------------------------
Dương Lăng đến cổng cung, kiệu phu và bốn tay thị vệ tự đi sang chỗ tránh gió để sưởi nắng và nghỉ ngơi. Chỗ ở của Dương Lăng cách nơi này quá xa. Thường ngày y đều cưỡi ngựa vào thành nhưng lúc này hai tên đầu sỏ của bọn thổ phỉ một đã chạy trốn, một thì không biết có còn ẩn náu trong kinh sư không. Cho nên Dương Lăng không dám chủ quan, sợ chẳng may sẽ bị trúng tên bắn lén.
Chiếc ghế mềm nửa nằm hoa lệ trong chiếc kiệu lớn này đã bị bỏ đi, thay bằng hai băng ghế, một trước và một sau. Ngồi đối diện tấm rèm vải mỏng che cửa sổ kiệu ở băng trước là Ngũ Hán Siêu đang ăn mặc giống y. Dương Lăng ngồi băng phía sau, nhìn từ bên ngoài tuyệt không thấy chỗ nào đáng ngờ.
Dương Lăng là 'khách quen' trong cung, dù thị vệ trực gác được thay phiên ba ngày một lần nhưng ai cũng có thể nhận ra vị đại nhân này. Ngọ môn tướng quân (viên quan gác cổng Ngọ môn - ND) nhận lấy thẻ bài bằng ngà, liếc qua lấy lệ, rồi tươi cười hai tay dâng trả cho Dương Lăng.
Dương Lăng thuận tay nhét thẻ bài vào trong người rồi hỏi:
- Hoàng thượng vẫn chưa bãi triều à?
Ngọ môn tướng quân cười đáp:
- Dạ phải thưa đại nhân, hạ quan vẫn luôn canh gác cổng cung, các vị đại nhân chưa rời cung đâu.
Dương Lăng khẽ gật đầu, không xuôi theo hướng cầu Kim Thủy, mà đi vòng qua điện Thái Hoà. Lúc này tiếng chuông, trống đồng loạt vang lên, bá quan bãi triều, Dương Lăng đứng dưới cột hành lang lầu gác, đợi cho bá quan văn võ lui hết ra, đội nghi trượng của hoàng đế đi về phía hậu điện, đến khi chiếc lọng vàng khuất khỏi tầm mắt, y mới tiếp tục cất bước về phía trung điện.
Đến trước điện Hoa Cái, chỉ thấy có hai vị đại nhân đang nổi giận đùng đùng bước ra khỏi cổng điện, từ từ chạm mặt với Dương Lăng. Dương Lăng nhận ra họ gồm đại tài tử Vương Ngao từng thi đỗ Tam Nguyên và Chiêm sự Dương Phương thì lấy làm bất ngờ, bước chân bất giác dừng lại, chắp tay thi lễ với bọn họ.
Sau khi Lưu Cẩn giáng chức Lưu Kiện và Tạ Thiên, Dương Phương vì phẫn nộ mà cáo bệnh về quê, đã lâu không ở trong kinh, hôm nay bỗng thấy ông ta lộ diện, tuy không còn giữ cương vị xưa, song Dương Lăng vẫn dùng lễ đối đãi.
Dương Phương tuy già nhưng vẫn rất kiên cường, dù biết hiện nay chức vị Dương Lăng tuy không đổi, nhưng quyền thế ngút trời, có thể ảnh hưởng thao túng triều chính, song vẫn giữ mắt nhìn thẳng, lướt ngang vai mà đi.
Cách nhìn của Vương Ngao về Dương Lăng đã thay đổi rất nhiều, nhất là sau lần bá quan quỳ trước cổng cung trong đêm tuyết, Dương Lăng khuyên bảo hoàng đế thu hồi danh sách bè lũ gian thần, lại tiến cử Dương Nhất Thanh đang bị bãi quan và Vương Thủ Nhân đang ở trong ngục cầm quân giữ ấn, thì cảm nhận của ông về y tốt hơn rất nhiều. Thấy Dương Lăng thi lễ, ông vội vã dừng bước trả lễ và nói:
- Dương đại nhân hãy bớt lễ tiết, Dương chiêm sự đã phát sinh tranh chấp với Lý đại học sĩ nên mới tức giận bỏ đi, Vương mỗ phải đi khuyên giải đã.
Vương Ngao, Dương Phương vốn có quan hệ thân thiết với Lý Đông Dương, Dương Lăng không biết giữa bọn họ có tranh chấp gì, bèn vội mỉm cười nói:
- Xin Vương đại nhân cứ tự nhiên.
Vương Ngao cười gượng gạo rồi nâng áo đuổi vội theo Dương Phương. Dương Lăng ngẩn ngơ một chốc rồi cũng xoay người đi vào điện Hoa Cái.
Tiểu thái giám trông thấy Dương Lăng đến, vừa định cao giọng xướng lễ, Dương Lăng đã vung tay ngăn lại. Vén tấm rèm che làm bằng da dê dày cộp, y bước vào buồng sưởi bên phải. Bên trong, Lý Đông Dương đang ngồi chấp bút phê duyệt tấu chương.
Thấy Dương Lăng đi vào, Lý Đông Dương vội gác bút đứng dậy, mỉm cười với y:
- Dương đại nhân, sao hôm nay nhàn rỗi đến thăm vậy? Xin hãy mau ngồi.
Dương Lăng cười đáp:
- Không dám nhọc đại nhân đâu.
Nói đoạn tự kéo chiếc ghế dựa đến đầu bàn ngồi. Lý Đông Dương gọi người dâng lên một chén trà nóng, ngồi xuống rồi nói:
- Lão quan hoảng sợ khi nghe đêm qua có đám giặc cướp trắng trợn xông vào phủ của đại nhân gây hại, bản tấu của bộ Hình ghi lại không tỉ mỉ, chẳng hay bên ấy đại nhân có tình hình cụ thể và chi tiết không?
Dương Lăng đáp:
- Mấy tên giặc cướp bị bắt hung hãn không sợ chết, song cực hình của xưởng vệ không phải thứ mà da thịt có thể chịu đựng được, bọn chúng không thể không khai. Theo khẩu cung của đám đạo tặc đó, thủ lĩnh của bọn chúng là đại đạo Dương Hổ quả thực có ý đồ mưu phản, có điều hành động ban đêm tập kích phủ đệ của bản quan lần này dường như là do bất chợt nảy sinh, tuy nhiên rốt cuộc vì sao bọn chúng lại tụ tập đông người như vậy lặng lẽ vào kinh thành, thì đám đạo phỉ đó cũng không nắm rõ cụ thể.
Lý Đông Dương chau mày, khẽ gật đầu, nói:
- Ta đã xem qua kỹ lưỡng công văn từ bộ Hình, nếu nói bọn chúng đến là vì Dương đại nhân, về tình hay lý đều không thuyết phục, càng không cần phải giả danh Dương Phúc kết giao với đại nhân. Xem ra đích thực là do nhất thời nảy lòng, thay đổi kế hoạch, rốt cuộc mục đích ban đầu bọn chúng vào kinh là để làm gì, thực khiến người ta khó lòng nghĩ ra.
Dương Lăng cười nói:
- Lúc này để bộ Hình và quan phủ Bá Châu đi lùng bắt là được rồi. Những chuyện khôi hài về kẻ ngu dân mù quáng tin vào mấy lời nói vô căn cứ, tự cho mình là chân mệnh thiên tử nhiều vô số kể, hiện triều đình đang phát lệnh truy nã, thiết nghĩ bọn chúng cũng sẽ không dám giở trò gì đâu.
Chẳng phải thôn Mạnh Trì tỉnh Hà Nam từng có người tự cho mình là hoàng đế, nửa số dân của cả thôn đều là tể tướng, đại thần, đứa bé mười tuổi cũng phong làm Trạm Điện tướng quân, xưng vua gọi chúa hơn hai mươi năm mới bị triều đình phát hiện đó sao? Tiên đế hay tin cũng chỉ cười xoà cho qua, đám ngu dân đó không một ai bị trừng trị cả.
Lý Đông Dương nhìn y một cách đầy thâm ý, rồi vuốt râu nói:
- Hình như Dương đại nhân có ý rất muốn thông cảm lượng thứ cho đám cường đạo có ý đồ phản nghịch này thì phải?
… đoạn lắc đầu:
- Con đê dài nghìn dặm vỡ toang chỉ vì tổ kiến nhỏ, nhà cao trăm thước cháy rụi chỉ bởi ống khói hư. Dương Hổ không giống như đám ngu dân đấy. Hắn đã liên lạc đại đạo lục lâm của tam sơn ngũ nhạc, âm mưu tạo phản, thậm chí tập kích trọng thần triều đình ngay dưới chân thiên tử, có thể thấy sự hung hãn. Một khi khởi sự, nhất định sẽ là họa lớn khôn lường.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Đại nhân nói chí phải, có điều cái họa của bọn trộm cướp vốn lại do tệ nạn của triều đình, bằng không hôm nay diệt trừ Dương Hổ, ngày mai lại sẽ có Trương Hổ, Lý Hổ, sẽ không bao giờ giết hết được.
Tiên đế nắm quyền hơn mười năm, chăm lo việc nước, là vị vua hiền minh sáng suốt xưa nay hiếm có, chỉ bởi không biết vì sao mấy năm nay thiên tai liên miên, thường xuyên có lũ lụt cuồn cuộn nơi này, hạn hán nghìn dặm nơi nọ, lại có một đám tham quan không biết thương xót dân tình. Bá tánh thiếu cơm ăn áo mặc, nên mới mặc kệ triều đình trong sạch hay thối nát, bị kẻ có lòng mê hoặc, khó tránh có người làm loạn.
Y nâng chén hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp:
- Những vật trồng Nam Dương mà hạ quan giới thiệu quả thực có thể khiến sản lượng lương thực Đại Minh tăng trưởng mấy lần, cứu giúp vô số bá tánh. Hạ quan cho rằng Dương Hổ đột nhiên nảy lòng mưu hại bản quan, chính là vì những mầm cây được chăm sóc trong hầm sưởi mà ra. Có lẽ thoạt đầu hắn vì bị bức bách nên làm giặc, nay đồng bọn mỗi lúc một đông, lòng tham cũng lớn theo dần, có ý dòm ngó ngôi báu quốc gia, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn.
Lý Đông Dương cười lớn:
- Từ khi bản quan nghe nói về những giống cây trồng Nam Dương mà đại nhân giới thiệu, đã từng phái người đến Nam Dương điều tra qua một phen, đám cây trồng đó sản lượng quả thực rất cao. Tuy lão quan không biết Đông Bắc và Tây Bắc có thích nghi để trồng trọt hay không, song nếu trồng trên dải đất rộng lớn ở Giang Nam nhất định sẽ không thành vấn đề.
Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:
- Đại nhân đã điều tra rồi ư? Hạ quan tuyệt không nói dối. Đất khô hạn hoặc lạnh lẽo cũng đều thích hợp để trồng, sang xuân sau khi trồng thử liền sẽ biết rõ đúng sai, có điều việc này cũng chỉ có thể giúp bá tánh no bụng, nếu muốn cho dân giàu nước mạnh, giải trừ cấm biển mới là khẩn thiết.
Bá tánh vùng duyên hải chiếm ít nhất một phần tư dân số Đại Minh, nơi đó ba phần núi, sáu phần nước, ruộng đất chỉ chiếm một phần, đất hẹp người thưa, ngũ cốc không phong phú. Người dân sống ven biển đều lấy thuyền làm nhà, lấy biển làm ruộng, cấm biển rồi, sinh kế của bá tánh tiêu điều, khiến những kẻ tụ tập làm giặc mới ngày một đông.
Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, không chỉ giúp bá tánh được sung túc, làm dồi dào quốc khố, hơn nữa còn có thể tăng cường giao lưu với mọi quốc gia hải ngoại, người nước ngoài có sở trường của họ, chúng ta có sở đoản của chúng ta, lấy sở trường của họ bổ sung cho sở đoản của ta, trăm sông đổ về biển lớn, đều là con đường duy nhất để con dân Đại Minh có thể mở rộng tầm mắt và kiến thức, triều đình có thể mở rộng biên cương, kéo dài lãnh thổ, quân đội lớn mạnh, oai danh tứ hải. Đóng cửa làm xe còn không vừa khớp, huống hồ là một quốc gia to như vậy?
Lý Đông Dương gật đầu nói:
- Tình hình duyên hải, bản quan cũng đã sai người điều tra kỹ càng tỉ mỉ. Người xưa có nói: hang chuột tuy là nguồn gốc của cái xấu, cũng cần phải giữ lại một cái, nếu bịt hết lại rồi, nơi đâu cũng sẽ toàn lỗ thủng. Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương cũng có cái tác hại của nó, nhưng việc cai trị vốn là bỏ hại lấy lợi, chỉ vì mắc nghẹn mà bỏ cái ăn là điều rất không khôn ngoan.
Ông nhướng mắt mỉm cười:
- Thật ra bản quan cũng đã cân nhắc nhiều ngày, ta nguyện ý giúp đỡ Dương đại nhân gỡ bỏ lệnh cấm biển, mưu lược thông thương cùng với ngoại bang. Có điều theo bản quan thấy, vẫn còn hai điểm cần phải thương thảo. Thứ nhất là không thể thuyết phục bá quan triều đình, thứ nhì là nếu hiện tại gỡ bỏ lệnh cấm toàn diện, được cái này sẽ mất cái kia, loạn giặc Oa trên biển còn chưa...
Dương Lăng hưng phấn cắt ngang:
- Điểm thứ nhất không khó xử lắm, chỉ cần Lý đại học sĩ gật đầu đồng ý, những việc khác xin cứ giao cho hạ quan đi làm. Còn về điểm thứ hai, đại nhân lo lắng rất phải, hạ quan cho rằng có thể mở lại Bạc ty ở Ninh Ba và Quảng Châu thị trước, rồi mở tiếp Bạc ty ở Thiên Tân thị, cộng thêm Bạc ty sẵn có ở Tuyền Châu thị, tổng cộng bốn nơi.
Thiên Tân thông với Triều Tiên, La Sát. Ninh Ba thông với Nhật Bản. Tuyền Châu thông với Lưu Cầu. Quảng Châu thông với Chiêm Thành, Xiêm La và các nước Tây Dương. Tiếp để bộ Hình, bộ Lễ và bộ Hộ lập ra các nha môn quan lại quản lý luật pháp, tố tụng, thuế khoá và nghị định về giá cả hàng hoá giao dịch thông thương trong và ngoài nước. Đại nhân thấy có được không?
Điều mà Lý Đông Dương lo lắng nhất là Dương Lăng lạm quyền độc đoán, giành nắm hết quyền thông thương vào tay, nghe y nói vậy thì không khỏi lấylàm kinh ngạc: Dương Lăng hao tâm tổn sức muốn gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, chẳng lẽ lại không hưởng bất kỳ lợi ích, không muốn bất cứ quyền lợi gì ư?
Lý Đông Dương do dự một hồi, hỏi:
- Dương đại nhân khởi xướng việc này, chẳng lẽ một khi gỡ bỏ lệnh cấm rồi, nội xưởng sẽ không can thiệp vào trong ư?
Dương Lăng cười thầm trong bụng. Xem ra vị Lý đại nhân này không chỉ là hạng văn chương sáo rỗng, mà cũng biết theo đuổi lợi ích, là một người thực dụng đây. Một khi lệnh cấm thông thượng được gỡ bỏ, cửa hàng ngựa xe rải rác khắp toàn quốc của Dương Lăng sẽ trở thành ngành vận chuyển lớn nhất khống chế tiền bạc lưu thông, nếu nói một ngày thu về một đấu vàng thì cũng không hề quá lời chút nào
Dương Lăng lại nắm quyền Ty Thuế Giám, đến khi đó không biết bao nhiều người sẽ đâm lén, bắn trộm, ghen tức với lợi ích của y, cho dù Bát Hổ hiện giờ đang cương quyết đứng chung chiến tuyến với y, về lâu về dài cũng khó đảm bảo sẽ không có dị tâm. Dương Lăng sớm đã muốn vứt bỏ cái Ty Thuế Giám này.
Dương Lăng cười đáp:
- Người thông thương trên biển qua lại với ngoại bang rất nhiều, vừa có bộ Hình phán quyết kết quả kiện tụng, Cẩm Y Vệ lùng bắt con buôn phạm pháp, Ty Thuế Giám và Ty Thuế lại của bộ Hộ thay nhau phụ trách, Ty Thuế Giám thu thuế, Ty Thuế Lại giám sát thuế, cũng có thể đổi ngược lại, khiến cho các nha môn chế ước lẫn nhau, có thể tránh việc các nha môn mạnh ai nấy làm, tự tạo danh mục, giúp cho bá tánh đỡ khổ.
Lý Đông Dương cười vui vẻ nói:
- Xem ra Dương đại nhân suy nghĩ tường tận, sớm đã có lòng tin. Rất tốt, đại nhân thấy khi nào thì nên dâng tấu lên Hoàng thượng?
Dương Lăng thầm tính toán: thám mã điều tra quan viên có bố cảnh thân hào sĩ tộc duyên hải trong triều vẫn chưa đưa tin tức về đầy đủ, chiến sự phương bắc đang căng thẳng, lúc này đề xuất chính sách mới cũng không thích hợp, bèn nói:
- Bản quan thấy hay là đợi chiến sự phương bắc yên ả trở lại, triều đình mới có toàn lực ứng phó làm tốt việc lớn này. Vậy quyết định vào... tháng hai năm sau thì thế nào?
Lý Đông Dương mỉm cười gật đầu, Dương Lăng thoải mái trong lòng, đặt chén trà lên bàn, lúc này mới để ý trên bàn đang bày ra một bức tranh. Nếu là công văn Lý Đông Dương đang xử lý thì y cũng không tiện xem kỹ, nhưng nếu là một bức tranh thì lại không có gì. Dương Lăng thuận tay xoay bức tranh lại, chỉ thấy trên tranh vẽ một bà lão xấu xí đang cưỡi trên lưng một con trâu, vênh vang thổi sáo, trên trán bà lão đề một hàng chữ nhỏ: "Sự nghiệp tể tướng của Lý Tây Nhai là đây(1)".
Tây Nhai là tên hiệu của Lý Đông Dương, kẻ nào mà quá to gan, không ngờ dám sỉ nhục lão như thế? Dương Lăng giật mình thất kinh, liền không kịp nhìn kỹ bên dưới, ngạc nhiên hỏi:
- Là... là kẻ nào vô lễ như vậy, dám vẽ tranh sỉ nhục đại nhân vậy?
Lý Đông Dương cười hờ hững, nói:
- Dương Phương và lão phu đùa giỡn một chút mà thôi, không can hệ gì, ha ha.
Dương Lăng nhớ lại tình cảnh ban nãy Dương Phương nổi giận đùng đùng rời khỏi đây, lại đăm chiêu xem tiếp phía dưới bức tranh đó. Tranh không phải mới vừa được vẽ, nhưng bên tranh lại đề một bài thơ chưa ráo mực, hiển nhiên mới được đề lên chưa lâu. Bài thơ tuyệt cú đó như rồng bay phượng múa, viết rằng: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca." (dịch thơ:)
Lời đề tặng cũng là Tây Nhai, thì ra là khi nãy Lý Đông Dương xem xong tranh đã đề thơ. Câu thơ khí phách vô cùng, không hề quan tâm đến ý châm biếm ông ăn trên ngồi trốc, cúi đầu với nịnh thần ở trong tranh, ngược lại còn xoay chuyển bố cục, đưa ra một cái nhìn khác. Dương Lăng giở tranh xem xong, đứng thẳng người dậy, cung kính vái Lý Đông Dương một vái thật dài.
Lý Đông Dương kinh ngạc hỏi:
- Dương đại nhân làm vậy là ý gì?
Dương Lăng đáp:
- Đại học sĩ khí tiết thanh cao, bụng dạ rộng lượng, khiến cho Dương Lăng khâm phục không thôi. Bức tranh này do tài tử Dương Phương vẽ, Thủ phụ Lý công đề thơ, Dương mỗ xem xong xúc động muôn phần. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, còn mong đại học sĩ tặng bức tranh này cho hạ quan, hạ quan nguyện học theo đại nhân, vì Đại Minh, vì bá tánh, còn sợ chi lời ra tiếng vào?
Trong mắt Lý Đông Dương thoáng loé lên vẻ kỳ dị. Lần trước Dương Lăng đến nhà thăm viếng, vừa vào đề liền mắng ngay Bát Hổ, ông liền thầm nghi ngờ Dương Lăng làm vậy là vì muốn chơi trò hai mặt với Bát Hổ, mượn sức Bát Hổ để thể hiện tham vọng trong lòng. Quan sát hành động của y hôm nay, nghe ý tứ trong lời nói của y, hiển nhiên đây cũng là người đồng đạo. Lý Đông Dương lo lắng ở chỗ Bát Hổ thế to, hoàng thượng lại ham chơi, đế quốc to như vậy, một mình ông khó chống, nếu như Dương Lăng thật sự là người cùng chung chí hướng, vậy còn phải lo lắng gì?
Lý Đông Dương mừng lắm, nói:
- Chỉ là một bức tranh mà thôi, nếu như Dương đại nhân thích, vậy cứ cầm lấy đi.
Dương Lăng cuộn bức tranh lại cất vào người, ngồi xuống rồi nói:
- Vừa rồi Dương đại nhân nuốt giận mà đi, lại để lại bức tranh ngầm châm biếm, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Lý Đông Dương nói với giọng bất đắc dĩ:
- Lưu công công chủ trì nội đình trước nay, một số đại thần trong triều rất bất mãn, lũ lượt cáo bệnh không đến nha môn làm, khiến cho rất nhiều nha môn có quan lại không ai xử lý công việc, công văn chất cao như núi.
Cộng thêm chiến sự phương bắc căng thẳng, trưng dịch(2), sung quân, chiến sự, cứu tế, lương thảo, điều binh, liên can đến hơn chục nha môn, quan chủ sự vắng mặt, chánh lệnh không được thi hành, đã lỡ rất nhiều đại sự.
Lưu công công giận đến tím mặt, liền ban lệnh rằng: quan viên không thể xử lý công vụ đến một tháng do bị bệnh, miễn bổng lộc tháng đó; đến một năm, giáng xuống chức quan nhàn tản; đến ba năm, bãi quan làm dân, không bao giờ thu nhận lại.
Những quan viên đó hết cách đành phải trở lại nha môn làm việc. Lưu công công vẫn chưa nguôi giận, lại xin thánh dụ, nói rằng quan văn quá lạm dụng ban thưởng, sau này nếu không có chiến công hiển hách, chính tích chói lọi, không được ban thưởng. Dương đại nhân vừa mới trở lại nha môn, nghe được tin tức chỉnh đốn quan văn này liền giận đến tím mặt, tìm gặp lão phu để lý luận, kết quả... Chao ôi!
Dương Lăng nghe xong cũng phẫn nộ vô cùng: đây mà là thanh quan ư? Bất chấp đại cuộc, không thấy được đạo lý, chỉ vì cái 'phong cách thanh cao' đáng tởm ấy của bọn họ, mà gác lại toàn bộ chính sự sang một bên, gác lại việc quân có quan hệ đến sống chết của hàng nghìn hàng vạn bá tánh sang một bên, cáo bệnh nghỉ ốm, yên tâm thoải mái mà hưởng thụ bổng lộc triều đình. Thật là một đám khốn nạn!
Dương Lăng nghiến hàm răng lại, cười gằn nói:
- Quan lại tham ô phạm pháp, không đáng dùng! Quan lại thanh liêm nhưng tầm thường vô năng, không đáng dùng! Quan lại bảo thủ tuy thanh liêm và giỏi giang song lại thiển cận, trở ngại triều đình trừ bỏ tệ bệnh, hưng thịnh Đại Minh, càng không đáng dùng! Có lẽ Lưu công công có rất nhiều điểm bị người ta chỉ trích, và mục đích để chỉnh đốn lại cũng không chính đáng gì, nhưng quan lại như vậy, thực đáng vứt đi không dùng. Hạ quan kiên quyết ủng hộ quyết định này của Lưu công công.
Dương Lăng đã thật sự nổi giận, bèn đứng dậy nói:
- Đại học sĩ không cần phải khó xử, những việc ác này hãy cứ giao cho Lưu công công đi làm là được. Triều đình thực thi biện pháp chính trị, dẫu sao cũng không thể không mất lòng nhau, cả nhà cùng vui. 'Trầm chu trắc bàng thiên phàm quá, bệnh thụ tiền đầu van mộc xuân'(*), những hủ bại vướng víu chân tay này, cứ đá văng đi là xong! (*tạm dịch: một chiếc thuyền chìm nghìn chiếc vượt, một cây phải bệnh vẫn xanh rừng)
Dương Lăng cáo từ lui khỏi điện Hoa Cái, cơn giận trong lòng mới nguôi được một ít. Tuyết đọng trong cung đã được quét sạch, không khí khô mát, Dương Lăng hứng cơn gió lạnh lùa vào mặt, thần chí liền thanh tỉnh lại, mới cảm thấy mình vô cớ nổi giận như vậy, dường như đã quá dễ bị kích động rồi.
Y âm thầm cảnh tỉnh bản thân: giờ đây quyền uy của mình mỗi ngày một lớn, mỗi một lời nói mỗi một hành động đều dẫn đến sự chú ý của mọi người, không nên hành động theo cảm tính, giận vui đều lộ hết ra mặt, sau này cần phải để ý tu thân dưỡng tính hơn, học cách đối nhân xử thế.
Dương Lăng uốn cong lưỡi hít sâu vào một hơi, toàn thân thả lỏng, rồi dựa theo phương pháp mà Ngũ Hán Siêu đã chỉ dạy: tay trái vòng vào trong, như vẽ một quả cầu tròn, ngón trỏ tay phải bấm vào chi ngọ trên ngón giữa, hai gối hơi trùng, chân đi chậm rãi, như bước nhẹ trên mây.
Đây là nội công tâm pháp thượng thừa của Võ Đang, nếu luyện đến đại thành, có lẽ phải mất đến mấy mươi năm. Dương Lăng đã qua tuổi đẹp nhất để tập võ, cũng không nghĩ hề nghĩ sẽ luyện thành cao thủ võ lâm gì, chủ yếu luyện cho tinh thần và thể xác được khỏe mạnh và tu thân dưỡng tính mà thôi.
Có điều thuật thổ nạp này quả thực có chỗ kỳ diệu, chẳng những khiến tâm linh con người thanh sảng, không còn bồn chồn nóng nảy, tĩnh tọa một hồi cũng có thể giải trừ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái. Dương Lăng chẳng thèm quan tâm đến cái gì là môn quy, nghe xong khẩu quyết, hỏi cho kỹ càng, trở về liền giảng kỹ lại cho Ấu Nương nghe một lượt. Hàn Ấu Nương vốn đã có nền tảng vững chắc, lại từng luyện qua ngạnh khí công, vì vậy học thêm công phu thượng thừa không khó. Bản thân Dương Lăng đã không thể thành tài, nhưng nếu nương tử học được rồi, thì chẳng khác con cháu đời sau của nhà họ Dương cũng sẽ học được, cái lợi trong đó Dương Lăng coi như cũng hiểu được.
Dương Lăng mới học mới luyện, động tác hơi lóng ngóng, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, dáng đi kỳ dị nhẹ nhàng tiến về phía Tây Noãn gác cung Càn Thanh. Khi ngẩng đầu thì nhìn thấy Chính Đức toàn thân vận long bào màu đen tuyền, đầu đội mũ Dực Long, tay ôm cái lò sưởi(3) trước bụng, đang nhìn y cười tủm tỉm, đám thái giám và cung nữ đúng chung quanh và một đám người cũng đều đang ngóng nhìn, mặt đầy vẻ hiếu kỳ.
Dương Lăng không khỏi cười ngượng nghịu, liền vội bỏ tư thế đó rồi vội vã bước tới thi lễ:
- Vi thầm tham kiến hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại đứng đây?
Chính Đức anh tuấn, mặt như ngọc, kéo Dương Lăng dậy mừng rỡ nói:
- Ha ha, trẫm đang ở trong sân xem du hí tạp kỹ, nghe có người nói khanh đi lắc la lắc lư, giống như một con vịt, cho nên chạy qua xem náo nhiệt một chút.
Dương Lăng thoáng đỏ mặt, trông thấy trong sân dựng cái đài, cửa điện Noãn gác mở rộng, bên trong đốt một lò than, chính giữa bày một chiếc ghế nằm hình rồng cuộn, bên trên trải thêm một tấm thảm nhung mượt trắng như tuyết.
Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn si mê những trò tạp kỹ này, không khỏi nhắc nhở nhẹ nhàng:
- Hoàng thượng, cũng khó trách đám ngoại thần càm ràm bát sát, hoàng thượng đã kế thừa đế vị, cưới hậu nạp phi, qua mấy ngày nữa sẽ thay đổi niên hiệu thành Chính Đức, nay trong triều chưa ổn định, biên ải lại đang có chiến tranh, ngài thật không nên quá phân tâm vào những việc này.
Chính Đức nhăn nhó nói:
- Lý học sĩ khuyên, Dương sư phụ khuyên, Tiêu đại nhân khuyên, giờ khanh cũng tới khuyên trẫm. Bị nhốt trong thâm cung, mỗi ngày những nơi trẫm có thể đi đến chỉ có điện Thái Hòa, cung Càn Thanh, cung Nhân Thọ. Sinh ra và lớn lên ở đây, ngẩng đầu lên là cái bầu trời đó, cả ngày ngoại trừ thượng triều, nghe giảng, phê duyệt tấu chương, thì không còn gì khác, ít ra cũng phải để trẫm kiếm chút gì đó làm chứ? Dương thị độc, tấu chương của trẫm đều được phê duyệt đúng hạn, tuyệt không tồn đọng đâu nhé.
Dương Lăng nghe hoàng thượng 'kể khổ' như vậy, chỉ đành nói:
- Nhưng mà... trời lạnh rét, hoàng thượng dựng đài xem tạp kỹ trong sân, cửa Noãn gác lại mở toang, nếu bị nhiễm phong hàn, vậy sẽ nguy biết bao!
Chính Đức không nghĩ vậy, nói:
- Đâu dễ như thế. Sáng nào trẫm cũng luyện Thái tổ trường quyền hai lần, đều mặc áo manh giáp mỏng, luận về thân thể, trẫm còn khỏe khoắn hơn khanh đấy.
Đoạn y phấn khởi nói:
- Đúng rồi, khanh theo trẫm vào trong điện. Hôm nay mấy con khỉ cũng đã biết đánh quyền, cho khanh xem mở rộng tầm mắt.
Chỉ thấy, một lão già mặc một đồ màu xanh nước biển, đầu đội khăn vuông, dắt bốn con khỉ bước ra, làm đủ các trò nhào lộn, chồng người, hay nhất là lão già vừa hút sáo một tiếng, bốn con khỉ liền xúm lại đánh quyền. Dương Lăng thấy hai con khi vung vẩy cái chân đầy lông lá của chúng, lảo đa lảo đảo trông hết sức ngây ngô, bèn không kiềm được mà mỉm cười vỡ lẽ: trông bộ dạng, có lẽ là đang đánh túy quyền.
Hai con khỉ còn lại đánh quyền đâu ra đấy, có bài có bản hẳn hoi, tuy chưa được bốn năm chiêu liền chạy về bên lão già xin trái cây ăn, song Chính Đức lại nhìn ra bài quyền chúng đánh đích thực là Thái tổ trường quyền, bèn vỗ tay cười nói:
- Người đâu, thưởng cho thưởng cho.
Hai tên tiểu thái giám xách cái sọt nhỏ, cười hì hì đi tới trước bậc thềm, dùng sức ném cái sọt ra ngoài một cái, trong cái sọt đều là tiền đồng mới toanh, sợ không dưới nghìn văn tiền, vương vãi xuống đất kêu rào rào.
Chính Đức cười bảo:
- Ha ha, trẫm thấy mấy con khỉ này còn dễ mến hơn cái đám người đáng ghét trong cung và ngoại đình đó. Dương thị độc, khanh thấy chúng đánh quyền có hay không?
Dương Lăng mỉm cười, chợt nghe trong phòng bên được ngăn cách bởi cửa sổ có tiếng đàn ông cất lên:
- Đích xác là thú vị, mấy con khỉ này thật thông minh, nhớ buổi sáng thấy Hoàng thượng luyện tập quyền cước, bài Thái tổ trường quyền uy vũ nhanh nhẹn, liền học trộm được chiêu thức ngay.
Dương Lăng sững ra, tròn xoe hai mắt: giọng nói đó giống hệt như y, âm điệu và ngữ khí đều hoàn toàn giống, thậm chí y còn nghi ngờ rằng có phải mình đang ở trong căn phòng khác không. Tiếp theo sau đó, một tràng cười lớn đắc ý truyền ra, lại nghe giọng nói của hoàng đế "Chính Đức":
- Tuy rằng thú vị, nhưng xem cũng đã chán rồi. Nếu là cảnh xuân về hoa nở, muôn chim tranh hót, cảnh đẹp ấy hơn xa xem mấy con khỉ này nhiều.
Theo đó, giọng nói "Dương Lăng" lại cất lên:
- Điều đó có gì khó? Hoàng thượng là thiên tử, muốn ra lệnh cho xuân về khắp mặt đất, trăm hoa đua nở, muôn chim đến hót, có lẽ vị thần xoay chuyển bốn mùa cũng không dám không tuân thánh dụ.
Âm thanh chưa dứt, lờ mờ lại nghe như có tiếng chim tước hót vang, dần dà tiếng vó ngựa nổi lên, có tiếng cười yêu kiều duyên dáng, khiến trong đầu người ta bất giác hiện ra một bức tranh cung nữ đạp xuân, chậm rãi bước tới; rừng tùng, nước chảy, cảnh trí mênh mông sâu thẳm như hiện ra ngay trước mắt, lại có phu tử ngâm thơ, tiếng tiêu réo rắt.
Mắt Dương Lăng càng lúc càng mở lớn, tim đập loạn thình thịch, suýt nữa thì đã buột miệng thốt ra một cái tên. Y không kiềm nén được tâm tình lao qua, vừa kéo mở cửa gác, các loại âm thanh lập tức im bặt, hai người con gái xinh đẹp đang khom nửa người kinh ngạc đứng dậy.
Hai người thiếu nữ xinh đẹp vận áo lĩnh tím, gấm đen, chẽn đỏ, dưới mặc váy màu xanh nhạt, hai bàn chân yêu kiều xỏ đôi giày da dê màu vàng, nước da sáng ngần thơm ngát, khuôn mặt trái xoan, cặp mày lá liễu, chính là hai người con gái phường hát y gặp qua lần trước.
Tu Hoa vẫn vậy, là một khuôn mặt xinh đẹp đầy lạnh lùng, Giải Ngữ thì lại cười tươi liếc y, má tựa mây hồng, mắt như thu thủy, càng khiến người ta rung động tâm hồn. Chính Đức lầu bầu nói:
- Không vui gì cả, không vui gì cả, đợi chút nữa sẽ còn có tiết mục thiếu niên hung ác thôn quê khinh nhờn dân nữ, trẫm ra tay cứu người cho khanh xem đấy, bị vạch trần như vậy mất hết cả vui đi, khanh thực là dễ bị kích động quá.
Dương Lăng thất vọng quay người lại, lặng lẽ đến bên thân Chính Đức nói:
- Vi thần... vừa nãy nghe loại khẩu kỹ giống y như đúc này, bất giác nhớ tới một cố nhân, còn tưởng rằng... ngoài cửa là cô ấy...
Giải Ngữ và Tu Hoa cũng bước tiến vào trong điện, duyên dáng đứng hai bên Chính Đức, nghe thấy lời này hai cặp mắt xinh xắn đều dồn vào người Dương Lăng.
Chính Đức lấy làm lạ bèn hỏi:
- Lúc trẫm được nghe khẩu kỹ này quả sự đã rất kinh ngạc, ngay cả tiếng đàn sáo nhạc cụ bọn họ cũng bắt chước được, vị cố nhân đó của khanh là ai, cũng có bản lĩnh như vậy sao?
Dương Lăng nhớ đến người thiếu nữ đứng trong nắng, vẻ mặt rạng ngời giải thích với y. Nàng thoáng nhướng đôi mày liễu, nụ cười trong vắt:
- Dương đại nhân, tiêu này của tiểu tỳ ấy, không cần tiêu thổi...
Giọng nói yêu kiều giòn giã vẫn còn quanh quẩn bên tai. Y lại nhớ tới tảng đá dính máu và vài sợi tóc bên dốc núi nọ, con tim như thắt lại. Cổ họng Dương Lăng nghèn nghẹn, y ho khan vài tiếng rồi mới cảm thán nói:
- Vị cố nhân này, hoàng thượng ngài cũng biết, đó chính là vị Đường cô nương... Đường Nhất Tiên.
- Đường... Nhất Tiên...
Chính Đức từ từ nhớ lại, sắc mặt cũng dần trở nên ảm đạm, người con gái lưu lại bóng hình đầu tiên trong lòng hắn, nào dễ dàng quên được.
Hai người đàn ông im lặng, bọn thái giám và cung nữ trong cung không biết đã xảy ra chuyện gì, không ai dám mở miệng nói gì. Giải Ngữ và Tu Hoa đưa mắt nhìn nhau, khẽ mím môi, hàng mi dài cong vút chớp chớp không ngừng, vẻ mặt hết sức hiếu kỳ.
Đàn ông bọn họ gặp đã nhiều, song thực hiếm thấy khi hai người đàn ông ở trước mặt, một người là hoàng đế tay ôm thiên hạ, một người là trọng thần triều đình dưới một người trên vạn kẻ, muốn bao nhiêu mỹ nữ cũng được, lại có thể biểu lộ cảm xúc hoài niệm khi nhắc đến một người con gái. Người con gái đó là ai? Nhất Tiên... cái tên thật là đẹp.
Chính Đức rờ mũi, một lúc sau mới chợt hỏi:
- Vẫn chưa có tin tức gì sao? Cho dù là... tin xấu?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Dạ chưa, bên phía quan phủ đã sớm bỏ qua tìm kiếm, vi thần đã sai phiên tử Nội xưởng để ý quan sát, tuyệt nhiên vẫn không có manh mối.
Chính Đức chán nản vung tay nói:
- Giải tán hết đi, Dương thị độc vào cung, nhất định có việc công cần bàn với trẫm.
Đoạn hắn nhìn sang Liễu Giải và Tu Hoa, hai người con gái rất biết điều, biết khi nào có thể làm nũng đùa cợt, khi nào phải giữ phận, lập tức nhún người thi lễ, rồi cũng lặng lẽ lui ra.
Hai người đi vào thư phòng, Chính Đức ngồi lên ghế, thuận tay chỉ xuống bảo:
- Khanh ngồi đi.
Thư phòng của Hoàng thượng làm gì có chiếc ghế thứ hai, bên cạnh chính là giường ngủ của Chính Đức. Từ dạo bị Vương Quỳnh trỏ mặt mắng cho một trận, Dương Lăng đã không dám không để ý đến những tiểu tiết này nữa, bèn mỉm cười đứng trước ngự án, nói:
- Tạ hoàng thượng, thần đứng đây cũng tiện bẩm báo sự tình rồi.
Chính Đức gật nhẹ đầu, liếc mắt trầm ngâm một chốc rồi hỏi:
- Là chuyện gỡ bỏ lệnh cấm biển có manh mối hay là biên tái phương bắc có chiến sự khẩn cấp?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Thưa, đều không phải. Hoàng thượng còn nhớ trước lúc xuất binh từng bí mật căn dặn Miêu Quỳ nghiêm trị Tiểu vương tử, răn nhẹ Hỏa Sư, phân hóa bọn chúng, và bí mật liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ không?
Mắt Chính Đức liền sáng lên, hưng phấn hỏi:
- Có phải đã có hiệu quả?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Dạ, Tiểu vương tử nghi ngờ Hỏa Sư có hiệp nghị bí mật với Đại Minh, hiện đang rất đề phòng bọn họ, một vạn năm nghìn nhân mã của Hỏa Sư đang bị an bài bên sườn, một mình chống cự với đại quân của Tổng binh Hứa Thái, lương thảo cướp được cũng không muốn chi viện cho bọn họ, có rất nhiều bộ hạ của Hỏa Sư đã buông lời oán hận. Tình thế chiến trường trước mắt xem ra không nguy cấp lắm, Dương Nhất Thanh án binh bất động, lại níu chặt lấy chân Tiểu vương tử không cho hắn đi, trong đó tất có ý đồ. Có điều hằng năm giặc Thát đều đến biên cảnh ta cướp bóc, họa này nhất định phải tiêu trừ, hiện tại phân hóa Hỏa Sư chỉ là bước thứ nhất.
Nếu đạt được sự hỗ trợ của Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta sẽ có thể không tốn gì mà có được một đội tinh binh, đồng thời mỗi năm có thể lấy được lượng lớn chiến mã từ vùng Hà Sáo. Một mặt vừa có thể tăng cường tính cơ động và năng lực tác chiến của biên quân.
Mặt khác, bá tánh vùng Hà Bắc phụ trách dưỡng mã, nhưng nơi đó lại không nuôi cho ra được ngựa tốt, bá tánh cực công phu dịch, uổng công khổ lao, mà lại không đem nhiều ích lợi cho đất nước. Nếu có thể cải thiện quan hệ với Đóa Nhan Tam Vệ, sẽ có thể khiến bá tánh trút được gánh nặng này. Chúng ta có được ảnh hưởng ở Hà Sáo và Liêu Đông rồi, tương lại sẽ có thể tiến thêm một bước, mở mang bờ cõi, chiếm lấy thảo nguyên phì nhiêu. Sau đó đi vào A Lạp Bá Mã (tên gọi các dân tộc Ả Rập xưa - ND), dùng nó để cải tạo ngựa Mông Cổ và Tây Nam, thì ưu thế của Thát Đát Mông Cổ sẽ không còn nữa.
"Mở mang bờ cõi", đó là cụm từ khiến cho mọi vị vua từ xưa đến nay động lòng nhất. Trong các triều đại lịch sử, chưa một vị vua nào dám sánh mình với vị vua khai quốc. Cho dù là quân vương có sáng suốt và tài đức cỡ nào thì chính tích cũng không thể nào rạng rỡ và chói lọi như mở mang bờ cõi được.
Trái tim của Chính Đức đập thình thịch, khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn đỏ bừng vì hưng phấn, hắn gật đầu lia lịa:
- Dương khanh nói rất đúng, đánh với Thát Đát một trận bất quá chỉ là công tích nhất thời, kết minh với Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta thêm một đội quân, địch quân mất đi một mảnh đất, lại phân hóa làm cho bọn chúng tan rã, mới là sách lược chính trị lâu dài. Nếu sự này thành, công lao của Dương khanh thực sẽ không chỉ như đại tướng công thành chiếm đất, chém tướng đoạt cờ. Có phải phía Đóa Nhan Tam Vệ đã nhận được mật hàm của triều đình không?
Dương Lăng gật đầu thưa:
- Đã liên hệ được với bọn họ, tuy vậy do giữa chúng ta và Đóa Nhan Tam Vệ từng có rất nhiều bất hòa, đại thủ lĩnh Hoa Đáng tuy có lòng hướng về phía phe Đại Minh chúng ta nhưng trong ba bộ lạc lớn lại có rất nhiều quý tộc vẫn còn nặng lòng nghi ngờ. Bọn họ không tin tưởng sứ thần mà chúng ta phái đi lắm. Tin tức hồi đáp là các tù trưởng đó muốn Đại Minh ta...
Y thoáng do dự. Điều kiện Hoa Đáng đưa ra quả thực đã đặt địa vị của hắn ngang hàng với thiên tử Đại Minh, nếu y nói ra chỉ sợ thiên tử Chính Đức sẽ long nhan nổi giận. Song đây là việc lớn, y thực không dám bỏ qua, Dương Lăng bèn lấy hết can đảm nói:
- Hoa Đáng chẳng qua chỉ là đại tù trưởng một bộ lạc thảo nguyên, không học thánh hiền, không hiểu lễ nghi, thế mà lại yêu cầu hoàng thượng phải đích thân đến Đại Đồng, cùng hắn uống máu ăn thề trên núi Bạch Đăng, thì Đóa Nhan Tam Vệ mới chịu nương về Đại Minh.
Dương Lăng nói xong liền vội vã chêm thêm:
- Tuy nhiên chuyện này thực vẫn có thể mặc cả. Theo ý vi thần, hoàng thượng có thể cử một vị tông thân hoàng thất thay mặt cho triều đình và thiên tử đi đến nơi hẹn ước, ắt sẽ có thể xua tan mối lo ngại của hắn.
Không ngờ, nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, Chính Đức nghe xong không hề nổi giận, ngược lại vuốt cằm như có điều suy nghĩ. Trầm ngâm một hồi lâu, hắn mới khẽ mỉm cười, ngước mắt nhìn Dương Lăng và nói:
- Muốn trẫm đích thân đến gặp bọn chúng? Cho dù là Bá Nhan Khả Hản lúc đánh hay cầu hòa cũng đều lấy lễ bầy tôi mà đối đãi với trẫm. Lá gan của Hoa Đáng thực không nhỏ.
Dương Lăng nghe vậy thì cuống lên, vội nói:
- Hoàng thượng, vi thần cũng biết Hoa Đáng làm vậy thực hơi cuồng vọng, nhưng việc nhỏ nếu không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng.
Ánh mắt của y chợt trở nên ranh mãnh, thấp giọng nói khẽ:
- Không cùng tộc với ta, tim nó ắt khác. Đóa Nhan Tam Vệ tựu chung vẫn là kẻ ngu muội, bọn chúng nương về chúng ta, chỉ bởi bọn chúng không có thực lực lớn mạnh như Bá Nhan Khả Hãn có thể cướp bóc của cải với số lượng lớn, cho nên hiện tại hợp tác chẳng qua là vì lợi ích riêng.Hiện tại chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, sau này sức nước cường thịnh, vũ lực đầy đủ, chẳng những sẽ sát nhập Thát Đát Mông Cổ, Ngõa Thích Mông Cổ vào bản đồ Đại Minh, mà con hổ cạnh giường này sao có thể là ngoại lệ? Việc nhỏ không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng đó bệ hạ.
- Ha ha ha ha...
Hoàng đế Chính Đức đứng dậy, cười như con gà mái đẻ. Hắn đấm vào ngực Dương Lăng một cái, cười khanh khách:
- Ai nói trẫm không thể nhẫn nhịn tạm thời?
Đoạn hắn xòe hai tay ra, chớp chớp mắt nói:
- Tiên hoàng chỉ có mỗi một mụn con là trẫm, tông thân hoàng tộc khác đều phong làm vương gia ở các nơi, há có thể thay mặt triều đình và thiên tử? Nếu là ái khanh thì phái ai đi mới thích hợp đây? Là thái hoàng thái hậu? Thái hậu? Hay là hai vị ngự muội của trẫm?
Dương Lăng nghe xong mà nghẹn họng, trong lúc còn chần chừ, chợt thấy Chính Đức nhảy bật lên, ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ha ha, một khi vận khí lên hương, liền như nước lũ tường thành khôn ngăn. Cái tên Hoa Đáng thực đáng yêu quá đi.
Đoạn hắn dương dương đắc ý nói:
- Lần này trẫm sẽ đích thân đi đến Đại Đồng, đó là vì nước vì dân, vì giang sơn xã tắc Đại Minh, bá quan văn võ sẽ không nói gì nữa chứ?
Dương Lăng nghe vậy thì há hốc mồm, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bừng, hai tay chống nạnh nói:
- Không để trẫm đi công khai, trẫm sẽ lén đi. Đại Đồng trẫm đã quyết định sẽ đi rồi!
Đoạn hắn chỉ vào Dương Lăng, nói với giọng oai phong lẫm liệt:
- Chuyện này giao cho Dương khanh phụ trách. Qua năm mới, chúng ta sẽ mở đường Tuyên Phủ, thẳng tiến Đại Đồng!
Chú thích:
(1) nguyên văn "Thử Lý Tây Nhai tướng nghiệp". Tích rằng: vào năm Chính Đức (1506 - 1521), Lưu Kiện và Tạ Thiên của Nội các bị giáng chức đuổi khỏi kinh, chỉ còn lại một mình Lý Đông Dương. Đương thời Lưu Cẩn nắm quyền lực triều chính, Lý Đông Dương một cây chống chẳng vững nhà, không cách nào xoay chuyển. Vì vậy có người vẽ một bức tranh bà lão cưỡi trâu thổi sáo nhằm châm biếm. Trên trán bà lão đề "Thử Lý Tây Nhai (tên hiệu của ông) tướng nghiệp", nghĩa là "sự nghiệp tể tướng của Lý Đông Dương là đây", nhằm trào phúng Lý Đông Dương. Có người báo cho ông hay biết chuyện này, thế nhưng ông vẫn dửng dưng, tự đề lên tranh một bài thơ tuyệt cú: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca", nghĩa là "Dương Quý Phi thì bỏ thân nơi Mã Ngôi, Chiêu Quân mang theo ra biên tái nhiều ai oán. Sao như bà lão cưỡi trâu, hát vang khúc thái bình trong gió xuân". Về sau trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ Lưu Cẩn, họ Lý đã nổi lên như một nhân vật có vai trò mấu chốt.
(2) chính phủ triệu tập người dân thực hiện nghĩa vụ quân sự gọi là 'trưng dịch'
(3) loại lò sưởi cầm tay
Dương Lăng đến cổng cung, kiệu phu và bốn tay thị vệ tự đi sang chỗ tránh gió để sưởi nắng và nghỉ ngơi. Chỗ ở của Dương Lăng cách nơi này quá xa. Thường ngày y đều cưỡi ngựa vào thành nhưng lúc này hai tên đầu sỏ của bọn thổ phỉ một đã chạy trốn, một thì không biết có còn ẩn náu trong kinh sư không. Cho nên Dương Lăng không dám chủ quan, sợ chẳng may sẽ bị trúng tên bắn lén.
Chiếc ghế mềm nửa nằm hoa lệ trong chiếc kiệu lớn này đã bị bỏ đi, thay bằng hai băng ghế, một trước và một sau. Ngồi đối diện tấm rèm vải mỏng che cửa sổ kiệu ở băng trước là Ngũ Hán Siêu đang ăn mặc giống y. Dương Lăng ngồi băng phía sau, nhìn từ bên ngoài tuyệt không thấy chỗ nào đáng ngờ.
Dương Lăng là 'khách quen' trong cung, dù thị vệ trực gác được thay phiên ba ngày một lần nhưng ai cũng có thể nhận ra vị đại nhân này. Ngọ môn tướng quân (viên quan gác cổng Ngọ môn - ND) nhận lấy thẻ bài bằng ngà, liếc qua lấy lệ, rồi tươi cười hai tay dâng trả cho Dương Lăng.
Dương Lăng thuận tay nhét thẻ bài vào trong người rồi hỏi:
- Hoàng thượng vẫn chưa bãi triều à?
Ngọ môn tướng quân cười đáp:
- Dạ phải thưa đại nhân, hạ quan vẫn luôn canh gác cổng cung, các vị đại nhân chưa rời cung đâu.
Dương Lăng khẽ gật đầu, không xuôi theo hướng cầu Kim Thủy, mà đi vòng qua điện Thái Hoà. Lúc này tiếng chuông, trống đồng loạt vang lên, bá quan bãi triều, Dương Lăng đứng dưới cột hành lang lầu gác, đợi cho bá quan văn võ lui hết ra, đội nghi trượng của hoàng đế đi về phía hậu điện, đến khi chiếc lọng vàng khuất khỏi tầm mắt, y mới tiếp tục cất bước về phía trung điện.
Đến trước điện Hoa Cái, chỉ thấy có hai vị đại nhân đang nổi giận đùng đùng bước ra khỏi cổng điện, từ từ chạm mặt với Dương Lăng. Dương Lăng nhận ra họ gồm đại tài tử Vương Ngao từng thi đỗ Tam Nguyên và Chiêm sự Dương Phương thì lấy làm bất ngờ, bước chân bất giác dừng lại, chắp tay thi lễ với bọn họ.
Sau khi Lưu Cẩn giáng chức Lưu Kiện và Tạ Thiên, Dương Phương vì phẫn nộ mà cáo bệnh về quê, đã lâu không ở trong kinh, hôm nay bỗng thấy ông ta lộ diện, tuy không còn giữ cương vị xưa, song Dương Lăng vẫn dùng lễ đối đãi.
Dương Phương tuy già nhưng vẫn rất kiên cường, dù biết hiện nay chức vị Dương Lăng tuy không đổi, nhưng quyền thế ngút trời, có thể ảnh hưởng thao túng triều chính, song vẫn giữ mắt nhìn thẳng, lướt ngang vai mà đi.
Cách nhìn của Vương Ngao về Dương Lăng đã thay đổi rất nhiều, nhất là sau lần bá quan quỳ trước cổng cung trong đêm tuyết, Dương Lăng khuyên bảo hoàng đế thu hồi danh sách bè lũ gian thần, lại tiến cử Dương Nhất Thanh đang bị bãi quan và Vương Thủ Nhân đang ở trong ngục cầm quân giữ ấn, thì cảm nhận của ông về y tốt hơn rất nhiều. Thấy Dương Lăng thi lễ, ông vội vã dừng bước trả lễ và nói:
- Dương đại nhân hãy bớt lễ tiết, Dương chiêm sự đã phát sinh tranh chấp với Lý đại học sĩ nên mới tức giận bỏ đi, Vương mỗ phải đi khuyên giải đã.
Vương Ngao, Dương Phương vốn có quan hệ thân thiết với Lý Đông Dương, Dương Lăng không biết giữa bọn họ có tranh chấp gì, bèn vội mỉm cười nói:
- Xin Vương đại nhân cứ tự nhiên.
Vương Ngao cười gượng gạo rồi nâng áo đuổi vội theo Dương Phương. Dương Lăng ngẩn ngơ một chốc rồi cũng xoay người đi vào điện Hoa Cái.
Tiểu thái giám trông thấy Dương Lăng đến, vừa định cao giọng xướng lễ, Dương Lăng đã vung tay ngăn lại. Vén tấm rèm che làm bằng da dê dày cộp, y bước vào buồng sưởi bên phải. Bên trong, Lý Đông Dương đang ngồi chấp bút phê duyệt tấu chương.
Thấy Dương Lăng đi vào, Lý Đông Dương vội gác bút đứng dậy, mỉm cười với y:
- Dương đại nhân, sao hôm nay nhàn rỗi đến thăm vậy? Xin hãy mau ngồi.
Dương Lăng cười đáp:
- Không dám nhọc đại nhân đâu.
Nói đoạn tự kéo chiếc ghế dựa đến đầu bàn ngồi. Lý Đông Dương gọi người dâng lên một chén trà nóng, ngồi xuống rồi nói:
- Lão quan hoảng sợ khi nghe đêm qua có đám giặc cướp trắng trợn xông vào phủ của đại nhân gây hại, bản tấu của bộ Hình ghi lại không tỉ mỉ, chẳng hay bên ấy đại nhân có tình hình cụ thể và chi tiết không?
Dương Lăng đáp:
- Mấy tên giặc cướp bị bắt hung hãn không sợ chết, song cực hình của xưởng vệ không phải thứ mà da thịt có thể chịu đựng được, bọn chúng không thể không khai. Theo khẩu cung của đám đạo tặc đó, thủ lĩnh của bọn chúng là đại đạo Dương Hổ quả thực có ý đồ mưu phản, có điều hành động ban đêm tập kích phủ đệ của bản quan lần này dường như là do bất chợt nảy sinh, tuy nhiên rốt cuộc vì sao bọn chúng lại tụ tập đông người như vậy lặng lẽ vào kinh thành, thì đám đạo phỉ đó cũng không nắm rõ cụ thể.
Lý Đông Dương chau mày, khẽ gật đầu, nói:
- Ta đã xem qua kỹ lưỡng công văn từ bộ Hình, nếu nói bọn chúng đến là vì Dương đại nhân, về tình hay lý đều không thuyết phục, càng không cần phải giả danh Dương Phúc kết giao với đại nhân. Xem ra đích thực là do nhất thời nảy lòng, thay đổi kế hoạch, rốt cuộc mục đích ban đầu bọn chúng vào kinh là để làm gì, thực khiến người ta khó lòng nghĩ ra.
Dương Lăng cười nói:
- Lúc này để bộ Hình và quan phủ Bá Châu đi lùng bắt là được rồi. Những chuyện khôi hài về kẻ ngu dân mù quáng tin vào mấy lời nói vô căn cứ, tự cho mình là chân mệnh thiên tử nhiều vô số kể, hiện triều đình đang phát lệnh truy nã, thiết nghĩ bọn chúng cũng sẽ không dám giở trò gì đâu.
Chẳng phải thôn Mạnh Trì tỉnh Hà Nam từng có người tự cho mình là hoàng đế, nửa số dân của cả thôn đều là tể tướng, đại thần, đứa bé mười tuổi cũng phong làm Trạm Điện tướng quân, xưng vua gọi chúa hơn hai mươi năm mới bị triều đình phát hiện đó sao? Tiên đế hay tin cũng chỉ cười xoà cho qua, đám ngu dân đó không một ai bị trừng trị cả.
Lý Đông Dương nhìn y một cách đầy thâm ý, rồi vuốt râu nói:
- Hình như Dương đại nhân có ý rất muốn thông cảm lượng thứ cho đám cường đạo có ý đồ phản nghịch này thì phải?
… đoạn lắc đầu:
- Con đê dài nghìn dặm vỡ toang chỉ vì tổ kiến nhỏ, nhà cao trăm thước cháy rụi chỉ bởi ống khói hư. Dương Hổ không giống như đám ngu dân đấy. Hắn đã liên lạc đại đạo lục lâm của tam sơn ngũ nhạc, âm mưu tạo phản, thậm chí tập kích trọng thần triều đình ngay dưới chân thiên tử, có thể thấy sự hung hãn. Một khi khởi sự, nhất định sẽ là họa lớn khôn lường.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Đại nhân nói chí phải, có điều cái họa của bọn trộm cướp vốn lại do tệ nạn của triều đình, bằng không hôm nay diệt trừ Dương Hổ, ngày mai lại sẽ có Trương Hổ, Lý Hổ, sẽ không bao giờ giết hết được.
Tiên đế nắm quyền hơn mười năm, chăm lo việc nước, là vị vua hiền minh sáng suốt xưa nay hiếm có, chỉ bởi không biết vì sao mấy năm nay thiên tai liên miên, thường xuyên có lũ lụt cuồn cuộn nơi này, hạn hán nghìn dặm nơi nọ, lại có một đám tham quan không biết thương xót dân tình. Bá tánh thiếu cơm ăn áo mặc, nên mới mặc kệ triều đình trong sạch hay thối nát, bị kẻ có lòng mê hoặc, khó tránh có người làm loạn.
Y nâng chén hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp:
- Những vật trồng Nam Dương mà hạ quan giới thiệu quả thực có thể khiến sản lượng lương thực Đại Minh tăng trưởng mấy lần, cứu giúp vô số bá tánh. Hạ quan cho rằng Dương Hổ đột nhiên nảy lòng mưu hại bản quan, chính là vì những mầm cây được chăm sóc trong hầm sưởi mà ra. Có lẽ thoạt đầu hắn vì bị bức bách nên làm giặc, nay đồng bọn mỗi lúc một đông, lòng tham cũng lớn theo dần, có ý dòm ngó ngôi báu quốc gia, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn.
Lý Đông Dương cười lớn:
- Từ khi bản quan nghe nói về những giống cây trồng Nam Dương mà đại nhân giới thiệu, đã từng phái người đến Nam Dương điều tra qua một phen, đám cây trồng đó sản lượng quả thực rất cao. Tuy lão quan không biết Đông Bắc và Tây Bắc có thích nghi để trồng trọt hay không, song nếu trồng trên dải đất rộng lớn ở Giang Nam nhất định sẽ không thành vấn đề.
Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:
- Đại nhân đã điều tra rồi ư? Hạ quan tuyệt không nói dối. Đất khô hạn hoặc lạnh lẽo cũng đều thích hợp để trồng, sang xuân sau khi trồng thử liền sẽ biết rõ đúng sai, có điều việc này cũng chỉ có thể giúp bá tánh no bụng, nếu muốn cho dân giàu nước mạnh, giải trừ cấm biển mới là khẩn thiết.
Bá tánh vùng duyên hải chiếm ít nhất một phần tư dân số Đại Minh, nơi đó ba phần núi, sáu phần nước, ruộng đất chỉ chiếm một phần, đất hẹp người thưa, ngũ cốc không phong phú. Người dân sống ven biển đều lấy thuyền làm nhà, lấy biển làm ruộng, cấm biển rồi, sinh kế của bá tánh tiêu điều, khiến những kẻ tụ tập làm giặc mới ngày một đông.
Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, không chỉ giúp bá tánh được sung túc, làm dồi dào quốc khố, hơn nữa còn có thể tăng cường giao lưu với mọi quốc gia hải ngoại, người nước ngoài có sở trường của họ, chúng ta có sở đoản của chúng ta, lấy sở trường của họ bổ sung cho sở đoản của ta, trăm sông đổ về biển lớn, đều là con đường duy nhất để con dân Đại Minh có thể mở rộng tầm mắt và kiến thức, triều đình có thể mở rộng biên cương, kéo dài lãnh thổ, quân đội lớn mạnh, oai danh tứ hải. Đóng cửa làm xe còn không vừa khớp, huống hồ là một quốc gia to như vậy?
Lý Đông Dương gật đầu nói:
- Tình hình duyên hải, bản quan cũng đã sai người điều tra kỹ càng tỉ mỉ. Người xưa có nói: hang chuột tuy là nguồn gốc của cái xấu, cũng cần phải giữ lại một cái, nếu bịt hết lại rồi, nơi đâu cũng sẽ toàn lỗ thủng. Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương cũng có cái tác hại của nó, nhưng việc cai trị vốn là bỏ hại lấy lợi, chỉ vì mắc nghẹn mà bỏ cái ăn là điều rất không khôn ngoan.
Ông nhướng mắt mỉm cười:
- Thật ra bản quan cũng đã cân nhắc nhiều ngày, ta nguyện ý giúp đỡ Dương đại nhân gỡ bỏ lệnh cấm biển, mưu lược thông thương cùng với ngoại bang. Có điều theo bản quan thấy, vẫn còn hai điểm cần phải thương thảo. Thứ nhất là không thể thuyết phục bá quan triều đình, thứ nhì là nếu hiện tại gỡ bỏ lệnh cấm toàn diện, được cái này sẽ mất cái kia, loạn giặc Oa trên biển còn chưa...
Dương Lăng hưng phấn cắt ngang:
- Điểm thứ nhất không khó xử lắm, chỉ cần Lý đại học sĩ gật đầu đồng ý, những việc khác xin cứ giao cho hạ quan đi làm. Còn về điểm thứ hai, đại nhân lo lắng rất phải, hạ quan cho rằng có thể mở lại Bạc ty ở Ninh Ba và Quảng Châu thị trước, rồi mở tiếp Bạc ty ở Thiên Tân thị, cộng thêm Bạc ty sẵn có ở Tuyền Châu thị, tổng cộng bốn nơi.
Thiên Tân thông với Triều Tiên, La Sát. Ninh Ba thông với Nhật Bản. Tuyền Châu thông với Lưu Cầu. Quảng Châu thông với Chiêm Thành, Xiêm La và các nước Tây Dương. Tiếp để bộ Hình, bộ Lễ và bộ Hộ lập ra các nha môn quan lại quản lý luật pháp, tố tụng, thuế khoá và nghị định về giá cả hàng hoá giao dịch thông thương trong và ngoài nước. Đại nhân thấy có được không?
Điều mà Lý Đông Dương lo lắng nhất là Dương Lăng lạm quyền độc đoán, giành nắm hết quyền thông thương vào tay, nghe y nói vậy thì không khỏi lấylàm kinh ngạc: Dương Lăng hao tâm tổn sức muốn gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, chẳng lẽ lại không hưởng bất kỳ lợi ích, không muốn bất cứ quyền lợi gì ư?
Lý Đông Dương do dự một hồi, hỏi:
- Dương đại nhân khởi xướng việc này, chẳng lẽ một khi gỡ bỏ lệnh cấm rồi, nội xưởng sẽ không can thiệp vào trong ư?
Dương Lăng cười thầm trong bụng. Xem ra vị Lý đại nhân này không chỉ là hạng văn chương sáo rỗng, mà cũng biết theo đuổi lợi ích, là một người thực dụng đây. Một khi lệnh cấm thông thượng được gỡ bỏ, cửa hàng ngựa xe rải rác khắp toàn quốc của Dương Lăng sẽ trở thành ngành vận chuyển lớn nhất khống chế tiền bạc lưu thông, nếu nói một ngày thu về một đấu vàng thì cũng không hề quá lời chút nào
Dương Lăng lại nắm quyền Ty Thuế Giám, đến khi đó không biết bao nhiều người sẽ đâm lén, bắn trộm, ghen tức với lợi ích của y, cho dù Bát Hổ hiện giờ đang cương quyết đứng chung chiến tuyến với y, về lâu về dài cũng khó đảm bảo sẽ không có dị tâm. Dương Lăng sớm đã muốn vứt bỏ cái Ty Thuế Giám này.
Dương Lăng cười đáp:
- Người thông thương trên biển qua lại với ngoại bang rất nhiều, vừa có bộ Hình phán quyết kết quả kiện tụng, Cẩm Y Vệ lùng bắt con buôn phạm pháp, Ty Thuế Giám và Ty Thuế lại của bộ Hộ thay nhau phụ trách, Ty Thuế Giám thu thuế, Ty Thuế Lại giám sát thuế, cũng có thể đổi ngược lại, khiến cho các nha môn chế ước lẫn nhau, có thể tránh việc các nha môn mạnh ai nấy làm, tự tạo danh mục, giúp cho bá tánh đỡ khổ.
Lý Đông Dương cười vui vẻ nói:
- Xem ra Dương đại nhân suy nghĩ tường tận, sớm đã có lòng tin. Rất tốt, đại nhân thấy khi nào thì nên dâng tấu lên Hoàng thượng?
Dương Lăng thầm tính toán: thám mã điều tra quan viên có bố cảnh thân hào sĩ tộc duyên hải trong triều vẫn chưa đưa tin tức về đầy đủ, chiến sự phương bắc đang căng thẳng, lúc này đề xuất chính sách mới cũng không thích hợp, bèn nói:
- Bản quan thấy hay là đợi chiến sự phương bắc yên ả trở lại, triều đình mới có toàn lực ứng phó làm tốt việc lớn này. Vậy quyết định vào... tháng hai năm sau thì thế nào?
Lý Đông Dương mỉm cười gật đầu, Dương Lăng thoải mái trong lòng, đặt chén trà lên bàn, lúc này mới để ý trên bàn đang bày ra một bức tranh. Nếu là công văn Lý Đông Dương đang xử lý thì y cũng không tiện xem kỹ, nhưng nếu là một bức tranh thì lại không có gì. Dương Lăng thuận tay xoay bức tranh lại, chỉ thấy trên tranh vẽ một bà lão xấu xí đang cưỡi trên lưng một con trâu, vênh vang thổi sáo, trên trán bà lão đề một hàng chữ nhỏ: "Sự nghiệp tể tướng của Lý Tây Nhai là đây(1)".
Tây Nhai là tên hiệu của Lý Đông Dương, kẻ nào mà quá to gan, không ngờ dám sỉ nhục lão như thế? Dương Lăng giật mình thất kinh, liền không kịp nhìn kỹ bên dưới, ngạc nhiên hỏi:
- Là... là kẻ nào vô lễ như vậy, dám vẽ tranh sỉ nhục đại nhân vậy?
Lý Đông Dương cười hờ hững, nói:
- Dương Phương và lão phu đùa giỡn một chút mà thôi, không can hệ gì, ha ha.
Dương Lăng nhớ lại tình cảnh ban nãy Dương Phương nổi giận đùng đùng rời khỏi đây, lại đăm chiêu xem tiếp phía dưới bức tranh đó. Tranh không phải mới vừa được vẽ, nhưng bên tranh lại đề một bài thơ chưa ráo mực, hiển nhiên mới được đề lên chưa lâu. Bài thơ tuyệt cú đó như rồng bay phượng múa, viết rằng: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca." (dịch thơ:)
Lời đề tặng cũng là Tây Nhai, thì ra là khi nãy Lý Đông Dương xem xong tranh đã đề thơ. Câu thơ khí phách vô cùng, không hề quan tâm đến ý châm biếm ông ăn trên ngồi trốc, cúi đầu với nịnh thần ở trong tranh, ngược lại còn xoay chuyển bố cục, đưa ra một cái nhìn khác. Dương Lăng giở tranh xem xong, đứng thẳng người dậy, cung kính vái Lý Đông Dương một vái thật dài.
Lý Đông Dương kinh ngạc hỏi:
- Dương đại nhân làm vậy là ý gì?
Dương Lăng đáp:
- Đại học sĩ khí tiết thanh cao, bụng dạ rộng lượng, khiến cho Dương Lăng khâm phục không thôi. Bức tranh này do tài tử Dương Phương vẽ, Thủ phụ Lý công đề thơ, Dương mỗ xem xong xúc động muôn phần. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, còn mong đại học sĩ tặng bức tranh này cho hạ quan, hạ quan nguyện học theo đại nhân, vì Đại Minh, vì bá tánh, còn sợ chi lời ra tiếng vào?
Trong mắt Lý Đông Dương thoáng loé lên vẻ kỳ dị. Lần trước Dương Lăng đến nhà thăm viếng, vừa vào đề liền mắng ngay Bát Hổ, ông liền thầm nghi ngờ Dương Lăng làm vậy là vì muốn chơi trò hai mặt với Bát Hổ, mượn sức Bát Hổ để thể hiện tham vọng trong lòng. Quan sát hành động của y hôm nay, nghe ý tứ trong lời nói của y, hiển nhiên đây cũng là người đồng đạo. Lý Đông Dương lo lắng ở chỗ Bát Hổ thế to, hoàng thượng lại ham chơi, đế quốc to như vậy, một mình ông khó chống, nếu như Dương Lăng thật sự là người cùng chung chí hướng, vậy còn phải lo lắng gì?
Lý Đông Dương mừng lắm, nói:
- Chỉ là một bức tranh mà thôi, nếu như Dương đại nhân thích, vậy cứ cầm lấy đi.
Dương Lăng cuộn bức tranh lại cất vào người, ngồi xuống rồi nói:
- Vừa rồi Dương đại nhân nuốt giận mà đi, lại để lại bức tranh ngầm châm biếm, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Lý Đông Dương nói với giọng bất đắc dĩ:
- Lưu công công chủ trì nội đình trước nay, một số đại thần trong triều rất bất mãn, lũ lượt cáo bệnh không đến nha môn làm, khiến cho rất nhiều nha môn có quan lại không ai xử lý công việc, công văn chất cao như núi.
Cộng thêm chiến sự phương bắc căng thẳng, trưng dịch(2), sung quân, chiến sự, cứu tế, lương thảo, điều binh, liên can đến hơn chục nha môn, quan chủ sự vắng mặt, chánh lệnh không được thi hành, đã lỡ rất nhiều đại sự.
Lưu công công giận đến tím mặt, liền ban lệnh rằng: quan viên không thể xử lý công vụ đến một tháng do bị bệnh, miễn bổng lộc tháng đó; đến một năm, giáng xuống chức quan nhàn tản; đến ba năm, bãi quan làm dân, không bao giờ thu nhận lại.
Những quan viên đó hết cách đành phải trở lại nha môn làm việc. Lưu công công vẫn chưa nguôi giận, lại xin thánh dụ, nói rằng quan văn quá lạm dụng ban thưởng, sau này nếu không có chiến công hiển hách, chính tích chói lọi, không được ban thưởng. Dương đại nhân vừa mới trở lại nha môn, nghe được tin tức chỉnh đốn quan văn này liền giận đến tím mặt, tìm gặp lão phu để lý luận, kết quả... Chao ôi!
Dương Lăng nghe xong cũng phẫn nộ vô cùng: đây mà là thanh quan ư? Bất chấp đại cuộc, không thấy được đạo lý, chỉ vì cái 'phong cách thanh cao' đáng tởm ấy của bọn họ, mà gác lại toàn bộ chính sự sang một bên, gác lại việc quân có quan hệ đến sống chết của hàng nghìn hàng vạn bá tánh sang một bên, cáo bệnh nghỉ ốm, yên tâm thoải mái mà hưởng thụ bổng lộc triều đình. Thật là một đám khốn nạn!
Dương Lăng nghiến hàm răng lại, cười gằn nói:
- Quan lại tham ô phạm pháp, không đáng dùng! Quan lại thanh liêm nhưng tầm thường vô năng, không đáng dùng! Quan lại bảo thủ tuy thanh liêm và giỏi giang song lại thiển cận, trở ngại triều đình trừ bỏ tệ bệnh, hưng thịnh Đại Minh, càng không đáng dùng! Có lẽ Lưu công công có rất nhiều điểm bị người ta chỉ trích, và mục đích để chỉnh đốn lại cũng không chính đáng gì, nhưng quan lại như vậy, thực đáng vứt đi không dùng. Hạ quan kiên quyết ủng hộ quyết định này của Lưu công công.
Dương Lăng đã thật sự nổi giận, bèn đứng dậy nói:
- Đại học sĩ không cần phải khó xử, những việc ác này hãy cứ giao cho Lưu công công đi làm là được. Triều đình thực thi biện pháp chính trị, dẫu sao cũng không thể không mất lòng nhau, cả nhà cùng vui. 'Trầm chu trắc bàng thiên phàm quá, bệnh thụ tiền đầu van mộc xuân'(*), những hủ bại vướng víu chân tay này, cứ đá văng đi là xong! (*tạm dịch: một chiếc thuyền chìm nghìn chiếc vượt, một cây phải bệnh vẫn xanh rừng)
Dương Lăng cáo từ lui khỏi điện Hoa Cái, cơn giận trong lòng mới nguôi được một ít. Tuyết đọng trong cung đã được quét sạch, không khí khô mát, Dương Lăng hứng cơn gió lạnh lùa vào mặt, thần chí liền thanh tỉnh lại, mới cảm thấy mình vô cớ nổi giận như vậy, dường như đã quá dễ bị kích động rồi.
Y âm thầm cảnh tỉnh bản thân: giờ đây quyền uy của mình mỗi ngày một lớn, mỗi một lời nói mỗi một hành động đều dẫn đến sự chú ý của mọi người, không nên hành động theo cảm tính, giận vui đều lộ hết ra mặt, sau này cần phải để ý tu thân dưỡng tính hơn, học cách đối nhân xử thế.
Dương Lăng uốn cong lưỡi hít sâu vào một hơi, toàn thân thả lỏng, rồi dựa theo phương pháp mà Ngũ Hán Siêu đã chỉ dạy: tay trái vòng vào trong, như vẽ một quả cầu tròn, ngón trỏ tay phải bấm vào chi ngọ trên ngón giữa, hai gối hơi trùng, chân đi chậm rãi, như bước nhẹ trên mây.
Đây là nội công tâm pháp thượng thừa của Võ Đang, nếu luyện đến đại thành, có lẽ phải mất đến mấy mươi năm. Dương Lăng đã qua tuổi đẹp nhất để tập võ, cũng không nghĩ hề nghĩ sẽ luyện thành cao thủ võ lâm gì, chủ yếu luyện cho tinh thần và thể xác được khỏe mạnh và tu thân dưỡng tính mà thôi.
Có điều thuật thổ nạp này quả thực có chỗ kỳ diệu, chẳng những khiến tâm linh con người thanh sảng, không còn bồn chồn nóng nảy, tĩnh tọa một hồi cũng có thể giải trừ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái. Dương Lăng chẳng thèm quan tâm đến cái gì là môn quy, nghe xong khẩu quyết, hỏi cho kỹ càng, trở về liền giảng kỹ lại cho Ấu Nương nghe một lượt. Hàn Ấu Nương vốn đã có nền tảng vững chắc, lại từng luyện qua ngạnh khí công, vì vậy học thêm công phu thượng thừa không khó. Bản thân Dương Lăng đã không thể thành tài, nhưng nếu nương tử học được rồi, thì chẳng khác con cháu đời sau của nhà họ Dương cũng sẽ học được, cái lợi trong đó Dương Lăng coi như cũng hiểu được.
Dương Lăng mới học mới luyện, động tác hơi lóng ngóng, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, dáng đi kỳ dị nhẹ nhàng tiến về phía Tây Noãn gác cung Càn Thanh. Khi ngẩng đầu thì nhìn thấy Chính Đức toàn thân vận long bào màu đen tuyền, đầu đội mũ Dực Long, tay ôm cái lò sưởi(3) trước bụng, đang nhìn y cười tủm tỉm, đám thái giám và cung nữ đúng chung quanh và một đám người cũng đều đang ngóng nhìn, mặt đầy vẻ hiếu kỳ.
Dương Lăng không khỏi cười ngượng nghịu, liền vội bỏ tư thế đó rồi vội vã bước tới thi lễ:
- Vi thầm tham kiến hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại đứng đây?
Chính Đức anh tuấn, mặt như ngọc, kéo Dương Lăng dậy mừng rỡ nói:
- Ha ha, trẫm đang ở trong sân xem du hí tạp kỹ, nghe có người nói khanh đi lắc la lắc lư, giống như một con vịt, cho nên chạy qua xem náo nhiệt một chút.
Dương Lăng thoáng đỏ mặt, trông thấy trong sân dựng cái đài, cửa điện Noãn gác mở rộng, bên trong đốt một lò than, chính giữa bày một chiếc ghế nằm hình rồng cuộn, bên trên trải thêm một tấm thảm nhung mượt trắng như tuyết.
Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn si mê những trò tạp kỹ này, không khỏi nhắc nhở nhẹ nhàng:
- Hoàng thượng, cũng khó trách đám ngoại thần càm ràm bát sát, hoàng thượng đã kế thừa đế vị, cưới hậu nạp phi, qua mấy ngày nữa sẽ thay đổi niên hiệu thành Chính Đức, nay trong triều chưa ổn định, biên ải lại đang có chiến tranh, ngài thật không nên quá phân tâm vào những việc này.
Chính Đức nhăn nhó nói:
- Lý học sĩ khuyên, Dương sư phụ khuyên, Tiêu đại nhân khuyên, giờ khanh cũng tới khuyên trẫm. Bị nhốt trong thâm cung, mỗi ngày những nơi trẫm có thể đi đến chỉ có điện Thái Hòa, cung Càn Thanh, cung Nhân Thọ. Sinh ra và lớn lên ở đây, ngẩng đầu lên là cái bầu trời đó, cả ngày ngoại trừ thượng triều, nghe giảng, phê duyệt tấu chương, thì không còn gì khác, ít ra cũng phải để trẫm kiếm chút gì đó làm chứ? Dương thị độc, tấu chương của trẫm đều được phê duyệt đúng hạn, tuyệt không tồn đọng đâu nhé.
Dương Lăng nghe hoàng thượng 'kể khổ' như vậy, chỉ đành nói:
- Nhưng mà... trời lạnh rét, hoàng thượng dựng đài xem tạp kỹ trong sân, cửa Noãn gác lại mở toang, nếu bị nhiễm phong hàn, vậy sẽ nguy biết bao!
Chính Đức không nghĩ vậy, nói:
- Đâu dễ như thế. Sáng nào trẫm cũng luyện Thái tổ trường quyền hai lần, đều mặc áo manh giáp mỏng, luận về thân thể, trẫm còn khỏe khoắn hơn khanh đấy.
Đoạn y phấn khởi nói:
- Đúng rồi, khanh theo trẫm vào trong điện. Hôm nay mấy con khỉ cũng đã biết đánh quyền, cho khanh xem mở rộng tầm mắt.
Chỉ thấy, một lão già mặc một đồ màu xanh nước biển, đầu đội khăn vuông, dắt bốn con khỉ bước ra, làm đủ các trò nhào lộn, chồng người, hay nhất là lão già vừa hút sáo một tiếng, bốn con khỉ liền xúm lại đánh quyền. Dương Lăng thấy hai con khi vung vẩy cái chân đầy lông lá của chúng, lảo đa lảo đảo trông hết sức ngây ngô, bèn không kiềm được mà mỉm cười vỡ lẽ: trông bộ dạng, có lẽ là đang đánh túy quyền.
Hai con khỉ còn lại đánh quyền đâu ra đấy, có bài có bản hẳn hoi, tuy chưa được bốn năm chiêu liền chạy về bên lão già xin trái cây ăn, song Chính Đức lại nhìn ra bài quyền chúng đánh đích thực là Thái tổ trường quyền, bèn vỗ tay cười nói:
- Người đâu, thưởng cho thưởng cho.
Hai tên tiểu thái giám xách cái sọt nhỏ, cười hì hì đi tới trước bậc thềm, dùng sức ném cái sọt ra ngoài một cái, trong cái sọt đều là tiền đồng mới toanh, sợ không dưới nghìn văn tiền, vương vãi xuống đất kêu rào rào.
Chính Đức cười bảo:
- Ha ha, trẫm thấy mấy con khỉ này còn dễ mến hơn cái đám người đáng ghét trong cung và ngoại đình đó. Dương thị độc, khanh thấy chúng đánh quyền có hay không?
Dương Lăng mỉm cười, chợt nghe trong phòng bên được ngăn cách bởi cửa sổ có tiếng đàn ông cất lên:
- Đích xác là thú vị, mấy con khỉ này thật thông minh, nhớ buổi sáng thấy Hoàng thượng luyện tập quyền cước, bài Thái tổ trường quyền uy vũ nhanh nhẹn, liền học trộm được chiêu thức ngay.
Dương Lăng sững ra, tròn xoe hai mắt: giọng nói đó giống hệt như y, âm điệu và ngữ khí đều hoàn toàn giống, thậm chí y còn nghi ngờ rằng có phải mình đang ở trong căn phòng khác không. Tiếp theo sau đó, một tràng cười lớn đắc ý truyền ra, lại nghe giọng nói của hoàng đế "Chính Đức":
- Tuy rằng thú vị, nhưng xem cũng đã chán rồi. Nếu là cảnh xuân về hoa nở, muôn chim tranh hót, cảnh đẹp ấy hơn xa xem mấy con khỉ này nhiều.
Theo đó, giọng nói "Dương Lăng" lại cất lên:
- Điều đó có gì khó? Hoàng thượng là thiên tử, muốn ra lệnh cho xuân về khắp mặt đất, trăm hoa đua nở, muôn chim đến hót, có lẽ vị thần xoay chuyển bốn mùa cũng không dám không tuân thánh dụ.
Âm thanh chưa dứt, lờ mờ lại nghe như có tiếng chim tước hót vang, dần dà tiếng vó ngựa nổi lên, có tiếng cười yêu kiều duyên dáng, khiến trong đầu người ta bất giác hiện ra một bức tranh cung nữ đạp xuân, chậm rãi bước tới; rừng tùng, nước chảy, cảnh trí mênh mông sâu thẳm như hiện ra ngay trước mắt, lại có phu tử ngâm thơ, tiếng tiêu réo rắt.
Mắt Dương Lăng càng lúc càng mở lớn, tim đập loạn thình thịch, suýt nữa thì đã buột miệng thốt ra một cái tên. Y không kiềm nén được tâm tình lao qua, vừa kéo mở cửa gác, các loại âm thanh lập tức im bặt, hai người con gái xinh đẹp đang khom nửa người kinh ngạc đứng dậy.
Hai người thiếu nữ xinh đẹp vận áo lĩnh tím, gấm đen, chẽn đỏ, dưới mặc váy màu xanh nhạt, hai bàn chân yêu kiều xỏ đôi giày da dê màu vàng, nước da sáng ngần thơm ngát, khuôn mặt trái xoan, cặp mày lá liễu, chính là hai người con gái phường hát y gặp qua lần trước.
Tu Hoa vẫn vậy, là một khuôn mặt xinh đẹp đầy lạnh lùng, Giải Ngữ thì lại cười tươi liếc y, má tựa mây hồng, mắt như thu thủy, càng khiến người ta rung động tâm hồn. Chính Đức lầu bầu nói:
- Không vui gì cả, không vui gì cả, đợi chút nữa sẽ còn có tiết mục thiếu niên hung ác thôn quê khinh nhờn dân nữ, trẫm ra tay cứu người cho khanh xem đấy, bị vạch trần như vậy mất hết cả vui đi, khanh thực là dễ bị kích động quá.
Dương Lăng thất vọng quay người lại, lặng lẽ đến bên thân Chính Đức nói:
- Vi thần... vừa nãy nghe loại khẩu kỹ giống y như đúc này, bất giác nhớ tới một cố nhân, còn tưởng rằng... ngoài cửa là cô ấy...
Giải Ngữ và Tu Hoa cũng bước tiến vào trong điện, duyên dáng đứng hai bên Chính Đức, nghe thấy lời này hai cặp mắt xinh xắn đều dồn vào người Dương Lăng.
Chính Đức lấy làm lạ bèn hỏi:
- Lúc trẫm được nghe khẩu kỹ này quả sự đã rất kinh ngạc, ngay cả tiếng đàn sáo nhạc cụ bọn họ cũng bắt chước được, vị cố nhân đó của khanh là ai, cũng có bản lĩnh như vậy sao?
Dương Lăng nhớ đến người thiếu nữ đứng trong nắng, vẻ mặt rạng ngời giải thích với y. Nàng thoáng nhướng đôi mày liễu, nụ cười trong vắt:
- Dương đại nhân, tiêu này của tiểu tỳ ấy, không cần tiêu thổi...
Giọng nói yêu kiều giòn giã vẫn còn quanh quẩn bên tai. Y lại nhớ tới tảng đá dính máu và vài sợi tóc bên dốc núi nọ, con tim như thắt lại. Cổ họng Dương Lăng nghèn nghẹn, y ho khan vài tiếng rồi mới cảm thán nói:
- Vị cố nhân này, hoàng thượng ngài cũng biết, đó chính là vị Đường cô nương... Đường Nhất Tiên.
- Đường... Nhất Tiên...
Chính Đức từ từ nhớ lại, sắc mặt cũng dần trở nên ảm đạm, người con gái lưu lại bóng hình đầu tiên trong lòng hắn, nào dễ dàng quên được.
Hai người đàn ông im lặng, bọn thái giám và cung nữ trong cung không biết đã xảy ra chuyện gì, không ai dám mở miệng nói gì. Giải Ngữ và Tu Hoa đưa mắt nhìn nhau, khẽ mím môi, hàng mi dài cong vút chớp chớp không ngừng, vẻ mặt hết sức hiếu kỳ.
Đàn ông bọn họ gặp đã nhiều, song thực hiếm thấy khi hai người đàn ông ở trước mặt, một người là hoàng đế tay ôm thiên hạ, một người là trọng thần triều đình dưới một người trên vạn kẻ, muốn bao nhiêu mỹ nữ cũng được, lại có thể biểu lộ cảm xúc hoài niệm khi nhắc đến một người con gái. Người con gái đó là ai? Nhất Tiên... cái tên thật là đẹp.
Chính Đức rờ mũi, một lúc sau mới chợt hỏi:
- Vẫn chưa có tin tức gì sao? Cho dù là... tin xấu?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Dạ chưa, bên phía quan phủ đã sớm bỏ qua tìm kiếm, vi thần đã sai phiên tử Nội xưởng để ý quan sát, tuyệt nhiên vẫn không có manh mối.
Chính Đức chán nản vung tay nói:
- Giải tán hết đi, Dương thị độc vào cung, nhất định có việc công cần bàn với trẫm.
Đoạn hắn nhìn sang Liễu Giải và Tu Hoa, hai người con gái rất biết điều, biết khi nào có thể làm nũng đùa cợt, khi nào phải giữ phận, lập tức nhún người thi lễ, rồi cũng lặng lẽ lui ra.
Hai người đi vào thư phòng, Chính Đức ngồi lên ghế, thuận tay chỉ xuống bảo:
- Khanh ngồi đi.
Thư phòng của Hoàng thượng làm gì có chiếc ghế thứ hai, bên cạnh chính là giường ngủ của Chính Đức. Từ dạo bị Vương Quỳnh trỏ mặt mắng cho một trận, Dương Lăng đã không dám không để ý đến những tiểu tiết này nữa, bèn mỉm cười đứng trước ngự án, nói:
- Tạ hoàng thượng, thần đứng đây cũng tiện bẩm báo sự tình rồi.
Chính Đức gật nhẹ đầu, liếc mắt trầm ngâm một chốc rồi hỏi:
- Là chuyện gỡ bỏ lệnh cấm biển có manh mối hay là biên tái phương bắc có chiến sự khẩn cấp?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Thưa, đều không phải. Hoàng thượng còn nhớ trước lúc xuất binh từng bí mật căn dặn Miêu Quỳ nghiêm trị Tiểu vương tử, răn nhẹ Hỏa Sư, phân hóa bọn chúng, và bí mật liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ không?
Mắt Chính Đức liền sáng lên, hưng phấn hỏi:
- Có phải đã có hiệu quả?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Dạ, Tiểu vương tử nghi ngờ Hỏa Sư có hiệp nghị bí mật với Đại Minh, hiện đang rất đề phòng bọn họ, một vạn năm nghìn nhân mã của Hỏa Sư đang bị an bài bên sườn, một mình chống cự với đại quân của Tổng binh Hứa Thái, lương thảo cướp được cũng không muốn chi viện cho bọn họ, có rất nhiều bộ hạ của Hỏa Sư đã buông lời oán hận. Tình thế chiến trường trước mắt xem ra không nguy cấp lắm, Dương Nhất Thanh án binh bất động, lại níu chặt lấy chân Tiểu vương tử không cho hắn đi, trong đó tất có ý đồ. Có điều hằng năm giặc Thát đều đến biên cảnh ta cướp bóc, họa này nhất định phải tiêu trừ, hiện tại phân hóa Hỏa Sư chỉ là bước thứ nhất.
Nếu đạt được sự hỗ trợ của Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta sẽ có thể không tốn gì mà có được một đội tinh binh, đồng thời mỗi năm có thể lấy được lượng lớn chiến mã từ vùng Hà Sáo. Một mặt vừa có thể tăng cường tính cơ động và năng lực tác chiến của biên quân.
Mặt khác, bá tánh vùng Hà Bắc phụ trách dưỡng mã, nhưng nơi đó lại không nuôi cho ra được ngựa tốt, bá tánh cực công phu dịch, uổng công khổ lao, mà lại không đem nhiều ích lợi cho đất nước. Nếu có thể cải thiện quan hệ với Đóa Nhan Tam Vệ, sẽ có thể khiến bá tánh trút được gánh nặng này. Chúng ta có được ảnh hưởng ở Hà Sáo và Liêu Đông rồi, tương lại sẽ có thể tiến thêm một bước, mở mang bờ cõi, chiếm lấy thảo nguyên phì nhiêu. Sau đó đi vào A Lạp Bá Mã (tên gọi các dân tộc Ả Rập xưa - ND), dùng nó để cải tạo ngựa Mông Cổ và Tây Nam, thì ưu thế của Thát Đát Mông Cổ sẽ không còn nữa.
"Mở mang bờ cõi", đó là cụm từ khiến cho mọi vị vua từ xưa đến nay động lòng nhất. Trong các triều đại lịch sử, chưa một vị vua nào dám sánh mình với vị vua khai quốc. Cho dù là quân vương có sáng suốt và tài đức cỡ nào thì chính tích cũng không thể nào rạng rỡ và chói lọi như mở mang bờ cõi được.
Trái tim của Chính Đức đập thình thịch, khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn đỏ bừng vì hưng phấn, hắn gật đầu lia lịa:
- Dương khanh nói rất đúng, đánh với Thát Đát một trận bất quá chỉ là công tích nhất thời, kết minh với Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta thêm một đội quân, địch quân mất đi một mảnh đất, lại phân hóa làm cho bọn chúng tan rã, mới là sách lược chính trị lâu dài. Nếu sự này thành, công lao của Dương khanh thực sẽ không chỉ như đại tướng công thành chiếm đất, chém tướng đoạt cờ. Có phải phía Đóa Nhan Tam Vệ đã nhận được mật hàm của triều đình không?
Dương Lăng gật đầu thưa:
- Đã liên hệ được với bọn họ, tuy vậy do giữa chúng ta và Đóa Nhan Tam Vệ từng có rất nhiều bất hòa, đại thủ lĩnh Hoa Đáng tuy có lòng hướng về phía phe Đại Minh chúng ta nhưng trong ba bộ lạc lớn lại có rất nhiều quý tộc vẫn còn nặng lòng nghi ngờ. Bọn họ không tin tưởng sứ thần mà chúng ta phái đi lắm. Tin tức hồi đáp là các tù trưởng đó muốn Đại Minh ta...
Y thoáng do dự. Điều kiện Hoa Đáng đưa ra quả thực đã đặt địa vị của hắn ngang hàng với thiên tử Đại Minh, nếu y nói ra chỉ sợ thiên tử Chính Đức sẽ long nhan nổi giận. Song đây là việc lớn, y thực không dám bỏ qua, Dương Lăng bèn lấy hết can đảm nói:
- Hoa Đáng chẳng qua chỉ là đại tù trưởng một bộ lạc thảo nguyên, không học thánh hiền, không hiểu lễ nghi, thế mà lại yêu cầu hoàng thượng phải đích thân đến Đại Đồng, cùng hắn uống máu ăn thề trên núi Bạch Đăng, thì Đóa Nhan Tam Vệ mới chịu nương về Đại Minh.
Dương Lăng nói xong liền vội vã chêm thêm:
- Tuy nhiên chuyện này thực vẫn có thể mặc cả. Theo ý vi thần, hoàng thượng có thể cử một vị tông thân hoàng thất thay mặt cho triều đình và thiên tử đi đến nơi hẹn ước, ắt sẽ có thể xua tan mối lo ngại của hắn.
Không ngờ, nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, Chính Đức nghe xong không hề nổi giận, ngược lại vuốt cằm như có điều suy nghĩ. Trầm ngâm một hồi lâu, hắn mới khẽ mỉm cười, ngước mắt nhìn Dương Lăng và nói:
- Muốn trẫm đích thân đến gặp bọn chúng? Cho dù là Bá Nhan Khả Hản lúc đánh hay cầu hòa cũng đều lấy lễ bầy tôi mà đối đãi với trẫm. Lá gan của Hoa Đáng thực không nhỏ.
Dương Lăng nghe vậy thì cuống lên, vội nói:
- Hoàng thượng, vi thần cũng biết Hoa Đáng làm vậy thực hơi cuồng vọng, nhưng việc nhỏ nếu không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng.
Ánh mắt của y chợt trở nên ranh mãnh, thấp giọng nói khẽ:
- Không cùng tộc với ta, tim nó ắt khác. Đóa Nhan Tam Vệ tựu chung vẫn là kẻ ngu muội, bọn chúng nương về chúng ta, chỉ bởi bọn chúng không có thực lực lớn mạnh như Bá Nhan Khả Hãn có thể cướp bóc của cải với số lượng lớn, cho nên hiện tại hợp tác chẳng qua là vì lợi ích riêng.Hiện tại chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, sau này sức nước cường thịnh, vũ lực đầy đủ, chẳng những sẽ sát nhập Thát Đát Mông Cổ, Ngõa Thích Mông Cổ vào bản đồ Đại Minh, mà con hổ cạnh giường này sao có thể là ngoại lệ? Việc nhỏ không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng đó bệ hạ.
- Ha ha ha ha...
Hoàng đế Chính Đức đứng dậy, cười như con gà mái đẻ. Hắn đấm vào ngực Dương Lăng một cái, cười khanh khách:
- Ai nói trẫm không thể nhẫn nhịn tạm thời?
Đoạn hắn xòe hai tay ra, chớp chớp mắt nói:
- Tiên hoàng chỉ có mỗi một mụn con là trẫm, tông thân hoàng tộc khác đều phong làm vương gia ở các nơi, há có thể thay mặt triều đình và thiên tử? Nếu là ái khanh thì phái ai đi mới thích hợp đây? Là thái hoàng thái hậu? Thái hậu? Hay là hai vị ngự muội của trẫm?
Dương Lăng nghe xong mà nghẹn họng, trong lúc còn chần chừ, chợt thấy Chính Đức nhảy bật lên, ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ha ha, một khi vận khí lên hương, liền như nước lũ tường thành khôn ngăn. Cái tên Hoa Đáng thực đáng yêu quá đi.
Đoạn hắn dương dương đắc ý nói:
- Lần này trẫm sẽ đích thân đi đến Đại Đồng, đó là vì nước vì dân, vì giang sơn xã tắc Đại Minh, bá quan văn võ sẽ không nói gì nữa chứ?
Dương Lăng nghe vậy thì há hốc mồm, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bừng, hai tay chống nạnh nói:
- Không để trẫm đi công khai, trẫm sẽ lén đi. Đại Đồng trẫm đã quyết định sẽ đi rồi!
Đoạn hắn chỉ vào Dương Lăng, nói với giọng oai phong lẫm liệt:
- Chuyện này giao cho Dương khanh phụ trách. Qua năm mới, chúng ta sẽ mở đường Tuyên Phủ, thẳng tiến Đại Đồng!
Chú thích:
(1) nguyên văn "Thử Lý Tây Nhai tướng nghiệp". Tích rằng: vào năm Chính Đức (1506 - 1521), Lưu Kiện và Tạ Thiên của Nội các bị giáng chức đuổi khỏi kinh, chỉ còn lại một mình Lý Đông Dương. Đương thời Lưu Cẩn nắm quyền lực triều chính, Lý Đông Dương một cây chống chẳng vững nhà, không cách nào xoay chuyển. Vì vậy có người vẽ một bức tranh bà lão cưỡi trâu thổi sáo nhằm châm biếm. Trên trán bà lão đề "Thử Lý Tây Nhai (tên hiệu của ông) tướng nghiệp", nghĩa là "sự nghiệp tể tướng của Lý Đông Dương là đây", nhằm trào phúng Lý Đông Dương. Có người báo cho ông hay biết chuyện này, thế nhưng ông vẫn dửng dưng, tự đề lên tranh một bài thơ tuyệt cú: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca", nghĩa là "Dương Quý Phi thì bỏ thân nơi Mã Ngôi, Chiêu Quân mang theo ra biên tái nhiều ai oán. Sao như bà lão cưỡi trâu, hát vang khúc thái bình trong gió xuân". Về sau trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ Lưu Cẩn, họ Lý đã nổi lên như một nhân vật có vai trò mấu chốt.
(2) chính phủ triệu tập người dân thực hiện nghĩa vụ quân sự gọi là 'trưng dịch'
(3) loại lò sưởi cầm tay