“Nhậm Hoài Tô!” Nàng thình lình chộp lấy cánh tay y, “Ta có chuyện muốn hỏi ngươi, từ bé đến lớn ngươi thực sự chỉ tu hành trong chùa? Hai mươi mấy năm nay ngươi nhớ được những gì? Sư phụ ngươi là ai? Ngươi đã ở Bích Phi tự bao lâu? Nói hết cho ta biết, lập tức nói cho ta biết!”
….
Thành Mậu Uyển.
Chùa Bích Phi.
Đó là một ngôi chùa hoàng gia.
Bích Phi tự không phải ai cũng có thể ra vào, toạ lạc ở phía nam thành. Chùa không lớn, nhưng được chạm trổ tinh tế, sơn son thiếp vàng, lộng lẫy nguy nga, hai cánh cửa đại môn làm bằng gỗ đàn hương, giá trị đã không biết bao nhiêu mà kể, vòng cửa làm bằng vàng ròng, cả hai thứ này đều khắc chi chit tiếng Phạn, không rõ là kinh văn hay chú ngữ.
Ở thành Mậu Uyển, chùa Bích Phi thực ra không quá nổi tiếng, thậm chí dân trong thành rất ít người biết được sự tồn tại của nó. Hương hoả nơi đây không vượng, quanh năm vắng bóng người ghé thắp hương lễ Phật. Thường ngày đại môn đóng chặt, chưa từng nhìn thấy kẻ ra vào, lại thêm những dòng tiếng Phạn khó đọc trên cánh cửa, qúa nửa người dân vùng lân cận không biết chốn lầu son gác tía này là một ngôi chùa, mà tưởng là tư gia của một phú hào nào đó.
Chùa không gõ chuông đã đành, còn chẳng đọc kinh buổi sớm, quanh năm im lìm không tiếng động.
Đây là nơi Nhậm Hoài Tô sống.
Trong chùa chỉ có hai người, một là Nhậm Hoài Tô, người còn lại pháp hiệu là Vong Quy, là một lão tăng năm nay đã bảy, tám mươi tuổi. Ngôi chùa lạnh hương vắng lửa mà có thể xa hoa đến vậy bởi vì nó là biệt viện do hoàng gia xây dựng. Tháng bảy hằng năm họ Vân, hoàng tộc đương triều sẽ đến đây bái Phật, ấy là tổ huấn của triều đình sáu mươi năm nay, nhưng sao lại bí mật làm vậy, sợ rằng chỉ một số rất ít nhân vật trong hoàng tộc mới biết nguyên do.
Hầu hết mọi người đều như Cơ Nhị, hoàn toàn mù tịt, với y mà nói, mỗi năm đổ một đống vàng bạc vào ngôi chùa vô dụng chỉ dựng lên để ngắm này là lãng phí tài lực mà chẳng thu hoạch được gì. Nhưng cũng chính vì tác phong ấy của triều đình, bây giờ Nhậm Hoài Tô mới trở thành một kẻ coi rẻ tiền bạc, tuỳ tiện phung phí tiền tài của người khác như thể của mình, cực kỳ đáng giận, tội khó dung tha..
Cơ Nhị từng ghé chùa Bích Phi hai lần, lần đầu là đi bái Phật, kết quả Bích Phi tự đóng cửa không gặp, nói y vô duyên với Phật; lần thứ hai là sau khi quen biết Nhậm Hoài Tô, có một hôm không hiểu vì sao trời giáng sét dữ, chọc một lỗ thủng to hơn đầu người trên Phật đường ngôi chùa, Nhậm Hoài Tô bảo y tu sửa. Vì ngôi chùa ấy xây dựng đắt đỏ, vật liệu quý giá khác thường, dù triều đình mỗi năm đổ tám mươi vạn lượng bạc cho y vẫn hoang phí không đắp nổi tổn thất lần này. Mấy chục vạn lượng bạc trắng đối với Cơ Nhị mà nói không dáng bao nhiêu, nhưng y vẫn luôn hiếu kì, vì sao thánh địa Phật môn thắp hương bái Phật vâng theo ý trời lại bị sét đánh thủng? Lẽ nào Phật tổ ở Tây thiên khoog phù hộ cho tín đồ của mình?
Còn người áo tím lại từng ghé Bích Phi tự rất nhiều lần, thân phận của y cũng khác.
Y có danh hiệu là Đan Hà, là tiêu luyện sư đệ nhất đương triều.
Tiêu luyện sư, hay còn gọi là đan sĩ, việc chính là luyện đan, thường ngày kiêm tu tiên đạo, có thể thông suốt tiên cảnh, thấy được quá khứ tương lai, chỉ đá hoá vàng, rải đậu thành binh.
Bản lĩnh Đan Hà cao đến đâu thì Cơ Nhị không rõ lắm, nhưng ít nhất lời sấm của y đã nhiếu lần được chứng thực, giúp hoàng triều tránh khỏi không ít đại kiếp, cũng chính vì thế Đan Hà được hoàng tộc họ Vân tôn làm thượng toạ, mỗi lần lễ Phật ở chùa Bích Phi, Đan Hà đều có tên trong danh sách đi theo.
Hơn nữa nhờ giao tình với Hoài Tô, y thường đến chùa Bích Phi làm khách, đã nhiều năm nay chưa từng phát hiện chỗ nào bất ổn.
Chú Bích Phi chừng như một ngôi chú bình thường, sư sãi ít ỏi, dù nguy nga lộng lẫy nhưng hương hoả thưa thớt mà thôi.
Nhưng … có thực sự là thế không?
Hai vị khách quý ghé chùa Bích Phi, hoà thượng Vong Quy điềm tĩnh mời trà, đối với vị hoà thượng này, dường như Nhậm Hoài Tô có ở chùa hay không cũng như nhau, trong chùa tất thảy bằng lặng, không hề có gì khác thường.
Thứ trà mà chùa Bích Phi mời khách là Long Tuyền Bích Huyết ngon nhất thời bấy giờ, đó là một loạ hàn trà cực kỳ lập dị, rất hiếm người dùng uống lâu dài. Giông trà xanh này sinh trưởng ở những vùng giá rét nhất, mọc thành dạng dây leo bám trên vách đá, cành lá cứng như sắt, rất khó hái, có vị đắng chát dị thường, hoàn toàn không hợp với hai chữ “trà thơm”, nhưng lại có một điểm đặc biệt khiến nó nổi danh khắp chốn.
Long Tuyền Bích Huyết là một thánh phẩm nhà Phật, truyền rằng có công hiệu trừ tà giải độc, linh hoạt thân thể, kẻ tu Phật uống trà này xong có thể không ăn không uống vài ngày mà không đói khát, còn có thể thanh trừ mọi ô uế, khiến thân thể càng thánh khiết vô ngần.
Nhưng Long Tuyền Bích Huyết rất quý hiếm, tính cực hàn, nếu không có công lực cao thâm, uống trường kỳ chỉ có hại không có lợi, nơi uống nó như nước trắng, ngoài Bich Phi tự, sợ rằng không còn chốn khác.
Trước đây Cơ Nhị ghé thăm Bich Phi tự uống Long Tuyền Bích Huyết, cũng chẳng cho là chuyên gì to tát. Nhậm Hoài Tô tính tình thanh đạm, không lạ lùng gì khi y thích hàn trà, nhưng đến nay nhìn lại, loại thánh phẩm trấn tà này không khỏi làm người ta phải có suy nghĩ khác.
“Vong Quy đại sư, từ ngày Nhậm Hoài Tô đi, trong chùa có xảy ra chuyện gì khác thường hay không?” Cơ Nhị mỉm cười, nói ngắn gọn, “Hai chúng ta cùng nhau đến đây, là muốn đại sư xác nhận cho một chuyện, không biết đại sư có chấp thuận hay chăng?”
Vong Quy hoà thượng người gầy quắt, trông hệt một bộ xương khô, xấu xí vô cùng, tương phản với kẻ vận áo pha lê, dung nhan đẹp tuyệt như Cơ Nhị, hai ngượi làm nổi bật lẫn nhau tạo nên một cảnh tượng kì dị, ấy thế mà Đan Hà vẫn thản nhiên, xem như không thấy. Nghe Cơ Nhị hỏi thế, lão hoaf thượng lại không hề ngạc nhiên, nhàn nhã nhấp một ngụm hàn trà, “Cơ thí chủ muốn hỏi điều gì, lão nạp biết rõ, nhưng không thể trả lời.”
“Vì sao?” Cơ Nhị nói tiếp, khoé môi treo một ý cười nhởn nhơ.
“A di đà Phật, thú chủ cũng đã biết rồi đó thôi.” Vong Quy hoà thượng thong thả đứng dậy, “Tuy lão nạp không thể nói, nhưng hai thí chủ có thể tự đi xem.”
“Xem? Xem ở đâu?” Đan Hà rất thẳng thắn, y ghé Bích Phi tự không dưới chục lần, còn chỗ nào chưa từng xem qua?
“Võ phòng của phương trượng.”
Võ phòng?
Đan Hà và Cơ Nhị quay sang nhìn nhau, đó là nơi Nhậm Hoài Tô tập võ, thường ngày đóng cửa. Hai người tuy ghé chùa nhiều lần, nhưng thật sự chưa từng có ý bước chân vào võ phòng.
Trong chùa Bích Phi, phía sau thiền phòng phương trượng là một phòng rất rộng, dành riêng làm nơi luyện võ.
Căn phòng sơn son, cửa có phù điêu chạm mây cuộn màu lam, ô cửa bên trái chạm kim long, bên phải là mặt trời chói chang mà rồng theo đuổi. Toàn thân rồng thiếp vàng, biển mây xanh ngọc, gỗ đỏ làm nền, chỉ cánh cửa này thôi cũng đắt giá vô cùng. Chùa Bích Phi được xây cho hoàng đế, được tô điểm vàng son lộng lẫy cũng không lạ gì, điều kỳ quái ở đây chính là hoa văn kia, có lẽ đây là ngôi chùa duy nhất trong thiên hạ khắc hình rồng, lẽ nào kẻ xuất gia tu hành trong này lại là hoàng đế.
Hoài Tô hiển nhiên không phải là hoàng đế.
Họ Vân đương triều tại vị đã nhiều năm, chưa từng có trường hợp nhường ngôi hay xuất gia nào được ghi lại, cũng không có chuyện mất tích hoặc giam lỏng.
Vong Quy hoà thượng mở cửa, mặt không biểu cảm lui đi.
Cơ Nhị và Đan Hà nhìn chằm chằm cánh cửa hoa lệ đang dần dần mở ra, sau cánh cửa ấy sẽ là gì?
Cơ Nhị nhấc bầu rượu tự châm một chén, nhìn theo bóng Nhậm Hoài Tô, tay nhịp trục quyển trên mặt bàn, thảnh thơi nhàn hạ.
______________
Lầu ba Phỉ Thúy Triều Châu, phòng đầu tiên.
Một nữ tử tóc dài áo đen chống má ngồi im lìm giữa phòng, trông ra cửa sổ. Bên ngoài cảnh sắc say lòng, từ chỗ nàng ngồi có thể thấy ngoài song bích đào trải rộng, hoa đơm rực rỡ, xuân ý dạt dào.
Nàng ngồi trong bóng râm, làn da trắng tái, hơi thiếu hồng hào, nhưng mi thanh mục tú, dù không hẳn mỹ lệ nhưng cũng coi là xinh đẹp. Mặt mày nàng đoan chính, không mảy may giống một quái nhân đi đâu cũng đem theo cương thi dã quỷ.
Hơn nữa bên cạnh nàng trống không, làm gì có bóng dáng cương thi dã quỷ. Trên bàn có bầu rượu nhạt, một chén được châm nhưng không uống, chỉ đặt rất im, soi bóng nắng bên ngoài cửa sổ.
Nàng chính là Cô Quang, hậu duệ dị tộc vùng núi tây bắc, bộ tộc của nàng tên là Nguyệt Thiên Thủ. Người ta đồn Nguyệt Thiên Thủ là tộc vu yêu thần bí nhất trong núi, giỏi ngự quỷ từ thời viễn cổ. Tộc nhân ở chung với quỷ lâu ngày, thông hôn với lệ quỷ, trong máu có quỷ khí, không thể gặp ánh mặt trời.
Bộ tộc Nguyệt Thiên Thủ cả đời bầu bạn với quỷ, trăm năm nay rất hiếm kẻ kết hôn với người ngoại tộc, mà người đồng tộc thành hôn sinh con đều là thai chết. Nghe bảo vì quỷ khí xung khắc, trừ phi quỷ khí trên người phụ mẫu có thể dung hợp lẫn nhau, bằng không tất phải tuyệt hậu. Chính vì vậy, người trong tộc ngày càng ít, cho đến nay chỉ còn độ ba trăm.
Còn Cô Quang… là ngoại lệ vạn kẻ chưa chắc có một, là kết quả của một cuộc hôn nhân đồng tộc duy nhất còn sống sót.
Quỷ khí trên ngươi nàng gấp mười lần người trong tốộc, sức mạnh và số lượng quỷ nàng có thể sai khiến càng khiến người thường khó lòng tưởng tượng.
Tộc trưởng trục xuất nàng khỏi tộc vào năm nàng mười tuổi. Quỷ khí trên người nàng quá mạnh, có thể nói là nửa người nửa quỷ. Theo tộc quy, nàng không được coi là người, mà nên quy vào quỷ tộc, bị Nguyệt Thiên thủ tộc nhân sai khiến, nhưng Cô Quang quá mạnh, toàn tộc không một ai có thể sai khiến nàng, đành phỉa trục xuất.
Nàng đem theo quỷ mị mình sở hữu, lang thang từ năm mười tuổi, cho đến nay đã tròn tám năm.
Bóng dáng phụ mẫu và tộc nhân đã mơ hồ từ lâu. Nàng xưa nay vốn khác người, không thể gặp ánh mặt trời, không thể vào Phật đường, nàng phải ăn thịt, không được ăn bất cứ một món chay nào; thậm chí vào những đêm trăng tròn, nàng còn phải cho quỷ mị của mình uống máu tươi.
Nếu nàng là người, tại sao phải sống đời của quỷ?
Nếu nàng là quỷ, tại sao địa ngục không dung chứa nàng?
Vì sao nàng không thể ngừng lưu lạc giữa trần thế? Vì sao phải ở dưới cùng một bầu trời với vô số con người? Vì sao không thể giống như quỷ, hóa thành hơi mây bóng khói mà đi? Vì sao nàng phải giống người, phải ăn cơm, phải ngủ, thậm chí, phải bệnh và chết?
Vì sao?
Rốt cuộc nàng là gì?
Không phải người, không phải quỷ, là một loài quái vật không tên.
Không ai hoan nghênh quái vật.
“Cốc cốc cốc”, ba tiếng gõ khẽ, nhẹ mà vững vàng, kẻ gõ cửa là người lễ độ, thong dong điềm tĩnh.
Cô Quang quay lại, nàng không có bạn, chưa từng có ai tìm, trừ khi gõ nhầm phòng, liếc nhìn cửa phòng, cánh cửa đột ngột mở toang, “Nhầm phòng rồi.” Nàng hờ hững nói.
Cửa mở.
Kẻ bên ngoài tịnh không giật mình vì cửa mở bất ngờ, một luồng thánh khí nhà Phật ập vào khiến nàng ngộp thở, chớp mắt bóng quỷ lởn vởn khắp phòng, mười con quỷ chắn trước mặt nàng thành một bức tường, ngăn lại luồng thánh khí, bỗng nghe kẻ đứng bên ngoài dùng một giọng nói ôn hòa mà không chút tình cảm lên tiếng, “Đây có phải là Lục Cô Quang Lục cô nương?”
Nàng nhìn ra, thấy ngoài cửa một nam tử vận áo cà sa trắng toát, ôn nhuận hiền hòa, đoan chính ưu nhã, trên dưới toàn thân mãnh liệt tỏa ra dòng khí thánh khiết. Có thánh khí ấy hộ thân, quỷ mị bên người không thể bước tới gần y dù một bước.
Nàng không hoảng hốt, cũng chẳng bực mình, chỉ hờ hừng nói, “Cao nhân nhà Phật đến tìm ta, có phải lại định khoác lác đòi thay trời hành đạo, muốn thu ta về địa ngục?”
Nam tử bên ngoài nghiêm nghị vái nàng một vái, “cô nương hiểu lầm, bần tăng… ta thành tâm thành ý, mong được cưới cô nương làm vợ, chẳng rõ cô nương có đồng ý hay không?”
Kiếp này nàng chưa từng giật mình hay hoảng sợ, khi tai họa khiếp số sắp tới, nàng đều có dự cảm, nhưng nay bảy chữ “mong được cưới cô nương làm vợ” khiến nàng cau mày, giũ tay áo, một chiếc quạt đen tuyền nằm gọn trong tay. Nàng thong thả mở quạt, trên cánh quạt lờ mờ bóng quỷ phiêu tán, một hồi lâu sau, nàng cất giọng hững hờ, “Cưới vợ?”
Nam tử vận cà sa trắng toát gật đầu, đôi mắt trong veo bằng lắng, không hằn gợn ý đồ lường gạt.
Nàng ngó gã nam nhân áo trắng không mời mà tới ấy rất lâu, khẽ phe phẩy quạt trong tay, “Ngươi… nhất định là có ý đồ khác.”
Y không hề giấu giếm, gật đầu.
“Nếu ngươi có thể làm được ba việc…” Nàng trầm ngâm đôi chút, đột nhiên mỉm cười, “Ta sẽ đồng ý.”
“Việc gì?”
“Ta muốn có Cực Nhật Châu, Vô Ái Hồn.” Nụ cười trên môi nàng bỗng dưng tắt ngấm, “Còn có… qua được vạn quỷ phệ hồn trận của ta rồi nói sau!”
Nam tử vận cà sa trắng tuyết thoáng gật đầu, bóng đen trong phòng xoáy tít, gió tà thổi mạnh, những nhũ băng răng rắc đâm xuống từ khung cửa, mỗi cái đều sắc như dao. Một luồng khói đen tụ thành hình đầu người, xô thẳng vào ngực nam tử áo trắng, tức thời vô số đầu lâu vụt ra từ luồng khói, chụp tới người y.
Tay áo phất lên khẽ khàng, trong gió thoảng một mùi thơm mát lành như hoa lại chẳng phải hoa, như cỏ mà không phải cỏ, gian phòng dường như sáng bừng lên đôi chút, những khói đen, sọ quỷ, đầu lâu thảy hóa hư vô. Nam tử áo trắng soi đôi mắt trong veo vào nàng, chỉ cần nhấc tay đã gột sạch quỷ khí, tuyệt không kiêu ngạo, chỉ im lìm đứng đợi nàng lên tiếng.
Nàng nghẹn lời, vạn quỷ phệ hồn trận đã chon thây không biết bao nhiêu cao thủ, lại địch không nổi một cái phất tay của kẻ này. Cô Quang nhấc ly rượu nhạt nhấp một ngụm, “Ngươi tên gì?”
“Tục danh Nhậm Hoài Tô.” Dù đã thanh trừ quỷ mị, y vẫn đứng ở ngưỡng cửa, không đến gần nàng thêm dù là một bước.
Nhậm Hoài Tô? Nàng ngắm nghía y từ đầu xuống chân, với võ công và tu vi ấy, tuyệt đối không thể vì đột nhiên si mê mà đòi cưới nàng làm vợ nhỉ? Nhất địn có lý do vạn bất đắc dĩ nào đó. Ha! Nàng bật cười, bất luận là lý do gì, đều chẳng phải chuyện tốt. Nhưng gã này tu vi cực cao, nếu y có điều muốn cầu nàng, vậy thì mượn dùng cũng không tệ. “Ngươi thật lợi hại, coi như ta đã gặp được người không sợ quỷ nhất.” Nàng nhịp ngón tay trên mặt bàn, mời y ngồi, “Chỉ cần ngươi giúp ta tìm được Cực Nhật Châu và Vô Ái Hồn, ta sẽ gả cho ngươi.” Hơi khựng lại, nàng chợt mỉm cười, “Bất luận lý do của ngươi là gì.”
Nhậm Hoài Tô vẫn đứng ngoài ngưỡng cửa, không bước vào trong, một hồi lâu sau mới đáp, “Cực Nhật Châu xa cách muôn trùng, chìm trong dung nham, cô nương ở đây chờ, nửa tháng sau ta sẽ mang châu về.”
Nàng lạnh nhạt nhìn y, “Không được, không phải ngươi muốn cưới ta sao? Ta phải đi cùng ngươi.”
Y thoáng chần chừ, nàng bỗng nhiên thấy hứng thú. Kẻ này mở miệng đòi cưới đến là thản nhiên, nàng đòi đi cùng y lại không muốn. Toàn thân y tràn trề thánh khí, tất không phải phường gian tà, dẫu không biết vì sao y muốn cưới nàng, nhưng nhìn y khó xử, nàng cảm thấy thú vị.