặt của anh ta, còn ông Royall thì lầm lì hơn mọi khi, không lộ vẻ gì là ngạc nhiên mà cũng không có lời bình luận. Trong sự thờ ơ này không có dấu chỉ gì là đặc biệt. Đối với ông Royall cùng với hầu hết công dân của ông đều có một cách chấp nhận các sự kiện một cách thụ động, như thể là ông đi đến kết luận rằng không một ai ở North Dormer có thể hy vọng sửa đổi họ. Nhưng theo cảm tính, Charity thấy có một điều gì đó làm ông lo lắng trong yên lặng. Đó hầu như là Lucius Harney không bao giờ là một phần trong đời sống của họ: sự lạnh nhạt một cách trầm tĩnh của ông Royall dường như để muốn tìm hiểu thêm anh ta trong lãnh vực không thực tế này.
Khi ngồi làm việc, nàng cố gắng giũ bỏ sự thất vọng của mình về sự không xuất hiện của Harney. Chắc là có chuyện vặt vãnh nào đó giữ chân anh ta lại nên không thể về ăn trưa được, nhưng nàng chắc rằng anh phải háo hức lắm để về gặp lại nàng và anh ta sẽ không muốn chờ cho đến bữa ăn tối ngồi giữa ông Royall và bà già Verena. Nàng đang tự hỏi không biết những lời đầu tiên chàng nói sẽ là gì. Khi nàng nghe những tiếng bước chân bên ngoài, nàng cố gắng tìm cách để xua cô gái nhà Targatt đi về trước khi anh ta đến, nhưng kìa, anh ta đang đến cùng ngài Miles trên lối đi.
Vị giáo sĩ từ Hepburn hiếm khi đến North Dormer, trừ khi ông đến để làm lễ ở ngôi thánh đường cũ màu trắng mà thỉnh thoảng diễn ra tùy thuộc vào cộng đồng Episcopal. Ngài là một người nhanh nhẩu, lịch sự, năng nổ làm những điều tốt nhất cho những giáo dân còn sông trong nơi hoang dã, và ngài cũng quyết tâm làm suy yếu dần ảnh hưởng của nhà thờ Tin Lành ở cuối làng. Ngài quá bận rộn công việc giáo xứ ở Hepburn - nơi có những nhà máy giấy, và hội trường vì vậy ngài không thể chia sẻ thời gian cho vùng North Dormer được.
Charity cũng thường đến ngôi nhà thờ màu trắng giống như những người ngoan đạo nhất ở North Dormer. Nàng ngưỡng mộ ngài Miles. Suốt chuyên đi đến Nettleton, nàng tự tưởng tượng mình sẽ được kết hôn cùng một người có cái mũi rất thẳng và có cách nói quá ư là đẹp, được sống trong căn nhà xây bằng gạch nâu có giàn dây leo Virginia phủ bên ngoài. Thật là sốc khi biết được rằng đặc ân này đã dành cho một quý bà có mái tóc xoăn và một đứa con cao lớn, nhưng cái việc Lucius Harney đến đã xua tan ngài Miles ra khỏi giấc mộng của Charity. Khi ngài bước đi bên cạnh Harney trên lối đi thì nàng thấy ngài thật sự là một người đàn ông trung niên có cái đầu hói dưới chiếc mũ giáo sĩ và một cặp kính kiểu Hy Lạp trên mũi. Nàng tự hỏi không biết điều gì đã gọi ngài đến North Dormer vào ngày trong tuần như thế này, và cảm thấy hơi nhói tim khi Harney đưa ngài vào thư viện.
Chẳng mấy chốc nàng biết được sự xuất hiện của ngài là do cô Hatchard mời tới. Ngài phải ở lại Springfield một đôi ngày để giúp bạn giảng đạo và được cô Hatchard hỏi ý kiến khi Harney có kế hoạch thông gió cho “Memorial”. Điều nan giải là vấn đề về ngôi mộ mà cô Hatchard luôn luôn đắn đo, suy nghĩ. Cô Hatchard ước mong có được ý kiến của ngài Miles trước khi quyết định.
Ngài Miles giải thích: “Tôi được bác của cậu nói lại những thay đổi nào mà cậu muốn làm, nhưng những người ủy viên quản trị khác chưa hiểu, tốt hơn để tôi xem qua một chút.” Nhìn sang chàng trai một cách thân thiện, ngài nói thêm: “Tôi biết không một ai giỏi hơn cậu, nhưng dù sao nơi này còn có sự thiêng liêng đặc biệt của nó!”
“Tôi hy vọng một chút không khí trong lành sẽ không làm mạo phạm nó.” - Họ đi qua phía bên kia thư viện, trong khi Harney cười tham gia vào ý kiến của mình với vị giáo sĩ.
Ngài Miles chào hai cô gái với sự thân thiện sẵn có của mình, nhưng Charity nhận thấy ngài đang bận rộn với những việc khác. Chẳng mấy chốc, qua những mảnh rời rạc của câu chuyện nàng nghe được, nàng hiểu rằng ngài Miles bị mê hoặc về chuyến thăm viếng Springfield này đồng thời cũng tán thành về những ý kiến đề ra.
“À, đây là những người nhà Cooperson, dĩ nhiên cậu biết họ mà.” - nàng nghe ngài Miles nói vậy. “Đó là một ngôi nhà cũ kỹ, cầu kỳ! Ned Cooperson đã sưu tầm một vài hình ảnh thật sự gây ấn tượng” Những cái tên ngài nêu ra nàng thực sự không biết. “Vâng, vâng, nhóm nhạc Schaefer bốn người chơi ở Lyric Hall vào chiều Chủ Nhật, và tôi có được đặc ân nghe chúng một lần nữa ở Towers vào ngày Thứ Hai. Lần đầu họ chơi nhạc Bach và Beethoven... rất hay ở ngoài trời. Tôi nhìn thấy cô Balch nhiều lần, tôi thấy cô ta cũng đẹp lắm”.
Charity bỏ cây bút chì xuống, cũng quên hẳn bài ca của cô gái Targatt đang hát. Tại sao ngài Miles đột nhiên nêu tên Annabel Balch?
“Ủa, vậy sao?” - nàng nghe Harney đáp lại. Anh ta đưa cây gậy lên và tiếp tục nói: “Ngài xem, dự định của tôi là dời những cái kệ nầy sang một bên, và mở một cái cửa sổ tròn trên bức tường này, theo một trục ở dưới một tam giác gắn trước mặt tiền nhà.”
“Tôi nghĩ sau này cô ấy sẽ đến đây để ở với cô Hatchard phải không?” - ngài Miles tiếp tục dòng suy tưởng của mình, rồi quay lại và đầu ngửa ra sau:
“Vâng, vâng, tôi hiểu... tôi hiểu: sẽ có một cơn gió lùa mà không cần phải thay đổi cấu trúc thiết yếu nào. Tôi thấy không có sự phản đối nào.”
Việc thảo luận tiếp tục thêm vài phút nữa và hai người đàn ông di chuyển dần về phía bàn của nàng. Ngài Miles dừng lại và nhìn Charity với vẻ nghĩ ngợi: “Cô bị mệt một chút phải không cô gái thân mến? Không làm việc quá sức chứ? Ông Harney nói cô và Mamie được gửi đến thư viện để kiểm tra tỉ mỉ.” Ngài là người luôn luôn nhớ tên thánh của giáo dân mình và ngay lúc đó ngài chiếu đôi mắt kính nhân từ của mình lên cô gái nhà Targatt.
Rồi ngài quay sang Charity: “Đừng làm việc quá sức nhé, cưng! Đừng làm việc quá sức nhé! Lúc nào đó xuống Hepburn thăm bà Miles và tôi nhé!” - ngài vừa nói vừa bóp bàn tay nàng và vẫy tay chào tạm biệt Mamie Targatt. Ngài ra khỏi thư viện và Harney theo sau ngài.
Charity nghĩ mình đã phát hiện ra cái nhìn gượng gạo trong đôi mắt của Harney. Nàng cho rằng anh ta không muốn gặp riêng nàng. Đau nhói trong tim, nàng tự hỏi, liệu anh ta có hối tiếc những lời êm ái đã nói với mình hôm trước hay không. Những lời anh ta nói giống như là tình anh em hơn là tình yêu, nhưng nàng đã mất cảm giác chính xác trong giọng nói ân cần dịu dàng nồng ấm ấy rồi. Anh ta đã làm nàng có cảm giác sự thật mình là “vật vô chủ” từ Núi, anh ta ôm nàng trong vòng tay chỉ vì một lý do là an ủi nàng lúc nức nở mà thôi. Và khi chuyến đi đã chấm dứt, nàng ra khỏi xe, mệt mỏi, lạnh và ê chề đau khổ, nàng bước đi như thể mình là một cành cây nhỏ mọc trên mặt đất bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt.
Sao thái độ của anh ta thay đổi đột ngột thế, anh ta ra khỏi thư viện với ngài Miles để làm gì? Sự tưởng tượng của nàng không ngừng quyện chặt vào cái tên Annabel Balch: từ lúc nó được đề cập đến thì biểu lộ tình cảm của Harney đã thay đổi. Chà, Annabel Balch ở buổi dạ tiệc trong vườn ở Springfield, nom cực kỳ đẹp. Có lẽ ngài Miles đã gặp cô ta ở đó ngay cái lúc Charity và Harney đang ngồi trong ngôi nhà nhỏ, dơ dáy của gia đình Hatt có một người say sưa và một bà già nửa tỉnh nửa điên! Charity không biết đích xác dạ tiệc trong vườn là gì nhưng thoáng hiện trong trí mình những bồn hoa ở Nettleton làm nàng hình dung được cảnh tượng, và những hồi ức đố kỵ hiện về khi cô Balch ngày trước đã đến North Dormer trong dáng vẻ sang trọng, diễm lệ. Charity hiểu những mối giao thiệp nào mà cái tên gợi lên, và cảm thấy vật lộn một cách vô ích để tìm hiểu những ảnh hưởng tiềm ẩn trong cuộc sống của Harney.
Nàng từ phòng mình xuống để ăn tối thì anh ta không ở đó. Ngồi chờ ở ngưỡng cửa, nàng hồi tưởng lại giọng nói của ông Royall khi bình luận về câu chuyện hôm trước ngày họ khởi hành đến ngôi nhà màu nâu. Ông Royall ngồi cạnh nàng, ghế ngả ra phía sau, đôi ủng đen rộng của ông ta gác lên một thanh rào chắn. Tóc bạc rối bù dựng đứng trước trán giống như cái mào của một con chim đang giận dữ, và đôi má nâu như da thuộc thì nổi lên những đường gân như máu. Charity biết rằng những vết đỏ đó là dấu chỉ của một sự bùng nổ.
Đột nhiên ông ta nói: “Bữa ăn tối đâu? Bộ Verena Marsh lại ăn lén bánh ngọt sô đa nữa hả?”
Charity giật mình kinh hãi nhìn ông: “Tôi đoán bà ta chờ ông Harney.”
“Ông Harney, bà ta chờ hả? Tốt nhất là bà ta nên dọn chén đĩa lên đây. Hắn ta sẽ không đến đâu.” Ông Royall đứng lên đi ra cửa và gọi lớn bằng cái giọng có thể làm thủng màng nhĩ của bà già: “Mang bữa ăn tối lên đây, Verena.”
Charity phát run lên vì sợ. Có một cái gì đó đã xảy ra - nàng tin chắc như vậy - và ông Royall biết nó là cái gì. Nhưng Charity sẽ không thèm tỏ ra lo âu để ông không lên mặt. Nàng vẫn ngồi vào chỗ như thường lệ, và ông ngồi đối diện, rót ra một tách trà đặc trước khi đẩy bình trà sang cho nàng. Verena mang món trứng bác lên và ông cho một ít vào đĩa của mình. “Em sẽ ăn một ít chứ?” - ông ta hỏi. Charity nhổm người lên và bắt đầu ăn.
Trong giọng nói của ông Royall: “Hắn sẽ không đến đâu” đối với nàng dường như là điềm gở. Nàng thấy ông ta bỗng trở nên ghét Lucius Harney và nàng đoán được nguyên nhân gây nên sự thay đổi tình cảm này. Nhưng nàng không có cách chi tìm ra hành động thù địch nào để làm chàng trai lánh xa như vậy. Có lẽ ông Royall đơn giản chỉ muốn nàng không gặp lại chàng trai sau cái lần đi đến ngôi nhà màu nâu và lái xe ngựa về nhà muộn. Nàng ăn bữa tối xong với sự tỏ ra thờ ơ nhưng biết tỏng tòng tong rằng ông Rorall đang quan sát nàng và sự lo âu của nàng không qua mắt được ông ta.
Sau bữa ăn tối nàng lên phòng mình. Nàng nghe ông Royall đi ngang qua hành lang, chẳng mấy chốc có tiếng động ở dưới cửa sổ phòng nàng, điều này cho thấy ông đi ra cổng. Nàng ngồi trên giường, bắt đầu đấu tranh chính mình để chống lại mong muốn là xuống hỏi ông Royall có chuyên gì đã xảy ra. “Mình thà chết còn hơn là làm việc này.” - nàng lẩm bẩm một mình. Chỉ một lời nói thôi ông có thể làm cho nàng bớt căng thẳng về việc không rõ ràng này: nhưng nàng sẽ không thèm để cho ông ta hài lòng về sự lo lắng của mình.
Nàng nhổm dậy và trườn mình ra cửa sổ. Trời chạng vạng đi dần vào bóng đêm, nàng nhìn vầng trăng khuyết mảnh mai rọi xuống sườn đồi. Qua bóng đêm, nàng nhìn thấy một vài người đi trên đường, nhưng đêm về trời quá lạnh không thể ở đó mà cà kê, và chẳng mấy chốc những người tản bộ biến mất. Những ánh đèn đang bắt đầu lóe lên đó đây trong các cửa sổ. Một chùm ánh sáng rọi lên bụi hoa ly ly trắng ở sân nhà Hawees, và xa hơn dưới kia, ngọn đèn đường Rochester của nhà Carrick Fry rải ánh sáng xuống những chậu hoa mộc mạc giữa khu cỏ nhà ông ta.
Nàng đứng tựa cửa sổ một lúc lâu. Nhưng một sự lo lắng chế ngự nàng, và nàng xuống lầu, chộp cái mũ trên móc và vọt ra khỏi nhà. Ông Royall ngồi ở ngưỡng cửa, Verena bên cạnh ông ta, đôi bàn tay già nua khoanh trên chiếc váy vá chằng vá chịt. Khi Charity xuống những bậc thang, ông Royall gọi vói theo: “Em đi đâu vậy?” Nàng có thể trả lời một cách dễ dàng: “Đến nhà Orma.” hay “Xuống nhà Targatts” cũng nên, và cho dù câu trả lời có đúng hay không thì cũng mặc vì nàng không có một mục đích nào cả. Nhưng nàng khóc thầm, cương quyết không để cho ông ta có quyền dò hỏi nàng.
Nàng dừng lại ngoài cổng, nhìn lên nhìn xuống con đường. Bóng đêm trùm phủ, nàng nghĩ đến việc leo lên một ngọn đồi và ngụp sâu trong rừng thông rụng lá. Nàng phân vân nhìn dọc theo con đường, khi nàng làm thế thì một chùm ánh sáng xuất hiện xuyên qua những cây vân sam ở cổng nhà cô Hatchard. Lucius Harney ở đó, anh ta đã không đi cùng với ngài Miles xuống Hepburn như lúc đầu nàng tưởng tượng. Nhưng anh ta ở đâu vào bữa ăn chiều chứ, và cái gì làm anh ta lánh xa ông Royall? Ánh đèn là bằng chứng rõ ràng anh ta hiện diện ở đó: người giúp việc ở nhà cô Hatchard đã đi nghỉ lễ và vợ ông ta thì chỉ đến vào buổi sáng để dọn dẹp giường và chuẩn bị cà phê cho Harney. Chắc chắn là anh ta đang ngồi bên cạnh ngọn đèn vào lúc này. Để biết sự thật, Charity chỉ còn cách là đi nửa đoạn đường làng, và gõ cửa sổ có ánh đèn. Nàng chần chừ một vài phút rồi quay gót đến nhà cô Hatchard.
Nàng đi nhanh, căng mắt nhìn xem liệu có ai đi trên đường không. Khi đến nhà Fry, nàng băng ngang để tránh ánh đèn cửa sổ nhà họ. Bất cứ lúc nào nàng không vui, nàng cũng cảm thấy mình như cây nguyệt quế bị chiếm hữu ở trong một thế giới tàn nhẫn, dã man. Nhưng con đường vắng tanh, nàng bước qua cổng mà không cần quan sát và đi thẳng vào nhà.
Mặt tiền màu trắng của nó chập chờn mập mờ qua những hàng cây, chứng tỏ chỉ có một ngọn đèn duy nhất ở tầng trệt. Nàng cho là ngọn đèn đó ở phòng khách nhà cô Hatchard, nhưng bây giờ nàng thấy nó chiếu qua một cửa sổ ở một góc xa hơn của ngôi nhà. Nàng không biết căn phòng đó có cửa sổ, rồi nàng dừng lại dưới các tàng cây, quan sát xem có gì lạ không. Sau đó nàng di chuyển, bước đi thật nhẹ nhàng trên cỏ và tiếp tục đến thật gần ngôi nhà đến nỗi nếu có ai ở trong phòng cũng sẽ không phát hiện được nàng.
Cửa sổ mở trên một hiên nhà hẹp với một khung tò vò hình mắt cáo. Nàng đứng gần khung tò vò và rẽ những cành nhỏ của một cái cây có tên “cây ông lão” để nhìn vào một góc phòng. Nàng nhìn thấy một chân giường màu gỗ gụ, một bản in khắc trên tường, một bàn rửa mặt mà trên đó có một cái khăn tắm vắt rủ xuống, và trên một đầu bàn phủ khăn xanh để một cái đèn. Phân nửa ánh sáng được che lại bên phía nàng và phía bên kia là hai bàn tay rám nắng bóng láng, một tay cầm bút chì và tay kia cầm cây thước kẻ, đang chuyển tới chuyển lui trên bản vẽ.
Trái tim nàng nhảy thùm thụp và rồi nàng đứng yên. Anh ta đang ở đó, chỉ vài gang tấc. Trong khi linh hồn nàng đang dậy sóng ba đào thì anh ta ngồi đó tĩnh lặng trước bản vẽ. Cái cảnh của hai bàn tay đó, di chuyển thuần thục và chính xác, đánh thức nàng từ cõi mộng mơ. Đôi mắt nàng mở to để nhìn sự không tương xứng giữa những gì nàng thấy và nguyên nhân lo âu của mình, rồi nàng quay ngoắt đi khỏi cửa sổ khi một bàn tay của anh ta thình lình đẩy bản vẽ sang bên còn tay kia thì ném cây bút chì.
Charity đã thường thấy Harney ân cần yêu quý những bản vẽ của mình như thế nào, qua sự sạch sẽ và cách thức anh ta tiếp tục và kết thúc mỗi công việc. Sự đẩy bản vẽ của mình sang bên dường như đã tiết lộ một tâm trạng mới. Cử chỉ xảy ra cho thấy sự mất can đảm, hay chán ghét công việc của mình và nàng tự hỏi có phải anh ta cũng đã quá đau khổ do bởi những sự rắc rốì thầm kín nào chăng. Sự thôi thúc làm nàng bước lên hiên nhà và nhìn vào căn phòng.
Anh ta cởi áo ngoài, áo ghi lê, và mở hết các nút của chiếc áo sơ mi cổ thấp bằng vải flanen của mình, nàng thấy một cái cổ trẻ, khỏe mạnh và những bắp thịt trên ngực anh ta. Anh ta ngồi nhìn trừng trừng về phía trước, một cái nhìn mệt mỏi và chán ghét: như thể là anh đang nhìn vào sự khiển trách méo mó những đặc điểm của riêng mình. Trong một lúc, Charity nhìn anh kinh hãi như thể anh là một người xa lạ dưới những nét mặt quen thuộc, rồi nàng nhìn xéo qua anh thì thấy trên sàn nhà một chiếc vali đầy phân nửa quần áo. Nàng hiểu rằng anh quyết định và đang chuẩn bị ra mà không thèm gặp lại nàng. Nàng thấy rằng quyết định đó dù là do nguyên nhân gì đi nữa thì cũng làm cho anh thấy bối rối, và nàng tức khắc kết luận rằng anh thay đổi kế hoạch là có sự can thiệp lén lút của ông Royall. Tất cả những sự oán giận và nổi loạn cũ cháy bừng lên trộn lẫn vào nỗi khát khao trong nàng được gần kề bên Harney. Chỉ một vài giờ trước đây nàng đã cảm thấy an tâm trong sự hiểu biết về lòng trắc ẩn của anh ta, nay nàng bị quăng ném trở lại cô đơn gấp đôi.
Harney vẫn chưa biết có sự hiện diện của nàng. Anh ta ngồi không cử động, ưu tư nhìn về một điểm trên bức tường dán giấy. Anh ta không có chút nhuệ khí nào trong việc gói ghém hành lý, quần áo, giấy tờ nằm trên sàn nhà bên cạnh chiếc va li. Chẳng mấy chốc sau, anh ta thả lỏng hai bàn tay ra và đứng lên; còn Charity thì vội vàng rút lui, núp vào bậc thang của hiên nhà. Đêm thì quá đen đến nỗi anh ta không có nhiều cơ hội để thấy nàng nếu anh không mở cửa sổ trước khi nàng kịp chuồn đi và lẩn vào các tàng cây. Anh đứng một vài phút nhìn quanh phòng với cùng một cảm xúc như thể là anh tự ghét bản thân và mọi thứ thuộc về mình, rồi anh lại ngồi xuống bàn, vẽ thêm một vài nét và ném cây bút chì sang bên. Sau cùng anh ta đi lại trên sàn nhà, đá cái va li đang chắn lối đi, rồi nằm lên giường hai cánh tay khoanh dưới đầu, rầu rĩ, ủ ê nhìn lên trần nhà. Charity đã thấy anh ta trong tư thế như vậy khi nằm bên nàng trên thảm cỏ hoặc dưới những cây thông lá kim, đôi mắt dán chặt lên nền trời và niềm vui chiếu ngời trên gương mặt giống như những tia nắng lung linh đậu trên những cành lá. Nhưng bây giờ gương mặt đó thay đổi biết bao, nàng khó lòng mà biết được. Nỗi khổ của anh ta hòa quyện vào nỗi khổ của nàng làm nghẹn ngào dâng trào lên đôi mắt đẫm lệ.
Nàng tiếp tục núp ở cầu thang, nén thở và cố giữ mình trong trạng thái hoàn toàn bất động... Nàng có thể hình dung được sự thay đổi đột ngột trên gương mặt anh. Trong mỗi nhịp đập trong thân thể cứng đờ, nàng có thể thấy được đôi mắt mừng rỡ chào đón và đôi môi anh tặng nàng, nhưng có một cái gì đó giữ nàng lại trong bất động. Đó không phải là nỗi sợ không được phép dù là trần thế hay thiên đường. Trong cuộc sống của mình nàng chưa bao giờ sợ. Đơn giản là nàng hiểu nếu nàng bước vào thì sẽ có việc gì xảy ra. Đó là điều đã xảy ra giữa những người đàn ông trẻ và những cô gái ở North Dormer, họ phớt lờ công chúng và cười khúc khích về sự tinh ma kín đáo của mình. Đó là những gì mà cô Hatchard vẫn còn dốt nát dù đã già, nhưng bất cứ cô gái nào ở lớp của Charity cũng biết về việc ấy trước khi nàng nghỉ học. Đó là chuyện của Julia, chị gái của Ally Hawes và sau cùng thì chị đi đến Nettleton và người ta không bao giờ còn đề cập đến tên chị nữa.
Dĩ nhiên chuyện như thế kết thúc không giật gân gì cho lắm; mà có lẽ, nói một cách tổng thể thì cũng không có bi kịch gì ghê gớm. Charity luôn luôn hoài nghi rằng số phận xa lánh của Julia liệu có được đền bù gì chăng. Có những trường hợp khác còn kết thúc tồi tệ hơn, dân làng biết được, có nghĩa là khốn khổ, họ không được chấp nhận, cũng có những cuộc sống đi vào đau khổ không có lối thoát trong sự tù túng của thói đạo đức giả. Nhưng tất cả không là lý do giữ nàng lại.
Từ ngày hôm trước, nàng đã biết chính xác những gì nàng sẽ nghĩ nếu Harney ôm nàng trong vòng tay: bàn tay tan chảy trong lòng bàn tay, môi trên môi và ngọn lửa rừng rực bùng lên từ đầu đến chân nàng. Nhưng pha trộn vào cảm giác này còn có một cảm giác khác, đó là sự kiêu hãnh về sự yêu thích của anh ta dành cho nàng, sự nhẹ nhàng và sự cảm thông của anh ta khắc sâu trong tim nàng. Đôi khi tuổi trẻ bùng lên cơn xúc động, nàng tưởng tượng mình sẽ dễ tính như những cô gái trẻ khác, sẽ thực hiện lén lút những hành động mơn trớn, vuốt ve trong lúc trời chạng vạng; nhưng mình thì không thể nào tự hạ phẩm giá của mình trước Harney. Nàng không biết tại sao anh ta sẽ ra đi. Nhưng vì anh ta sắp đi nên nàng nghĩ mình sẽ không làm xấu hình ảnh của mình mà anh ta mang theo. Nếu anh ta yêu quí nàng thì phải tìm kiếm nàng: anh ta sẽ không phải ngạc nhiên trong việc âu yếm nàng vì nàng không giống những cô gái như Julia Hawes.
Không một âm thanh nào phát ra từ ngôi làng đang yên ngủ. Trong bóng đêm sâu thẳm của khu vườn, nàng nghe tiếng xào xạc bí ẩn của những cành lá như thể có những chú chim đêm chạm nhẹ vào chúng. Có tiếng bước chân đi qua phía cổng, nàng bèn lùi vào góc, nhưng tiếng bước chân nhỏ dần và để lại một sự yên tĩnh trầm lắng hơn. Gương mặt ủ rũ của Harney vẫn còn đọng lại trong đôi mắt nàng: nàng nghĩ mình sẽ không thể rời nơi này cho đến khi anh đi. Nhưng nàng bắt đầu tê cóng vì miễn cưỡng phải đứng yên một chỗ, và có những lúc đầu óc nàng rất mơ hồ đến nỗi dường như nàng bị níu chặt ở đó chỉ vì quá mệt mỏi.
Thời gian dài trôi qua trong sự thao thức kỳ lạ này. Harney vẫn nằm yên trên giường, bất động với đôi mắt đăm đăm mà theo sau đó là một cái gì cay đắng lắm. Sau cùng anh quờ quạng và nhẹ nhàng thay đổi thái độ. Trái tim Charity run lên. Nhưng anh chỉ vung hai tay và rồi chìm vào vị trí ban đầu. Với một tiếng thở dài thật sâu, anh hất mái tóc lòa xòa trên trán, rồi toàn thân thư giãn, đầu nghiêng về một bên gốì, và nàng thấy anh đang đi vào giấc ngủ. Biểu hiện ngọt ngào trở lại trên đôi môi anh ta, sư hốc hác tan dần trên gương mặt, để lại vẻ tươi tắn như một cậu bé.
Nàng nhổm dậy và rón rén bước đi.
Từ khi nhận lại đặc ân của cô Hatchard, Charity không dám xén bớt thời gian ở thư viện nữa. Nàng đến sớm một chút và tỏ ra tức giận khi con gái nhỏ nhất nhà Targitt đến trễ và lôi thôi trong công việc. Con bé này được cử đến để phụ nàng lau chùi và sắp xếp lại các quyển sách nhưng nó chỉ biết ngắm nhìn thằng con nhà Sollas qua cửa sổ mà thôi. Vì vậy mà những ngày ở thư viện dường như tẻ nhạt hơn bao giờ hết đôi với Charity sau những ngày tự do. Nàng cảm thấy khó thực hiện tốt nhiệm vụ của mình nếu Lucius Harney không được ủy quyền nghiên cứu với đám thợ mộc địa phương tìm cách nào tốt nhất để làm hệ thông thông gió cho “Memorial”, trước chuyến khởi hành của cô Hatchard.
Anh ta cẩn thận tiếp tục theo dõi công việc này vào những ngày thư viện mở cửa cho bạn đọc, còn Charity thì biết anh ta dành hết buổi chiều cho công ty của mình. Sự hiện diện của con gái nhà Targatt, và những khách qua đường đến để xem có thư hay không, dù họ trao đổi những lời nói tầm phào nhưng cũng đủ mê hoặc Charity trong sự đối nghịch giữa phép lịch sự công khai và mối thân tình thầm kín của họ.
Sau ngày họ lái xe ngựa lên ngôi nhà màu nâu là “ngày ở thư viện” nàng ngồi ở bàn của mình duyệt lại danh sách trong khi cô gái nhà Targatt một con mắt để trên cửa sổ, nhịp nhàng đọc tên của những quyển sách. Ý nghĩ của Charity để ở tận xa tít mù xa, nàng nghĩ đến ngôi nhà ảm đạm tối tăm bên đầm lầy và những lời an ủi mến yêu của Lucius Harney dưới bầu trời tranh tối tranh sáng trên quãng đường dài về nhà. Kể từ khi anh ta ở trọ trong nhà nàng, hôm đó là lần đầu tiên, anh ta đã không xuất hiện như thường lệ vào bữa ăn trưa. Không một thông tin nào giải thích việc vắng mặt của anh ta, còn ông Royall thì lầm lì hơn mọi khi, không lộ vẻ gì là ngạc nhiên mà cũng không có lời bình luận. Trong sự thờ ơ này không có dấu chỉ gì là đặc biệt. Đối với ông Royall cùng với hầu hết công dân của ông đều có một cách chấp nhận các sự kiện một cách thụ động, như thể là ông đi đến kết luận rằng không một ai ở North Dormer có thể hy vọng sửa đổi họ. Nhưng theo cảm tính, Charity thấy có một điều gì đó làm ông lo lắng trong yên lặng. Đó hầu như là Lucius Harney không bao giờ là một phần trong đời sống của họ: sự lạnh nhạt một cách trầm tĩnh của ông Royall dường như để muốn tìm hiểu thêm anh ta trong lãnh vực không thực tế này.
Khi ngồi làm việc, nàng cố gắng giũ bỏ sự thất vọng của mình về sự không xuất hiện của Harney. Chắc là có chuyện vặt vãnh nào đó giữ chân anh ta lại nên không thể về ăn trưa được, nhưng nàng chắc rằng anh phải háo hức lắm để về gặp lại nàng và anh ta sẽ không muốn chờ cho đến bữa ăn tối ngồi giữa ông Royall và bà già Verena. Nàng đang tự hỏi không biết những lời đầu tiên chàng nói sẽ là gì. Khi nàng nghe những tiếng bước chân bên ngoài, nàng cố gắng tìm cách để xua cô gái nhà Targatt đi về trước khi anh ta đến, nhưng kìa, anh ta đang đến cùng ngài Miles trên lối đi.
Vị giáo sĩ từ Hepburn hiếm khi đến North Dormer, trừ khi ông đến để làm lễ ở ngôi thánh đường cũ màu trắng mà thỉnh thoảng diễn ra tùy thuộc vào cộng đồng Episcopal. Ngài là một người nhanh nhẩu, lịch sự, năng nổ làm những điều tốt nhất cho những giáo dân còn sông trong nơi hoang dã, và ngài cũng quyết tâm làm suy yếu dần ảnh hưởng của nhà thờ Tin Lành ở cuối làng. Ngài quá bận rộn công việc giáo xứ ở Hepburn - nơi có những nhà máy giấy, và hội trường vì vậy ngài không thể chia sẻ thời gian cho vùng North Dormer được.
Charity cũng thường đến ngôi nhà thờ màu trắng giống như những người ngoan đạo nhất ở North Dormer. Nàng ngưỡng mộ ngài Miles. Suốt chuyên đi đến Nettleton, nàng tự tưởng tượng mình sẽ được kết hôn cùng một người có cái mũi rất thẳng và có cách nói quá ư là đẹp, được sống trong căn nhà xây bằng gạch nâu có giàn dây leo Virginia phủ bên ngoài. Thật là sốc khi biết được rằng đặc ân này đã dành cho một quý bà có mái tóc xoăn và một đứa con cao lớn, nhưng cái việc Lucius Harney đến đã xua tan ngài Miles ra khỏi giấc mộng của Charity. Khi ngài bước đi bên cạnh Harney trên lối đi thì nàng thấy ngài thật sự là một người đàn ông trung niên có cái đầu hói dưới chiếc mũ giáo sĩ và một cặp kính kiểu Hy Lạp trên mũi. Nàng tự hỏi không biết điều gì đã gọi ngài đến North Dormer vào ngày trong tuần như thế này, và cảm thấy hơi nhói tim khi Harney đưa ngài vào thư viện.
Chẳng mấy chốc nàng biết được sự xuất hiện của ngài là do cô Hatchard mời tới. Ngài phải ở lại Springfield một đôi ngày để giúp bạn giảng đạo và được cô Hatchard hỏi ý kiến khi Harney có kế hoạch thông gió cho “Memorial”. Điều nan giải là vấn đề về ngôi mộ mà cô Hatchard luôn luôn đắn đo, suy nghĩ. Cô Hatchard ước mong có được ý kiến của ngài Miles trước khi quyết định.
Ngài Miles giải thích: “Tôi được bác của cậu nói lại những thay đổi nào mà cậu muốn làm, nhưng những người ủy viên quản trị khác chưa hiểu, tốt hơn để tôi xem qua một chút.” Nhìn sang chàng trai một cách thân thiện, ngài nói thêm: “Tôi biết không một ai giỏi hơn cậu, nhưng dù sao nơi này còn có sự thiêng liêng đặc biệt của nó!”
“Tôi hy vọng một chút không khí trong lành sẽ không làm mạo phạm nó.” - Họ đi qua phía bên kia thư viện, trong khi Harney cười tham gia vào ý kiến của mình với vị giáo sĩ.
Ngài Miles chào hai cô gái với sự thân thiện sẵn có của mình, nhưng Charity nhận thấy ngài đang bận rộn với những việc khác. Chẳng mấy chốc, qua những mảnh rời rạc của câu chuyện nàng nghe được, nàng hiểu rằng ngài Miles bị mê hoặc về chuyến thăm viếng Springfield này đồng thời cũng tán thành về những ý kiến đề ra.
“À, đây là những người nhà Cooperson, dĩ nhiên cậu biết họ mà.” - nàng nghe ngài Miles nói vậy. “Đó là một ngôi nhà cũ kỹ, cầu kỳ! Ned Cooperson đã sưu tầm một vài hình ảnh thật sự gây ấn tượng” Những cái tên ngài nêu ra nàng thực sự không biết. “Vâng, vâng, nhóm nhạc Schaefer bốn người chơi ở Lyric Hall vào chiều Chủ Nhật, và tôi có được đặc ân nghe chúng một lần nữa ở Towers vào ngày Thứ Hai. Lần đầu họ chơi nhạc Bach và Beethoven... rất hay ở ngoài trời. Tôi nhìn thấy cô Balch nhiều lần, tôi thấy cô ta cũng đẹp lắm”.
Charity bỏ cây bút chì xuống, cũng quên hẳn bài ca của cô gái Targatt đang hát. Tại sao ngài Miles đột nhiên nêu tên Annabel Balch?
“Ủa, vậy sao?” - nàng nghe Harney đáp lại. Anh ta đưa cây gậy lên và tiếp tục nói: “Ngài xem, dự định của tôi là dời những cái kệ nầy sang một bên, và mở một cái cửa sổ tròn trên bức tường này, theo một trục ở dưới một tam giác gắn trước mặt tiền nhà.”
“Tôi nghĩ sau này cô ấy sẽ đến đây để ở với cô Hatchard phải không?” - ngài Miles tiếp tục dòng suy tưởng của mình, rồi quay lại và đầu ngửa ra sau:
“Vâng, vâng, tôi hiểu... tôi hiểu: sẽ có một cơn gió lùa mà không cần phải thay đổi cấu trúc thiết yếu nào. Tôi thấy không có sự phản đối nào.”
Việc thảo luận tiếp tục thêm vài phút nữa và hai người đàn ông di chuyển dần về phía bàn của nàng. Ngài Miles dừng lại và nhìn Charity với vẻ nghĩ ngợi: “Cô bị mệt một chút phải không cô gái thân mến? Không làm việc quá sức chứ? Ông Harney nói cô và Mamie được gửi đến thư viện để kiểm tra tỉ mỉ.” Ngài là người luôn luôn nhớ tên thánh của giáo dân mình và ngay lúc đó ngài chiếu đôi mắt kính nhân từ của mình lên cô gái nhà Targatt.
Rồi ngài quay sang Charity: “Đừng làm việc quá sức nhé, cưng! Đừng làm việc quá sức nhé! Lúc nào đó xuống Hepburn thăm bà Miles và tôi nhé!” - ngài vừa nói vừa bóp bàn tay nàng và vẫy tay chào tạm biệt Mamie Targatt. Ngài ra khỏi thư viện và Harney theo sau ngài.
Charity nghĩ mình đã phát hiện ra cái nhìn gượng gạo trong đôi mắt của Harney. Nàng cho rằng anh ta không muốn gặp riêng nàng. Đau nhói trong tim, nàng tự hỏi, liệu anh ta có hối tiếc những lời êm ái đã nói với mình hôm trước hay không. Những lời anh ta nói giống như là tình anh em hơn là tình yêu, nhưng nàng đã mất cảm giác chính xác trong giọng nói ân cần dịu dàng nồng ấm ấy rồi. Anh ta đã làm nàng có cảm giác sự thật mình là “vật vô chủ” từ Núi, anh ta ôm nàng trong vòng tay chỉ vì một lý do là an ủi nàng lúc nức nở mà thôi. Và khi chuyến đi đã chấm dứt, nàng ra khỏi xe, mệt mỏi, lạnh và ê chề đau khổ, nàng bước đi như thể mình là một cành cây nhỏ mọc trên mặt đất bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt.
Sao thái độ của anh ta thay đổi đột ngột thế, anh ta ra khỏi thư viện với ngài Miles để làm gì? Sự tưởng tượng của nàng không ngừng quyện chặt vào cái tên Annabel Balch: từ lúc nó được đề cập đến thì biểu lộ tình cảm của Harney đã thay đổi. Chà, Annabel Balch ở buổi dạ tiệc trong vườn ở Springfield, nom cực kỳ đẹp. Có lẽ ngài Miles đã gặp cô ta ở đó ngay cái lúc Charity và Harney đang ngồi trong ngôi nhà nhỏ, dơ dáy của gia đình Hatt có một người say sưa và một bà già nửa tỉnh nửa điên! Charity không biết đích xác dạ tiệc trong vườn là gì nhưng thoáng hiện trong trí mình những bồn hoa ở Nettleton làm nàng hình dung được cảnh tượng, và những hồi ức đố kỵ hiện về khi cô Balch ngày trước đã đến North Dormer trong dáng vẻ sang trọng, diễm lệ. Charity hiểu những mối giao thiệp nào mà cái tên gợi lên, và cảm thấy vật lộn một cách vô ích để tìm hiểu những ảnh hưởng tiềm ẩn trong cuộc sống của Harney.
Nàng từ phòng mình xuống để ăn tối thì anh ta không ở đó. Ngồi chờ ở ngưỡng cửa, nàng hồi tưởng lại giọng nói của ông Royall khi bình luận về câu chuyện hôm trước ngày họ khởi hành đến ngôi nhà màu nâu. Ông Royall ngồi cạnh nàng, ghế ngả ra phía sau, đôi ủng đen rộng của ông ta gác lên một thanh rào chắn. Tóc bạc rối bù dựng đứng trước trán giống như cái mào của một con chim đang giận dữ, và đôi má nâu như da thuộc thì nổi lên những đường gân như máu. Charity biết rằng những vết đỏ đó là dấu chỉ của một sự bùng nổ.
Đột nhiên ông ta nói: “Bữa ăn tối đâu? Bộ Verena Marsh lại ăn lén bánh ngọt sô đa nữa hả?”
Charity giật mình kinh hãi nhìn ông: “Tôi đoán bà ta chờ ông Harney.”
“Ông Harney, bà ta chờ hả? Tốt nhất là bà ta nên dọn chén đĩa lên đây. Hắn ta sẽ không đến đâu.” Ông Royall đứng lên đi ra cửa và gọi lớn bằng cái giọng có thể làm thủng màng nhĩ của bà già: “Mang bữa ăn tối lên đây, Verena.”
Charity phát run lên vì sợ. Có một cái gì đó đã xảy ra - nàng tin chắc như vậy - và ông Royall biết nó là cái gì. Nhưng Charity sẽ không thèm tỏ ra lo âu để ông không lên mặt. Nàng vẫn ngồi vào chỗ như thường lệ, và ông ngồi đối diện, rót ra một tách trà đặc trước khi đẩy bình trà sang cho nàng. Verena mang món trứng bác lên và ông cho một ít vào đĩa của mình. “Em sẽ ăn một ít chứ?” - ông ta hỏi. Charity nhổm người lên và bắt đầu ăn.
Trong giọng nói của ông Royall: “Hắn sẽ không đến đâu” đối với nàng dường như là điềm gở. Nàng thấy ông ta bỗng trở nên ghét Lucius Harney và nàng đoán được nguyên nhân gây nên sự thay đổi tình cảm này. Nhưng nàng không có cách chi tìm ra hành động thù địch nào để làm chàng trai lánh xa như vậy. Có lẽ ông Royall đơn giản chỉ muốn nàng không gặp lại chàng trai sau cái lần đi đến ngôi nhà màu nâu và lái xe ngựa về nhà muộn. Nàng ăn bữa tối xong với sự tỏ ra thờ ơ nhưng biết tỏng tòng tong rằng ông Rorall đang quan sát nàng và sự lo âu của nàng không qua mắt được ông ta.
Sau bữa ăn tối nàng lên phòng mình. Nàng nghe ông Royall đi ngang qua hành lang, chẳng mấy chốc có tiếng động ở dưới cửa sổ phòng nàng, điều này cho thấy ông đi ra cổng. Nàng ngồi trên giường, bắt đầu đấu tranh chính mình để chống lại mong muốn là xuống hỏi ông Royall có chuyên gì đã xảy ra. “Mình thà chết còn hơn là làm việc này.” - nàng lẩm bẩm một mình. Chỉ một lời nói thôi ông có thể làm cho nàng bớt căng thẳng về việc không rõ ràng này: nhưng nàng sẽ không thèm để cho ông ta hài lòng về sự lo lắng của mình.
Nàng nhổm dậy và trườn mình ra cửa sổ. Trời chạng vạng đi dần vào bóng đêm, nàng nhìn vầng trăng khuyết mảnh mai rọi xuống sườn đồi. Qua bóng đêm, nàng nhìn thấy một vài người đi trên đường, nhưng đêm về trời quá lạnh không thể ở đó mà cà kê, và chẳng mấy chốc những người tản bộ biến mất. Những ánh đèn đang bắt đầu lóe lên đó đây trong các cửa sổ. Một chùm ánh sáng rọi lên bụi hoa ly ly trắng ở sân nhà Hawees, và xa hơn dưới kia, ngọn đèn đường Rochester của nhà Carrick Fry rải ánh sáng xuống những chậu hoa mộc mạc giữa khu cỏ nhà ông ta.
Nàng đứng tựa cửa sổ một lúc lâu. Nhưng một sự lo lắng chế ngự nàng, và nàng xuống lầu, chộp cái mũ trên móc và vọt ra khỏi nhà. Ông Royall ngồi ở ngưỡng cửa, Verena bên cạnh ông ta, đôi bàn tay già nua khoanh trên chiếc váy vá chằng vá chịt. Khi Charity xuống những bậc thang, ông Royall gọi vói theo: “Em đi đâu vậy?” Nàng có thể trả lời một cách dễ dàng: “Đến nhà Orma.” hay “Xuống nhà Targatts” cũng nên, và cho dù câu trả lời có đúng hay không thì cũng mặc vì nàng không có một mục đích nào cả. Nhưng nàng khóc thầm, cương quyết không để cho ông ta có quyền dò hỏi nàng.
Nàng dừng lại ngoài cổng, nhìn lên nhìn xuống con đường. Bóng đêm trùm phủ, nàng nghĩ đến việc leo lên một ngọn đồi và ngụp sâu trong rừng thông rụng lá. Nàng phân vân nhìn dọc theo con đường, khi nàng làm thế thì một chùm ánh sáng xuất hiện xuyên qua những cây vân sam ở cổng nhà cô Hatchard. Lucius Harney ở đó, anh ta đã không đi cùng với ngài Miles xuống Hepburn như lúc đầu nàng tưởng tượng. Nhưng anh ta ở đâu vào bữa ăn chiều chứ, và cái gì làm anh ta lánh xa ông Royall? Ánh đèn là bằng chứng rõ ràng anh ta hiện diện ở đó: người giúp việc ở nhà cô Hatchard đã đi nghỉ lễ và vợ ông ta thì chỉ đến vào buổi sáng để dọn dẹp giường và chuẩn bị cà phê cho Harney. Chắc chắn là anh ta đang ngồi bên cạnh ngọn đèn vào lúc này. Để biết sự thật, Charity chỉ còn cách là đi nửa đoạn đường làng, và gõ cửa sổ có ánh đèn. Nàng chần chừ một vài phút rồi quay gót đến nhà cô Hatchard.
Nàng đi nhanh, căng mắt nhìn xem liệu có ai đi trên đường không. Khi đến nhà Fry, nàng băng ngang để tránh ánh đèn cửa sổ nhà họ. Bất cứ lúc nào nàng không vui, nàng cũng cảm thấy mình như cây nguyệt quế bị chiếm hữu ở trong một thế giới tàn nhẫn, dã man. Nhưng con đường vắng tanh, nàng bước qua cổng mà không cần quan sát và đi thẳng vào nhà.
Mặt tiền màu trắng của nó chập chờn mập mờ qua những hàng cây, chứng tỏ chỉ có một ngọn đèn duy nhất ở tầng trệt. Nàng cho là ngọn đèn đó ở phòng khách nhà cô Hatchard, nhưng bây giờ nàng thấy nó chiếu qua một cửa sổ ở một góc xa hơn của ngôi nhà. Nàng không biết căn phòng đó có cửa sổ, rồi nàng dừng lại dưới các tàng cây, quan sát xem có gì lạ không. Sau đó nàng di chuyển, bước đi thật nhẹ nhàng trên cỏ và tiếp tục đến thật gần ngôi nhà đến nỗi nếu có ai ở trong phòng cũng sẽ không phát hiện được nàng.
Cửa sổ mở trên một hiên nhà hẹp với một khung tò vò hình mắt cáo. Nàng đứng gần khung tò vò và rẽ những cành nhỏ của một cái cây có tên “cây ông lão” để nhìn vào một góc phòng. Nàng nhìn thấy một chân giường màu gỗ gụ, một bản in khắc trên tường, một bàn rửa mặt mà trên đó có một cái khăn tắm vắt rủ xuống, và trên một đầu bàn phủ khăn xanh để một cái đèn. Phân nửa ánh sáng được che lại bên phía nàng và phía bên kia là hai bàn tay rám nắng bóng láng, một tay cầm bút chì và tay kia cầm cây thước kẻ, đang chuyển tới chuyển lui trên bản vẽ.
Trái tim nàng nhảy thùm thụp và rồi nàng đứng yên. Anh ta đang ở đó, chỉ vài gang tấc. Trong khi linh hồn nàng đang dậy sóng ba đào thì anh ta ngồi đó tĩnh lặng trước bản vẽ. Cái cảnh của hai bàn tay đó, di chuyển thuần thục và chính xác, đánh thức nàng từ cõi mộng mơ. Đôi mắt nàng mở to để nhìn sự không tương xứng giữa những gì nàng thấy và nguyên nhân lo âu của mình, rồi nàng quay ngoắt đi khỏi cửa sổ khi một bàn tay của anh ta thình lình đẩy bản vẽ sang bên còn tay kia thì ném cây bút chì.
Charity đã thường thấy Harney ân cần yêu quý những bản vẽ của mình như thế nào, qua sự sạch sẽ và cách thức anh ta tiếp tục và kết thúc mỗi công việc. Sự đẩy bản vẽ của mình sang bên dường như đã tiết lộ một tâm trạng mới. Cử chỉ xảy ra cho thấy sự mất can đảm, hay chán ghét công việc của mình và nàng tự hỏi có phải anh ta cũng đã quá đau khổ do bởi những sự rắc rốì thầm kín nào chăng. Sự thôi thúc làm nàng bước lên hiên nhà và nhìn vào căn phòng.
Anh ta cởi áo ngoài, áo ghi lê, và mở hết các nút của chiếc áo sơ mi cổ thấp bằng vải flanen của mình, nàng thấy một cái cổ trẻ, khỏe mạnh và những bắp thịt trên ngực anh ta. Anh ta ngồi nhìn trừng trừng về phía trước, một cái nhìn mệt mỏi và chán ghét: như thể là anh đang nhìn vào sự khiển trách méo mó những đặc điểm của riêng mình. Trong một lúc, Charity nhìn anh kinh hãi như thể anh là một người xa lạ dưới những nét mặt quen thuộc, rồi nàng nhìn xéo qua anh thì thấy trên sàn nhà một chiếc vali đầy phân nửa quần áo. Nàng hiểu rằng anh quyết định và đang chuẩn bị ra mà không thèm gặp lại nàng. Nàng thấy rằng quyết định đó dù là do nguyên nhân gì đi nữa thì cũng làm cho anh thấy bối rối, và nàng tức khắc kết luận rằng anh thay đổi kế hoạch là có sự can thiệp lén lút của ông Royall. Tất cả những sự oán giận và nổi loạn cũ cháy bừng lên trộn lẫn vào nỗi khát khao trong nàng được gần kề bên Harney. Chỉ một vài giờ trước đây nàng đã cảm thấy an tâm trong sự hiểu biết về lòng trắc ẩn của anh ta, nay nàng bị quăng ném trở lại cô đơn gấp đôi.
Harney vẫn chưa biết có sự hiện diện của nàng. Anh ta ngồi không cử động, ưu tư nhìn về một điểm trên bức tường dán giấy. Anh ta không có chút nhuệ khí nào trong việc gói ghém hành lý, quần áo, giấy tờ nằm trên sàn nhà bên cạnh chiếc va li. Chẳng mấy chốc sau, anh ta thả lỏng hai bàn tay ra và đứng lên; còn Charity thì vội vàng rút lui, núp vào bậc thang của hiên nhà. Đêm thì quá đen đến nỗi anh ta không có nhiều cơ hội để thấy nàng nếu anh không mở cửa sổ trước khi nàng kịp chuồn đi và lẩn vào các tàng cây. Anh đứng một vài phút nhìn quanh phòng với cùng một cảm xúc như thể là anh tự ghét bản thân và mọi thứ thuộc về mình, rồi anh lại ngồi xuống bàn, vẽ thêm một vài nét và ném cây bút chì sang bên. Sau cùng anh ta đi lại trên sàn nhà, đá cái va li đang chắn lối đi, rồi nằm lên giường hai cánh tay khoanh dưới đầu, rầu rĩ, ủ ê nhìn lên trần nhà. Charity đã thấy anh ta trong tư thế như vậy khi nằm bên nàng trên thảm cỏ hoặc dưới những cây thông lá kim, đôi mắt dán chặt lên nền trời và niềm vui chiếu ngời trên gương mặt giống như những tia nắng lung linh đậu trên những cành lá. Nhưng bây giờ gương mặt đó thay đổi biết bao, nàng khó lòng mà biết được. Nỗi khổ của anh ta hòa quyện vào nỗi khổ của nàng làm nghẹn ngào dâng trào lên đôi mắt đẫm lệ.
Nàng tiếp tục núp ở cầu thang, nén thở và cố giữ mình trong trạng thái hoàn toàn bất động... Nàng có thể hình dung được sự thay đổi đột ngột trên gương mặt anh. Trong mỗi nhịp đập trong thân thể cứng đờ, nàng có thể thấy được đôi mắt mừng rỡ chào đón và đôi môi anh tặng nàng, nhưng có một cái gì đó giữ nàng lại trong bất động. Đó không phải là nỗi sợ không được phép dù là trần thế hay thiên đường. Trong cuộc sống của mình nàng chưa bao giờ sợ. Đơn giản là nàng hiểu nếu nàng bước vào thì sẽ có việc gì xảy ra. Đó là điều đã xảy ra giữa những người đàn ông trẻ và những cô gái ở North Dormer, họ phớt lờ công chúng và cười khúc khích về sự tinh ma kín đáo của mình. Đó là những gì mà cô Hatchard vẫn còn dốt nát dù đã già, nhưng bất cứ cô gái nào ở lớp của Charity cũng biết về việc ấy trước khi nàng nghỉ học. Đó là chuyện của Julia, chị gái của Ally Hawes và sau cùng thì chị đi đến Nettleton và người ta không bao giờ còn đề cập đến tên chị nữa.
Dĩ nhiên chuyện như thế kết thúc không giật gân gì cho lắm; mà có lẽ, nói một cách tổng thể thì cũng không có bi kịch gì ghê gớm. Charity luôn luôn hoài nghi rằng số phận xa lánh của Julia liệu có được đền bù gì chăng. Có những trường hợp khác còn kết thúc tồi tệ hơn, dân làng biết được, có nghĩa là khốn khổ, họ không được chấp nhận, cũng có những cuộc sống đi vào đau khổ không có lối thoát trong sự tù túng của thói đạo đức giả. Nhưng tất cả không là lý do giữ nàng lại.
Từ ngày hôm trước, nàng đã biết chính xác những gì nàng sẽ nghĩ nếu Harney ôm nàng trong vòng tay: bàn tay tan chảy trong lòng bàn tay, môi trên môi và ngọn lửa rừng rực bùng lên từ đầu đến chân nàng. Nhưng pha trộn vào cảm giác này còn có một cảm giác khác, đó là sự kiêu hãnh về sự yêu thích của anh ta dành cho nàng, sự nhẹ nhàng và sự cảm thông của anh ta khắc sâu trong tim nàng. Đôi khi tuổi trẻ bùng lên cơn xúc động, nàng tưởng tượng mình sẽ dễ tính như những cô gái trẻ khác, sẽ thực hiện lén lút những hành động mơn trớn, vuốt ve trong lúc trời chạng vạng; nhưng mình thì không thể nào tự hạ phẩm giá của mình trước Harney. Nàng không biết tại sao anh ta sẽ ra đi. Nhưng vì anh ta sắp đi nên nàng nghĩ mình sẽ không làm xấu hình ảnh của mình mà anh ta mang theo. Nếu anh ta yêu quí nàng thì phải tìm kiếm nàng: anh ta sẽ không phải ngạc nhiên trong việc âu yếm nàng vì nàng không giống những cô gái như Julia Hawes.
Không một âm thanh nào phát ra từ ngôi làng đang yên ngủ. Trong bóng đêm sâu thẳm của khu vườn, nàng nghe tiếng xào xạc bí ẩn của những cành lá như thể có những chú chim đêm chạm nhẹ vào chúng. Có tiếng bước chân đi qua phía cổng, nàng bèn lùi vào góc, nhưng tiếng bước chân nhỏ dần và để lại một sự yên tĩnh trầm lắng hơn. Gương mặt ủ rũ của Harney vẫn còn đọng lại trong đôi mắt nàng: nàng nghĩ mình sẽ không thể rời nơi này cho đến khi anh đi. Nhưng nàng bắt đầu tê cóng vì miễn cưỡng phải đứng yên một chỗ, và có những lúc đầu óc nàng rất mơ hồ đến nỗi dường như nàng bị níu chặt ở đó chỉ vì quá mệt mỏi.
Thời gian dài trôi qua trong sự thao thức kỳ lạ này. Harney vẫn nằm yên trên giường, bất động với đôi mắt đăm đăm mà theo sau đó là một cái gì cay đắng lắm. Sau cùng anh quờ quạng và nhẹ nhàng thay đổi thái độ. Trái tim Charity run lên. Nhưng anh chỉ vung hai tay và rồi chìm vào vị trí ban đầu. Với một tiếng thở dài thật sâu, anh hất mái tóc lòa xòa trên trán, rồi toàn thân thư giãn, đầu nghiêng về một bên gốì, và nàng thấy anh đang đi vào giấc ngủ. Biểu hiện ngọt ngào trở lại trên đôi môi anh ta, sư hốc hác tan dần trên gương mặt, để lại vẻ tươi tắn như một cậu bé.
Nàng nhổm dậy và rón rén bước đi.