Nó sẽ thành công. Họ có thể khiến nó thành công, Jonas tự nhủ, lặp đi lặp lại suốt cả ngày. Nhưng tối đó mọi thứ đã thay đổi. Tất cả những điều họ tính toán tỉ mỉ đến thế đã sụp đổ. Tối đó, Jonas bắt buộc phải bỏ đi. Cậu rời khỏi nhà ngay sau khi trời sập tối và cộng đồng trở nên yên tĩnh. Việc này cực kỳ nguy hiểm vì một vài đội vẫn đang làm việc, nhưng cậu đi rón rén và nhẹ nhàng, ẩn mình trong bóng tối, chọn đường tới dòng sông băng qua những căn hộ tối tăm và Quảng trường Trung tâm vắng lặng. Bên kia Quảng trường, cậu có thể thấy Nhà Dưỡng lão, với Nhà Chái phía sau, nổi bật trên nền trời đêm. Nhưng cậu không kịp dừng lại đó. Thời gian lúc này được tính theo từng phút, và mỗi phút cậu phải rời cho xa khỏi cộng đồng.
Giờ đã lên tới cầu, cậu gò mình đạp xe thật nhanh. Cậu có thể thấy dòng nước tối đen đang gợn sóng phía dưới.
Thật ngạc nhiên là cậu không thấy sợ, cũng không thấy một chút hối hận nào vì đã bỏ lại cộng đồng. Nhưng cậu cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc vì đã bỏ lại người bạn thân nhất của mình. Cậu biết rằng do tính chất nguy hiểm của cuộc chạy trốn, cậu phải tuyệt đối im lặng; nhưng bằng trái tim và tâm hồn, cậu đã gọi vọng về và hy vọng rằng với khả năng nghe vượt giới hạn, Người Truyện thụ sẽ biết rằng Jonas đã nói lời từ biệt.
Chuyện xảy ra vào bữa tối. Gia đình cậu cùng nhau ăn tối như mọi khi: Lily huyên thuyên đủ điều, Mẹ và Bố đưa ra nhận xét theo thông lệ (và cả những lời nói dối nữa, Jonas biết thế) về ngày hôm đó. Gần đó, Gabriel vui vẻ chơi đùa trên sàn nhà, bập bẹ nói, thỉnh thoảng lại mừng rỡ nhìn Jonas, rõ ràng là rất sung sướng thấy cậu trở về sau đêm vắng nhà đột xuất.
Bố liếc nhìn xuống đứa trẻ đang chập chững. “Vui đùa thỏa thích đi, anh bạn nhỏ,” ông nói. “Đây sẽ là đêm cuối cùng cậu làm khách nhà tôi.”
“Ý bố là sao cơ?” Jonas hỏi.
Bố thở dài đầy thất vọng. “Chà, con biết đấy, sáng nay khi con về nhà nó đã không ở đây vì bọn bố đã giữ nó qua đêm tại Trung tâm Nuôi trẻ. Xem ra không có con ở nhà sẽ là một dịp tốt để đưa nó đi kiểm tra. Mấy hôm trước nó ngủ ngon lành thế cơ mà.”
“Chuyện không ổn hay sao?” Mẹ hỏi vẻ thông cảm.
Bố cười buồn bã. “Đó là nói tránh lắm rồi. Thật là thảm họa. Rõ ràng là nó khóc suốt đêm. Nhóm ca đêm không thể dỗ được nó. Lúc anh đến nơi thì họ đã hoàn toàn kiệt quệ.”
“Gabe, em hư quá,” Lily khẽ tặc lưỡi trách đứa trẻ đang toe toét cười trên sàn nhà.
“Vì vậy,” Bố nói tiếp, “hẳn nhiên là bọn bố phải đưa ra quyết định. Trong cuộc họp chiều nay, thậm chí cả bố cũng bỏ phiếu đồng tình phóng thích Gabriel.”
Jonas bỏ đĩa xuống và nhìn Bố chằm chằm. “Phóng thích á?” Cậu hỏi.
Bố gật đầu. “Rõ ràng là chúng ta đã cố gắng hết sức rồi, phải không?”
“Đúng vậy,” Mẹ đồng ý một cách dứt khoát.
Lily cũng gật đầu đồng tình.
Jonas cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh. “Bao giờ ạ?” Cậu hỏi. “Bao giờ nó sẽ bị phóng thích?”
“Ngay sáng mai. Bọn bố phải bắt đầu chuẩn bị cho Lễ Đặt tên, nên mọi người nghĩ là phải xử lý việc này ngay.”
“Sáng mai sẽ phải bai bai cậu rồi, bé Gabe,” Bố đã nói thế, bằng cái giọng nựng nịu ngân nga thường thấy.
Jonas tới bờ bên kia sông, dừng một chút, và nhìn lại. Cộng đồng mà cậu đã sống cả đời giờ đã nằm lại phía sau, và đang chìm trong giấc ngủ. Khi bình minh lên, cuộc sống trật tự và ngăn nắp mà cậu vẫn quen sẽ lại tiếp tục mà không có cậu. Một cuộc sống không có gì là đột xuất. Hay bất tiện. Hay khác thường. Một cuộc sống không có màu sắc, nỗi đau, hay quá khứ.
Cậu lại nhấn mạnh bàn đạp và tiếp tục đạp xe dọc phố. Thật không an toàn khi tốn thời gian nhìn lại. Cậu nghĩ tới những luật lệ mà cậu đã phạm phải cho đến giờ: đủ để nếu bị bắt lúc này, cậu sẽ bị kết án.
Đầu tiên, cậu đã rời khỏi nhà vào buổi tối. Một vi phạm nghiêm trọng.
Thứ hai, cậu đã lấy thực phẩm của cộng đồng: một tội ác cực kỳ hệ trọng, dù cho những thứ cậu lấy là đồ thừa, được đặt ngoài thềm nhà để Đội Thu Dọn lấy đi.
Thứ ba, cậu đã lấy cắp xe của Bố. Cậu đã đứng trong bóng tối bên bãi đỗ xe, lưỡng lự trong một lúc, không muốn lấy thứ gì của Bố và cũng không chắc chắn rằng thoải mái đi chiếc xe lớn hơn hay không, trong khi cậu đã quá quen với xe của mình. Nhưng điều đó là cần thiết vì nó có gắn kèm ghế trẻ con ở phía sau. Và cậu cũng đã đưa Gabriel đi cùng nữa.
Cậu có thể cảm thấy cái đầu nhỏ xíu thúc vào lưng và khẽ nảy lên khi cậu đạp xe. Gabriel được buộc vào ghế và đang ngủ ngon lành. Trước khi rời khỏi nhà, cậu đã áp chặt tay lên lưng Gabe và truyền cho cậu bé ký ức êm dịu nhất cậu tìm được: một chiếc võng đu chậm dưới những cây cọ trên hòn đảo ở một nơi nào đó, vào chiều tối, có âm thanh nhịp nhàng từ những con sóng chậm chạp xô vào một bờ biển gần đó như ru ngủ. Khi ký ức thấm từ cậu vào bé mới, cậu có thể cảm thấy giấc ngủ của Gabe dịu đi và sâu hơn. Và bé không hề ngọ nguậy khi Jonas bế bé từ giường cũi và nhẹ nhàng đặt vào chiếc ghế được làm riêng cho trẻ con.
Cậu biết mình chỉ còn từ giờ đến hết đêm và mọi người sẽ nhận ra việc cậu chạy trốn. Vậy nên cậu đạp thật lực, đều đặn và ép mình không được mệt khi từng phút, từng dặm trôi qua. Không có thời gian để nhận những ký ức mà cậu và Người Truyền thụ đã trông cậy, về sức mạnh và lòng dũng cảm. Nên cậu dựa vào những gì mình có, và hy vọng rằng như thế là đủ.
Cậu đạp qua những cộng đồng xa xôi, những khu nhà ở tối đen. Dần dần, khoảng cách giữa các cộng đồng rộng hơn, những đoạn đường vắng ngày càng thêm dài. Đầu tiên, cậu thấy đau chân; sau đó, khi thời gian trôi qua, chúng bắt đầu trở nên tê cứng.
Rạng sáng, Gabriel bắt đầu cựa quậy Họ đang ở một nơi vắng vẻ; những cánh đồng ở hai bên đường rải rác những bụi cây. Cậu thấy một dòng suối, và tiến đến đó, băng qua một bãi cỏ mấp mô và nhiều rãnh; Gabriel giờ đã tỉnh hẳn, đang khanh khách cười khi chiếc xe lắc bé lên xuống.
Jonas cởi dây cho Gabe, bế bé từ xe lên, và quan sát bé thích thú khám phá những ngọn cỏ và cành cây nhỏ. Cậu cẩn thận giấu chiếc xe vào trong những bụi cây rậm rạp.
“Bữa sáng đây, Gabe!” Cậu mở vài món thực phẩm và cả hai cùng ăn. Rồi cậu múc đầy nước suối vào chiếc cốc mang theo và giữ cho Gabriel uống. Bản thân cậu cũng tu ừng ực, rồi ngồi bên dòng suối ngắm bé mới chơi đùa.
Cậu đã kiệt sức. Cậu biết rằng mình phải ngủ, để cho cơ bắp nghỉ ngơi và chuẩn bị đạp xe lâu hơn. Đi lại vào ban ngày chẳng an toàn chút nào.
Họ sẽ sớm đi tìm cậu thôi.
Cậu tìm thấy một nơi trú ẩn sâu trong những hàng cây, liền đưa Gabriel đến đó và nằm xuống, ôm bé mới trong tay. Gabriel thích thú quẫy đạp như thể đây là một trò đấu vật, trò chơi mà cả hai vẫn chơi ở nhà, với những cái cù và tiếng cười giòn giã.
“Xin lỗi, bé Gabe,” Jonas nói. “Anh biết đã sáng rồi, và anh biết em vừa mới tỉnh dậy nhưng chúng ta phải ngủ thôi.”
Cậu ôm bé mới sát hơn nữa, và xoa vào cái lưng bé xíu. Cậu dịu dàng thì thầm với Gabriel. Rồi cậu ấn tay thật mạnh và truyền một ký ức về sự mệt mỏi sâu sắc và mãn nguyện. Sau ít phút, Gabriel gật gù và gục vào ngực Jonas.
Hai kẻ trốn chạy cùng ngủ qua cái ngày nguy hiểm đầu tiên.
Đáng sợ nhất là những chiếc máy bay. Tới giờ, nhiều ngày đã trôi qua; Jonas không còn biết là bao lâu nữa. Cuộc hành trình bắt đầu trở thành máy móc: ban ngày ngủ, trốn trong những bụi rậm và cây cao; tìm nguồn nước; tỉ mỉ chia từng mẩu thực phẩm, và thu lượm thêm những gì tìm được trên những cánh đồng. Và đến đêm lại tiếp tục những dặm đường vô tận trên chiếc xe đạp.
Bây giờ cơ chân của cậu đang căng như dây đàn. Chúng nhức nhối mỗi lần cậu nằm xuống ngủ. Nhưng chúng cũng khỏe lên, và giờ đây cậu ít phải dừng lại nghỉ hơn. Đôi khi cậu tạm nghỉ và bế Gabriel xuống để vận động một chút, cùng nhau chạy dọc con đường hoặc ngang qua một cánh đồng trong đêm tối. Nhưng lúc nào cũng vậy, khi cậu trở về, buộc đứa bé ngoan ngoãn vào ghế rồi trèo lên xe, đôi chân cậu lại sẵn sàng.
Vậy là bản thân cậu đã có đủ sức mạnh, và không cần tới ký ức mà đáng ra Người Truyền thụ đã cung cấp nếu họ có thời gian.
Nhưng khi những chiếc máy bay tới, cậu ước giá mà cậu đã được nhận lòng dũng cảm.
Cậu biết chúng là máy bay truy tìm. Chúng bay tới gần đến mức tiếng động cơ làm cậu tỉnh giấc, và thỉnh thoảng, khi lo ngại nhìn lên từ nơi trú ẩn, cậu gần như có thể thấy khuôn mặt của những người truy tìm.
Cậu biết rằng họ không thấy được màu sắc, và rằng da thịt của chúng, cũng như những lọn tóc vàng óng của Gabriel, cũng sẽ không hơn gì những vệt xám trên nền lá không màu. Nhưng cậu còn nhớ từ những tiết khoa học và cộng nghệ ở trường, rằng những chiếc máy bay truy tìm sử dụng thiết bị tầm nhiệt có thể phát hiện hơi ấm của cơ thể và sẽ tìm ra hai con người đang cuộn tròn trong những bụi cây.
Vậy nên mỗi khi nghe thấy tiếng máy bay, cậu lại chạm vào Gabriel và truyền ký ức về tuyết, giữ lại một chút cho bản thân. Cả hai cùng lạnh dần; và khi máy bay bay khỏi, chúng sẽ run rẩy, ôm lấy nhau, cho tới khi giấc ngủ lại ập tới.
Đôi lúc, khi truyền ký ức vào Gabriel, Jonas nhìn thấy chúng đã nhạt đi và yếu hơn trước đây một chút. Đó là điều cậu hy vọng, và là điều cậu và Người Truyền thụ đã dự định: rằng khi rời khỏi cộng đồng, cậu sẽ trút lại những ký ức và để chúng lại cho mọi người. Nhưng lúc này, khi cần đến chúng, khi máy bay đến, cậu đã cố hết sức để bấu víu vào những gì mình vẫn sở hữu, về cái lạnh, và dùng nó để sống sót.
Thông thường máy bay đến vào ban ngày, khi họ đang ẩn nấp. Nhưng ban đêm cậu cũng vẫn canh chừng, khi đang trên đường, luôn chú ý lắng nghe phòng tiếng động cơ. Thậm chí cả Gabriel cũng để ý nghe, và sẽ gọi to, “Máy bay! Máy bay kìa!” đôi lúc trước cả khi Jonas nghe được âm thanh khủng khiếp đó. Thỉnh thoảng, khi máy bay truy tìm tới trong đêm lúc chúng đang đạp xe, Jonas liền tăng tốc tới cái cây hoặc bụi rậm gần nhất, nằm bẹp xuống đất, rồi làm cho bản thân và Gabriel lạnh đi. Nhưng đôi khi cậu thoát trong đường cơ kẽ tóc đến rợn người.
Khi đạp xe trong đêm, giờ đây qua những vùng đất hoang vắng, cộng đồng đã ở xa phía sau và không có dấu hiệu sinh hoạt của con người ở xung quanh hay phía trước, cậu luôn phải cảnh giác, tìm kiếm nơi trú ẩn gần nhất nếu tiếng động cơ lại tới.
Nhưng những chiếc máy bay đã ít xuất hiện hơn. Chúng tới bớt thường xuyên hơn, và khi tới thì không bay chậm như trước nữa, như thể cuộc tìm kiếm giờ đây chỉ được chăng hay chớ. Cuối cùng cũng đến lúc suốt một ngày đêm chúng không hề xuất hiện.
Nó sẽ thành công. Họ có thể khiến nó thành công, Jonas tự nhủ, lặp đi lặp lại suốt cả ngày. Nhưng tối đó mọi thứ đã thay đổi. Tất cả những điều họ tính toán tỉ mỉ đến thế đã sụp đổ. Tối đó, Jonas bắt buộc phải bỏ đi. Cậu rời khỏi nhà ngay sau khi trời sập tối và cộng đồng trở nên yên tĩnh. Việc này cực kỳ nguy hiểm vì một vài đội vẫn đang làm việc, nhưng cậu đi rón rén và nhẹ nhàng, ẩn mình trong bóng tối, chọn đường tới dòng sông băng qua những căn hộ tối tăm và Quảng trường Trung tâm vắng lặng. Bên kia Quảng trường, cậu có thể thấy Nhà Dưỡng lão, với Nhà Chái phía sau, nổi bật trên nền trời đêm. Nhưng cậu không kịp dừng lại đó. Thời gian lúc này được tính theo từng phút, và mỗi phút cậu phải rời cho xa khỏi cộng đồng.
Giờ đã lên tới cầu, cậu gò mình đạp xe thật nhanh. Cậu có thể thấy dòng nước tối đen đang gợn sóng phía dưới.
Thật ngạc nhiên là cậu không thấy sợ, cũng không thấy một chút hối hận nào vì đã bỏ lại cộng đồng. Nhưng cậu cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc vì đã bỏ lại người bạn thân nhất của mình. Cậu biết rằng do tính chất nguy hiểm của cuộc chạy trốn, cậu phải tuyệt đối im lặng; nhưng bằng trái tim và tâm hồn, cậu đã gọi vọng về và hy vọng rằng với khả năng nghe vượt giới hạn, Người Truyện thụ sẽ biết rằng Jonas đã nói lời từ biệt.
Chuyện xảy ra vào bữa tối. Gia đình cậu cùng nhau ăn tối như mọi khi: Lily huyên thuyên đủ điều, Mẹ và Bố đưa ra nhận xét theo thông lệ (và cả những lời nói dối nữa, Jonas biết thế) về ngày hôm đó. Gần đó, Gabriel vui vẻ chơi đùa trên sàn nhà, bập bẹ nói, thỉnh thoảng lại mừng rỡ nhìn Jonas, rõ ràng là rất sung sướng thấy cậu trở về sau đêm vắng nhà đột xuất.
Bố liếc nhìn xuống đứa trẻ đang chập chững. “Vui đùa thỏa thích đi, anh bạn nhỏ,” ông nói. “Đây sẽ là đêm cuối cùng cậu làm khách nhà tôi.”
“Ý bố là sao cơ?” Jonas hỏi.
Bố thở dài đầy thất vọng. “Chà, con biết đấy, sáng nay khi con về nhà nó đã không ở đây vì bọn bố đã giữ nó qua đêm tại Trung tâm Nuôi trẻ. Xem ra không có con ở nhà sẽ là một dịp tốt để đưa nó đi kiểm tra. Mấy hôm trước nó ngủ ngon lành thế cơ mà.”
“Chuyện không ổn hay sao?” Mẹ hỏi vẻ thông cảm.
Bố cười buồn bã. “Đó là nói tránh lắm rồi. Thật là thảm họa. Rõ ràng là nó khóc suốt đêm. Nhóm ca đêm không thể dỗ được nó. Lúc anh đến nơi thì họ đã hoàn toàn kiệt quệ.”
“Gabe, em hư quá,” Lily khẽ tặc lưỡi trách đứa trẻ đang toe toét cười trên sàn nhà.
“Vì vậy,” Bố nói tiếp, “hẳn nhiên là bọn bố phải đưa ra quyết định. Trong cuộc họp chiều nay, thậm chí cả bố cũng bỏ phiếu đồng tình phóng thích Gabriel.”
Jonas bỏ đĩa xuống và nhìn Bố chằm chằm. “Phóng thích á?” Cậu hỏi.
Bố gật đầu. “Rõ ràng là chúng ta đã cố gắng hết sức rồi, phải không?”
“Đúng vậy,” Mẹ đồng ý một cách dứt khoát.
Lily cũng gật đầu đồng tình.
Jonas cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh. “Bao giờ ạ?” Cậu hỏi. “Bao giờ nó sẽ bị phóng thích?”
“Ngay sáng mai. Bọn bố phải bắt đầu chuẩn bị cho Lễ Đặt tên, nên mọi người nghĩ là phải xử lý việc này ngay.”
“Sáng mai sẽ phải bai bai cậu rồi, bé Gabe,” Bố đã nói thế, bằng cái giọng nựng nịu ngân nga thường thấy.
Jonas tới bờ bên kia sông, dừng một chút, và nhìn lại. Cộng đồng mà cậu đã sống cả đời giờ đã nằm lại phía sau, và đang chìm trong giấc ngủ. Khi bình minh lên, cuộc sống trật tự và ngăn nắp mà cậu vẫn quen sẽ lại tiếp tục mà không có cậu. Một cuộc sống không có gì là đột xuất. Hay bất tiện. Hay khác thường. Một cuộc sống không có màu sắc, nỗi đau, hay quá khứ.
Cậu lại nhấn mạnh bàn đạp và tiếp tục đạp xe dọc phố. Thật không an toàn khi tốn thời gian nhìn lại. Cậu nghĩ tới những luật lệ mà cậu đã phạm phải cho đến giờ: đủ để nếu bị bắt lúc này, cậu sẽ bị kết án.
Đầu tiên, cậu đã rời khỏi nhà vào buổi tối. Một vi phạm nghiêm trọng.
Thứ hai, cậu đã lấy thực phẩm của cộng đồng: một tội ác cực kỳ hệ trọng, dù cho những thứ cậu lấy là đồ thừa, được đặt ngoài thềm nhà để Đội Thu Dọn lấy đi.
Thứ ba, cậu đã lấy cắp xe của Bố. Cậu đã đứng trong bóng tối bên bãi đỗ xe, lưỡng lự trong một lúc, không muốn lấy thứ gì của Bố và cũng không chắc chắn rằng thoải mái đi chiếc xe lớn hơn hay không, trong khi cậu đã quá quen với xe của mình. Nhưng điều đó là cần thiết vì nó có gắn kèm ghế trẻ con ở phía sau. Và cậu cũng đã đưa Gabriel đi cùng nữa.
Cậu có thể cảm thấy cái đầu nhỏ xíu thúc vào lưng và khẽ nảy lên khi cậu đạp xe. Gabriel được buộc vào ghế và đang ngủ ngon lành. Trước khi rời khỏi nhà, cậu đã áp chặt tay lên lưng Gabe và truyền cho cậu bé ký ức êm dịu nhất cậu tìm được: một chiếc võng đu chậm dưới những cây cọ trên hòn đảo ở một nơi nào đó, vào chiều tối, có âm thanh nhịp nhàng từ những con sóng chậm chạp xô vào một bờ biển gần đó như ru ngủ. Khi ký ức thấm từ cậu vào bé mới, cậu có thể cảm thấy giấc ngủ của Gabe dịu đi và sâu hơn. Và bé không hề ngọ nguậy khi Jonas bế bé từ giường cũi và nhẹ nhàng đặt vào chiếc ghế được làm riêng cho trẻ con.
Cậu biết mình chỉ còn từ giờ đến hết đêm và mọi người sẽ nhận ra việc cậu chạy trốn. Vậy nên cậu đạp thật lực, đều đặn và ép mình không được mệt khi từng phút, từng dặm trôi qua. Không có thời gian để nhận những ký ức mà cậu và Người Truyền thụ đã trông cậy, về sức mạnh và lòng dũng cảm. Nên cậu dựa vào những gì mình có, và hy vọng rằng như thế là đủ.
Cậu đạp qua những cộng đồng xa xôi, những khu nhà ở tối đen. Dần dần, khoảng cách giữa các cộng đồng rộng hơn, những đoạn đường vắng ngày càng thêm dài. Đầu tiên, cậu thấy đau chân; sau đó, khi thời gian trôi qua, chúng bắt đầu trở nên tê cứng.
Rạng sáng, Gabriel bắt đầu cựa quậy Họ đang ở một nơi vắng vẻ; những cánh đồng ở hai bên đường rải rác những bụi cây. Cậu thấy một dòng suối, và tiến đến đó, băng qua một bãi cỏ mấp mô và nhiều rãnh; Gabriel giờ đã tỉnh hẳn, đang khanh khách cười khi chiếc xe lắc bé lên xuống.
Jonas cởi dây cho Gabe, bế bé từ xe lên, và quan sát bé thích thú khám phá những ngọn cỏ và cành cây nhỏ. Cậu cẩn thận giấu chiếc xe vào trong những bụi cây rậm rạp.
“Bữa sáng đây, Gabe!” Cậu mở vài món thực phẩm và cả hai cùng ăn. Rồi cậu múc đầy nước suối vào chiếc cốc mang theo và giữ cho Gabriel uống. Bản thân cậu cũng tu ừng ực, rồi ngồi bên dòng suối ngắm bé mới chơi đùa.
Cậu đã kiệt sức. Cậu biết rằng mình phải ngủ, để cho cơ bắp nghỉ ngơi và chuẩn bị đạp xe lâu hơn. Đi lại vào ban ngày chẳng an toàn chút nào.
Họ sẽ sớm đi tìm cậu thôi.
Cậu tìm thấy một nơi trú ẩn sâu trong những hàng cây, liền đưa Gabriel đến đó và nằm xuống, ôm bé mới trong tay. Gabriel thích thú quẫy đạp như thể đây là một trò đấu vật, trò chơi mà cả hai vẫn chơi ở nhà, với những cái cù và tiếng cười giòn giã.
“Xin lỗi, bé Gabe,” Jonas nói. “Anh biết đã sáng rồi, và anh biết em vừa mới tỉnh dậy nhưng chúng ta phải ngủ thôi.”
Cậu ôm bé mới sát hơn nữa, và xoa vào cái lưng bé xíu. Cậu dịu dàng thì thầm với Gabriel. Rồi cậu ấn tay thật mạnh và truyền một ký ức về sự mệt mỏi sâu sắc và mãn nguyện. Sau ít phút, Gabriel gật gù và gục vào ngực Jonas.
Hai kẻ trốn chạy cùng ngủ qua cái ngày nguy hiểm đầu tiên.
Đáng sợ nhất là những chiếc máy bay. Tới giờ, nhiều ngày đã trôi qua; Jonas không còn biết là bao lâu nữa. Cuộc hành trình bắt đầu trở thành máy móc: ban ngày ngủ, trốn trong những bụi rậm và cây cao; tìm nguồn nước; tỉ mỉ chia từng mẩu thực phẩm, và thu lượm thêm những gì tìm được trên những cánh đồng. Và đến đêm lại tiếp tục những dặm đường vô tận trên chiếc xe đạp.
Bây giờ cơ chân của cậu đang căng như dây đàn. Chúng nhức nhối mỗi lần cậu nằm xuống ngủ. Nhưng chúng cũng khỏe lên, và giờ đây cậu ít phải dừng lại nghỉ hơn. Đôi khi cậu tạm nghỉ và bế Gabriel xuống để vận động một chút, cùng nhau chạy dọc con đường hoặc ngang qua một cánh đồng trong đêm tối. Nhưng lúc nào cũng vậy, khi cậu trở về, buộc đứa bé ngoan ngoãn vào ghế rồi trèo lên xe, đôi chân cậu lại sẵn sàng.
Vậy là bản thân cậu đã có đủ sức mạnh, và không cần tới ký ức mà đáng ra Người Truyền thụ đã cung cấp nếu họ có thời gian.
Nhưng khi những chiếc máy bay tới, cậu ước giá mà cậu đã được nhận lòng dũng cảm.
Cậu biết chúng là máy bay truy tìm. Chúng bay tới gần đến mức tiếng động cơ làm cậu tỉnh giấc, và thỉnh thoảng, khi lo ngại nhìn lên từ nơi trú ẩn, cậu gần như có thể thấy khuôn mặt của những người truy tìm.
Cậu biết rằng họ không thấy được màu sắc, và rằng da thịt của chúng, cũng như những lọn tóc vàng óng của Gabriel, cũng sẽ không hơn gì những vệt xám trên nền lá không màu. Nhưng cậu còn nhớ từ những tiết khoa học và cộng nghệ ở trường, rằng những chiếc máy bay truy tìm sử dụng thiết bị tầm nhiệt có thể phát hiện hơi ấm của cơ thể và sẽ tìm ra hai con người đang cuộn tròn trong những bụi cây.
Vậy nên mỗi khi nghe thấy tiếng máy bay, cậu lại chạm vào Gabriel và truyền ký ức về tuyết, giữ lại một chút cho bản thân. Cả hai cùng lạnh dần; và khi máy bay bay khỏi, chúng sẽ run rẩy, ôm lấy nhau, cho tới khi giấc ngủ lại ập tới.
Đôi lúc, khi truyền ký ức vào Gabriel, Jonas nhìn thấy chúng đã nhạt đi và yếu hơn trước đây một chút. Đó là điều cậu hy vọng, và là điều cậu và Người Truyền thụ đã dự định: rằng khi rời khỏi cộng đồng, cậu sẽ trút lại những ký ức và để chúng lại cho mọi người. Nhưng lúc này, khi cần đến chúng, khi máy bay đến, cậu đã cố hết sức để bấu víu vào những gì mình vẫn sở hữu, về cái lạnh, và dùng nó để sống sót.
Thông thường máy bay đến vào ban ngày, khi họ đang ẩn nấp. Nhưng ban đêm cậu cũng vẫn canh chừng, khi đang trên đường, luôn chú ý lắng nghe phòng tiếng động cơ. Thậm chí cả Gabriel cũng để ý nghe, và sẽ gọi to, “Máy bay! Máy bay kìa!” đôi lúc trước cả khi Jonas nghe được âm thanh khủng khiếp đó. Thỉnh thoảng, khi máy bay truy tìm tới trong đêm lúc chúng đang đạp xe, Jonas liền tăng tốc tới cái cây hoặc bụi rậm gần nhất, nằm bẹp xuống đất, rồi làm cho bản thân và Gabriel lạnh đi. Nhưng đôi khi cậu thoát trong đường cơ kẽ tóc đến rợn người.
Khi đạp xe trong đêm, giờ đây qua những vùng đất hoang vắng, cộng đồng đã ở xa phía sau và không có dấu hiệu sinh hoạt của con người ở xung quanh hay phía trước, cậu luôn phải cảnh giác, tìm kiếm nơi trú ẩn gần nhất nếu tiếng động cơ lại tới.
Nhưng những chiếc máy bay đã ít xuất hiện hơn. Chúng tới bớt thường xuyên hơn, và khi tới thì không bay chậm như trước nữa, như thể cuộc tìm kiếm giờ đây chỉ được chăng hay chớ. Cuối cùng cũng đến lúc suốt một ngày đêm chúng không hề xuất hiện.