- Lại đây! Mọi người đều đang trông đợi. Ai cũng đang ấm ức chưa được thấy tiểu Tam Lang. Ngươi hãy lại đây, thay mặt mọi người mở cửa miếu đi! Chỉ cần ngươi nguyện ý làm thay mọi người một việc nhỏ như vậy thôi, ta sẽ dung tha cho cả ba anh em bọn ngươi ngay.
Mã Quân Võ nhăn nhó, nói không ra lời :
- Đỗ cô nương...
Bạch Y thiếu phụ cười như hoa nở, nói :
- Nếu không vì mọi người thì hãy coi như vì ta vậy, mở cửa miếu giúp ta đi! Bọn “Ba Đông tam quỷ” các ngươi từng xưng là anh hùng sao bữa nay đâm ra nhát như vậy? Mã Quân Võ, hãy chìu ý ta, mở cửa miếu đi, giúp ta sớm hội diện với tiểu Tam Lang của ta, rồi ta sẽ hậu tạ.
Giọng nàng hết sức cam mật, dịu dàng, lại du dương như tiếng nhạc tuyệt vời, tựa hồ như có một ma lực bất khả kháng cự.
Mã Quân Võ liền tăng dũng khí, mạnh dạng đứng lên, sải bước lại phía cửa miếu. Tuy nhiên, trên trán gã không khỏi xuất hạn đầm đìa.
Thanh bào lão nhân lạnh lùng bàng quang, chẳng xen vào nửa tiếng, cũng không ngó tới cả Bạch Y thiếu phụ lẫn Mã Quân Võ.
Nhưng đám đông thì đặc biệt theo dõi từng cử động của Mã Quân Võ. Chẳng ai dám thở mạnh, không ai bàn tán gì, vì ai nấy đều đang hồi hộp, khẩn trương liên tưởng đến lời thanh bào lão nhân vừa mới cảnh cáo hán tử trung niên: “Ai đầu tiên mở cửa miếu này, kẻ đó sẽ ngã chết ngay tại cửa!”
Mã Quân Võ đã đến sát cửa miếu.
Như sợ nếu chần chờ thì sẽ mất hết dũng khí, gã lẹ làng vung chưởng đẩy vào hai cánh cửa một cái.
Cửa chỉ khép hờ liền mở hoác ra.
Cùng lúc ấy, Mã Quân Võ như bị đánh một quyền thật nặng, rú lên, lảo đảo lùi lại rồi ngồi phệt xuống đất, mồm há hốc, mắt trợn trừng, toàn thân bất động.
Mã Quân Võ không ngã ra chết ngay, cũng không có một huyết tích nào, nhưng tại sao lại kỳ quái như thế? Chẳng một ai hiểu nổi.
Cửa miếu đã mở rộng rồi đó. Đám đông trùng điệp từng chờ đợi, sốt ruột bao nhiêu lâu, chỉ nôn nao muốn gặp Lý Tam Lang. Thế mà giờ đây, chẳng một người nào dám sấn vào miếu.
Hai đại hán đang quì lập tức chồm lên, kẻ đỡ ngực, người nắm tay Mã Quân Võ nhất tề gọi to :
- Đại ca! Đại ca!...
Mã Quân Võ đã tắt thở.
Mã Quân Võ mất mạng do thương tích gì, ở đâu trên cơ thể? Không ai tìm ra một điểm nhỏ nào khả nghi. Nhưng gã đã chết thật rồi! Và chết với bộ mặt cực kỳ đau đớn và khủng khiếp!
Từ hai cánh cửa miếu tầm thường có cái gì ghê gớm đến có thể hạ sát được Mã Quân Võ, tay hắc đạo khét tiếng giang hồ, đứng đầu nhóm Ba Đông tam quỷ, mà lại bị hạ sát một cách vô thanh vô sắc trong chớp mắt dường ấy?
Bạch Y thiếu phụ tựa hồ chẳng trông thấy cái chết của Bạch Y thiếu phụ, cứ thiết tha uyển chuyển tiến vào cửa miếu.
Đột nhiên từ trong đám đông có tiếng gọi sắc lạnh :
- Đỗ Thập Nương! Hãy khoan!
Lồng trong tiếng gọi, một bóng màu xanh đã bay vọt đến trước cửa. Đây là một thanh y thiếu nữ dáng cao cao, dung nhan mỹ lệ, nhất là đôi mắt tuyệt đẹp thật linh động.
Trong tay thanh y thiếu nữ cầm một phong thư, vừa đặt chân đứng yên, nàng liền giơ thư lên cho Bạch Y thiếu phụ thấy và lạnh lùng nói :
- Ta phụng mạng cô nương ta đến đây để trao thư cho Lý Tam Lang công tử, ngươi hãy nhường ta vào trước!
Thanh bào lão nhân cũng đang đứng gần đó, lão bỗng ngửi thấy từ phong thư tỏa ra một làn u hương sực nức, làm say đắm lòng người. Nhưng lão vẫn tuyệt nhiên chẳng biểu lộ mảy may cử chỉ gì hết.
Bạch Y thiếu phụ lạng người, chắn ngang ngay trước mặt thanh y thiếu nữ gằn giọng :
- Đừng hòng!
Thanh y thiếu nữ giương mày liễu hỏi :
- Đỗ Thập Nương, ngươi muốn gì đây?
Bạch Y thiếu phụ, tức Đỗ Thập Nương, mỉm cười nói :
- Cô nương của ngươi là ai? Ngươi là hạng người gì? Ta mà phải nhường bước cho bọn nha đầu vô danh tiểu tốt thì thật là chuyện quá nực cười!
Thanh y thiếu nữ càng giương mày cong hơn, chìa phong thư ra trước mắt Đỗ Thập Nương trầm giọng :
- Coi hình dáng phong thư này ngươi còn chưa biết cô nương ta là ai ư?
Phong thư quả không giống những loại phong tín thường thấy, mà kích tấc gọn nhỏ hơn, tựa bằng nhung lụa, màu lam nhạt, khiến ai nhìn qua cũng phát sinh cảm giác dễ chịu ngay.
Góc trái phong thư nổi rõ bốn chữ nhỏ theo lối triện tự: “Phiêu Hương tiểu trúc”.
Thanh bào lão nhân không thể chẳng liếc mắt đọc nhưng làm như không hề để ý tới.
Đỗ Thập Nương khẽ kêu: “A!” và gương mặt kiều diễm hiện ra nụ cười thân thiện nói :
- Thì ra là La cô nương! La cô nương với tòa lầu trúc thanh cao, coi thiên hạ nam nhân như cỏ rác, tòa “Phiêu Hương tiểu trúc” vốn là cấm địa đối với nam nhân, bất luận kẻ nam nhân nào cũng đừng hòng héo lánh tới gần, hoặc có miễn cưỡng héo lánh đến thì chỉ để mà mất mạng. Ái chà!... Thế mà tại sao hôm nay La cô nương bỗng dưng phát sinh nỗi buốn tịch mịch chốn ngọc lâu, đưa tin nhạn cá đến cho tiểu Tam Lang của ta nhỉ?...
Thanh y thiếu nữ càng nghe Đỗ Thập Nương nói càng trợn mắt lộ hung quang, chừng như chỉ chực xuất thủ.
Bất ngờ, Đỗ Thập Nương vừa chấm dứt lời mỉa mai bằng chuỗi cười trong trẻo như pha lê thì đồng thời nàng cũng duỗi cánh tay ra một cái đã lập tức đoạt gọn phong thư, đoạn nhìn thanh y thiếu nữ khẽ bảo :
- Như thế này nhé, để ta đem thư này chuyển cho tiểu Tam Lang dùm cho, chung qui cũng như ngươi đưa vậy thôi.
Thanh y thiếu nữ tròn xoe khoé mắt la :
- Ngươi dám... Đỗ Thập Nương, hãy trả phong thư lại cho ta!
Thiếu nữ vừa thốt lời vừa phóng trảo kẹp lấy phong thư. Chiêu thức thật ảo diệu thần tình.
Nhưng Đỗ Thập Nương đã dựng chưởng trái lên, nắm bàn tay thanh y thiếu nữ, giống như hai người bắt tay thân thiện nhau, kỳ thực đã kiềm chế thanh y thiếu nữ thành vô lực, nhũn người ra.
Đỗ Thập Nương vẫn giữ vẻ thân thiện nói :
- Tiểu cô nương, giao thư cho ta thì cũng như giao cho tiểu Tam Lang thôi, còn thắc mắc gì nữa.
Vừa nói, vừa cười, nhưng khoé mắt nàng lộ sát khí và tả thủ nàng hơi chuyển động.
Thình lình thanh bào lão nhân âm trầm lên tiếng :
- Thôi, hai vị cô nương tranh chấp nhau làm chi, cho lão phu xin can, không khéo sinh oán thù. Lý Tam Lang đâu chưa thấy mà đã xảy ra chuyện đáng tiếc rồi, không nên, không nên!...
Tả thủ Đỗ Thập Nương như bị chấn động một cái, buông rời bàn tay của thanh y thiếu nữ ra, liền thấy một tia ngân quang rơi xuống đất, đúng là một mũi tú hoa trâm, nhỏ mịn hơn cây kim may.
Đỗ Thập Nương lờ đi như chẳng trông thấy, nhưng thanh y thiếu nữ lại nhìn kỹ và bỗng biến sắc, lấm lét ngó Đỗ Thập Nương rồi bất thần chuyển thân phóng đi như tên bắn.
Đỗ Thập Nương cất giọng phân bua :
- Thật là tự dưng đến gây sự, làm phiền! Cô bé này về báo cáo lại thế nào La Ỷ Hương cũng sẽ kiếm tới mà gây chuyện nữa! Vừa rồi lão nhân gia đã có lời khuyên can, xin đa tạ.
Thanh bào lão nhân thở dài nói :
- Là kẻ đang ăn hột cơm chốn công môn, chẳng lẽ thấy án mạng sắp xảy ra trước mắt mà không ngăn cản...
Đỗ Thập Nương trố mắt ngạc nhiên hỏi :
- Nguyên lai lão nhân gia là một vị mệnh quan? Chẳng hay nên xưng hô với lão nhân gia thế nào cho phải ạ?
Thanh bào lão nhân đáp :
- Lão phu, tên gọi là Đông Môn Trường Thanh.
Đỗ Thập Nương rạng rỡ dung nhan reo lên :
- A! Nguyên lai là vị đại quan tróc nã hung phạm vang danh chốn cửa công môn Đông Môn lão bá! Tiểu nữ quả hữu nhãn vô châu! Nhưng chẳng biết thì được miễn tội, xin lão bá nhận lễ ra mắt của tiện nữ!
Nàng liền kính cẩn khom lưng vái thật sâu.
Thanh bào lão nhân Đông Môn Trường Thanh khẽ phất tay áo bên phảt một cái nói :
- Không dám!... Ta mà nhận một lễ này của cô nương e rằng sẽ vĩnh viễn không còn bắt được Lý Tam Lang nữa.
Từ tay áo lão lùa ra một luồng kình phong, lập tức đánh rớt hai tia sáng bạc xuống đất :
lại là hai mũi ngân trâm!
Đỗ Thập Nương tái mặt, nụ cười trở thành gượng gạo, cố nói khỏa lấp :
- Danh bất hư truyền! Một chút thủ đoạn nhỏ mọn của tiểu nữ quả chỉ làm trò cười.
Chẳng trách thiên hạ vẫn tôn xưng lão bá là Đông Môn Trường Thanh bất khả xâm phạm.
Đông Môn Trường Thanh lái câu chuyện sang hướng khác :
- Lão phu nghe đồn trong Quan Đế miếu có một trướng án tích máu tanh, không biết cô nương có nghe như vậy không?
Hai người đồng quay lạ nhìn, bất giác đồng kinh dị khẽ kêu “Ồ!”, vì nhận thấy cánh cửa miếu lúc nãy đã được Mã Quân Võ xô mở hoác ra rồi, bây giờ không biết do gió thổi hay vì lẽ gì mà khép lại như cũ.
Ngẫm nghĩ một chút, Đỗ Thập Nương bỗng cất tay phất một cái, hai cánh cửa miếu lại mở rộng hơn trước.
Cửa vừa mở, đám đông liền rộ lên tiếng la do thường, có người sấn tới mấy bước để tò mò dòm vào, có người thất sắc thoái lui, cả Đỗ Thập Nương cũng không khỏi tự động lùi ra một bước và lộ vẻ kinh nghi khẩn trương.
Đằng sau hai cánh cửa, giữa lối đi dẫn vào miếu nằm sẵn một cỗ quan tài sơn toàn máu, chỗ đã khô, chỗ còn ướt.
Một đống dơi lúc nhúc bò trên vũng máu do chiếc cổ bị chặt cụt tuôn ra, để tranh nhau hút. Cánh cửa mở, chúng hoảng hốt bay vì lên, chập choạng lượn tới đảo lui, rồi biến mất...
Thì ra, Mã Quân Võ chết do cái thủ cấp này.
Mã Quân Võ vốn quen hút máu như dơi mỗi khi giết người vậy mà lại sợ đầu lâu đến vỡ mật mà chết sao?
Đáng tiếc ban nãy chẳng để ý xem kỹ ở huyệt Thái Dương bên tả của y. Nếu có xem ắt đã phát hiện chỗ yếu huyệt đó đã bị dập nát, do một vật nặng và cứng giáng mạnh vào.
Tức là đã có người dùng thủ pháp siêu đẳng lên đầu lâu hạ sát Mã Quân Võ.
Nhưng người ấy là ai?
Là Lý Tam Lang ẩn trong miếu chăng?
Nhưng Lý Tam Lang giết Mã Quân Võ làm chi? Và chiếc thủ cấp là của nhân vật nào?
Xem chiếc đầu lâu thì thấy hai mắt nhắm nghiền, nét mặt không một chút gì biểu lộ khiếp đảm hay đau đớn, chứng tỏ lúc chết đã ở trong trạng thái rất bình thảng, an tường.
Nhìn tướng mạo trên đầu lâu thì da trắng trẻo, mịn màng, mày dài và xếch, mắt to, mũi thẳng, miệng rộng, môi cân đối... Người này tuổi hãy còn rất trẻ, quả là một trang anh tuấn nam tử.
Người này là ai?
Ai đã hạ sát người này?
Đầu lâu đây, còn tử thi đâu?
Và Lý Tam Lang hiện đang ở đâu?...
Đỗ Thập Nương định thần tự trấn tĩnh, khoa chân tiếng vào, vung tay áo tả quét ra, nắp quan tài liền bay lên, văng xa mấy trượng, kêu “ầm” một tiếng. Đồng thời chiếc thủ cấp từ mặt đất cũng vọt theo, chờ nắp quan tài rơi xuống yên chỗ, cũng rơi xuống theo, nhưng vừa vặn nằm ngay ngắn trên nắp gỗ ấy.
Trong quan tài, nằm duỗi thẳng một người cụt đầu, mặc y phục toàn trắng, mười ngón tay thon dài thật đẹp, hữu thủ còn cầm một cây quạt lông, hai chân mang đôi dép mỏng...
Máu loang khắp lòng quan tài.
Trên ngực áo trắng của thi hài cụt đầu rành rạch ba chữ viết bằng máu: “Lý Tam Lang!” - Tam Lang!...
Một tiếng gào thảm thiết, như mũi nhọn xuyên vào tim mọi người bỗng bật xuất từ cặp môi mọng đỏ của Đỗ Thập Nương.
Nàng nhảy dựng lên, xẹt người đến, vội vàng nhặt chiếc thủ cấp lên.
Nàng không khóc thành tiếng, nhưng nước mắt nàng tuôn như suối đổ.
Nàng không kể lể lê thê mà nâng đầu lâu lên ngang mặt, khe khẽ nói :
- Tam Lang! Chàng chết thê thảm quá! Hãy cho ta biết kẻ nào đã sát hại chàng. Từ nay, đêm đêm ta sẽ không ôm gối mộng chốn khuê phòng nữa, mà nhất định đi khắp góc biển chân trời, tìm cho ra hung thủ để phục thù cho chàng. Ta sẽ lột da kẻ thù. Ta quyết uống huyết, ăn gan nó! Tam Lang, tiểu Tam Lang yêu quí, ta đã đi kiếm chàng từ bao nhiêu ngày tháng rồi, nay mới gặp, nào ngờ...
Nàng thân nhiệt hôn một loạt vào khắp thủ cấp, đoạn cẩn thận cất thủ cấp vào một chiếc bọc gấm đeo bên mình, như chỉ sợ bị người khác đoạt mất, rồi nàng thẫn thờ đứng, lệ cứ rơi, mồm cứ lẩm bẩm những gì chẳng ai nghe rõ.
Đông Môn Trường Thanh chớp hiện ánh khác thường trong đôi mắt, thở dài và lên tiếng vừa đủ nghe :
- Đỗ cô nương, e rằng người này không phải Lý Tam Lang.
Đỗ Thập Nương như chẳng nghe thấy cứ ngẩn ngơ xuất thần với hai hàng lệ không ngưng.
Đông Môn Trường Thanh lại thở dài gọi :
- Đỗ cô nương ...
Đỗ Thập Nương sực định thần nhìn sang hỏi :
- Dường như lão bá vừa bảo điều chi?
Đông Môn Trường Thanh đáp :
- Lão phu nói, người này có thể không phải là Lý Tam Lang.
Đỗ Thập Nương lại hỏi :
- Do đâu mà lão bá nói vậy?
Đông Môn Trường Thanh hất hàm về phía trước nói :
- Mời Đỗ cô nương xem kìa, trên thạch gian đại điện còn có người.
Quả đúng vậy, nơi bực đá đại điện thờ Quan Đế quân đang ngồi sẵn tự bao giờ một bạch y khách, dáng hiên ngang tuấn vĩ, với một thanh đao nằm trong vỏ gác ngang trên hai chân.
Đỗ Thập Nương sửng sốt một lúc bỗng vọt người lướt tới ngót chục trượng, đáp xuống dưới bục thờ trong gian đại điện.
Nàng ngẩng đầu lên, hai luồng nhãn tuyến sắc bén tợ liễu diệp phi đao, xạ thẳng vào bạch y khách, cất giọng nửa dịu dàng, nửa giá lạnh hỏi :
- Trông qua hình thức thanh đao của các hạ, ta nghĩ đến một nhân vật, dường như các hạ có danh xưng là “Bá Đao” Nam Cung Thu Lãnh?
Nam Cung Thu Lãnh vốn là một nhân vật đáng sợ. Y sử dụng bảo đao, đao pháp thần tốc, tàn độc tuyệt luân, trong võ lâm rất ít người có thể chịu nổi dưới tám chiêu đao của y.
Y có cái lệ, chỉ rút đao khỏi vỏ khi cần giết người và đao đã lỡ rút ra khỏi vỏ chỉ khi nào tắm được máu người mới chịu đút vào vỏ lại.
Cách thức y hạ sát người không giống nhau: có người y chỉ phạt một đao, có người bị đến tám đao của y, nát bấy cả cơ thể, mà đao nào xem ra cũng cực kỳ tàn độc.
Tám đao, tức là “bát đao”, vì âm thanh chữ “bát” cũng tương tợ chữ “bá” thành thử người ta quen gọi y là “bá đao”. Mà kể ra gọi như thế cũng đúng, vì bản lãnh đao pháp của y quả vô địch, quả độc bá giang hồ thật.
Nam Cung Thu Lãnh từ từ nhếch môi, thoáng một nét cười, đôi luồng nhãn tuyến xoáy vào những đường nét nở nang khêu gợi trên thân hình nõn nà kiều diễm của Đỗ Thập Nương vừa khẽ gật đầu nói :
- Kiến văn khá đấy.
Đỗ Thập Nương chỉ chiếc thủ cấp trong bọc hỏi :
- Các hạ đã giết người này?
Nam Cung Thu Lãnh đáp :
- Cứ xem vết chém ở trên cổ thủ cấp thì tất biết. Chỉ một nhát đao đã đứt tiện thật ngọt, bằng phẳng, thử hỏi trên thế gian này, ngoài Nam Cung Thu Lãnh còn ai có thể sử dụng được chiêu đao ngoạn mục, thần tốc đó.
Đỗ Thập Nương lại hỏi :
- Người này có phải Lý Tam Lang không?
Nam Cung Thu Lãnh cười lạnh lùng, kể rành rọt :
- Gần ba năm trước, ta từng phát thệ một lời, hễ gặp Lý Tam Lang bất cứ lúc nào, bất luận ở đâu là ta nhất định hạ sát, nhưng không cho hắn chết bằng một đao, cũng không chỉ tám đao mà phải đủ mười sáu đao. Và hôm nay ta đã thực hiện đúng lời thề ấy. Hà hà... hắn đã lãnh đúng mười sáu đao, không thừa không thiếu...
Đỗ Thập Nương ngắt lời :
- Nhưng trên thi thể người này không có vết đao nào hết, hóa ra y không phải...
Nam Cung Thu Lãnh ngắt lời lại :
- Có lẽ vì mãi lo ôm ấp, hôn hít chiếc đầu lâu nên nương tử không còn trông thấy gì khác! Hừ, hãy trở ra quan tài xem. Nếu trên thi thể cụt đầu ấy mà thiếu một hay thừa một nhát đao thì ta sẽ lập tức phủ phục dưới chân nương tử xin chịu tội lăng trì ngay. Mười sáu nhát! Vừa vặn mười sáu nhát, mà nhát đao thứ mười sáu nằm đúng ở giữa hậu tâm của y.
Đỗ Thập Nương con người tươi hồng, diễm lệ là thế, mà giờ đây biến thành xám xịt, âm u dáng sợ... Nàng từ từ mở bọc gấm, đặt chiếc thủ cấp trên bục thềm đá, rồi đối diện với thủ cấp, nàng thốt từng tiếng :
- Tam Lang! Hãy chờ đây, xem ta lóc da hắn, xẻo thịt hắn rồi chúng mình đưa nhau đi dạo nhé!
Nàng âu yếm vuốt má thủ cấp, đoạn đứng thẳng người lên, tia mắt thẳng vào Nam Cung Thu Lãnh và chậm chạp nắm bàn tay vấy máu lại...
Ngay lúc ấy, từ sau lưng nàng bỗng vang lên giọng nói của Đông Môn Trường Thanh :
- Nam Cung Thu Lãnh, làm sao các hạ biết người chết là Lý Tam Lang?
Đúng là một câu hỏi hữu lý. Chưa từng một ai biết qua chân diện mục của Lý Tam Lang thì Nam Cung Thu Lãnh bằng vào cái gì mà bảo đây là Lý Tam Lang?
Nam Cung Thu Lãnh ném ánh mắt về phía Đông Môn Trường Thanh một cái nhìn làm như lạnh lùng thản nhiên, nhưng không khỏi lộ nét uý kỵ, e ngại.
Vừa rồi, y thấy rõ ràng thanh bào lão nhân còn đứng gần cỗ quan tài ngoài cửa thế mà bây giờ lão đã bỗng chốc có mặt tại đây và hỏi như vậy rồi! Lão tiến vào lúc nào, bằng thân pháp ra sao mà y không thấy, chẳng hay?
Nãy giờ, mặc dù đối đáp với Đỗ Thập Nương nhưng luôn luôn y không xao lãng mảy may giám thị mọi động tĩnh chung quanh. Vậy mà lão llai nhập y lại không biết, thế mới kỳ!...