Cơ Nhị chưa kịp trông rõ trong phòng có gì, thình lình một tria sét phóng ra. Không kịp chống đỡ, y nghiêng đầu, tia sáng đánh thẳng về phía Đan Hà, Đan Hà né nhanh như cắt, chỉ nghe thấy một tiếng nổ lớn, bức tường Phật đường đối diện thủng một lỗ to bặng đầu người. Cơ Nhị liếc mắt, lý do Phật đường Bích Phi tự bị hỏng lần trước hẳn nhiên đã rõ rành rành.
Đai môn mở toang, Vong Quy hòa thượng lánh đi thật xa, không liếc mắt vào trong dù chỉ là một cái. Cơ Nhị và Đan Hà chăm chú nhìn, trong căn phòng lớn một khối ngọc thạch to bằng một người đang tỏa sáng lập lòe, không biết là vật gì, ngoài ra, bên tường trái võ phòng là kệ sách, bày kín kinh quyển thư tịch tường phải đổ nát loang lổ đầy vết tích, đều là do kiếm khí làm tổn hại.
Từ khối ngọc ấy trở về trái, nền vách sạch tênh, ngăn nắp chỉnh tề, từ khối ngọc thạc trở về phải, vách thủng lỗ chỗ, nền ngổn ngang gạch nát, cứ như thể đã trải qua một kiếp nạn hủy thiên diệt địa.
Đôi mắt hẹp dài của Đan Hà thoáng khựng lại, trên bức vách bên phải lộ ra màu gạch đen óng, vật liệu dùng xây sửa vách tường là một loại nham thạc cực kỳ rắn chắc, xem ra gian phòng võ này trước khi được xây nên đã biết trước sẽ bị phá hỏng nặng nề. Cơ Nị lượn một vòng xung quanh khối ngọc thạch vĩ đại, “Đây là kỳ ngọc trong truyền thuyết, nguyên thạch của Túy Hoàng Châu, Túy Thần Ngọc ư?”
Đan Hà gật đầu, “Thứ kỳ ngọc này là vật trấn tà trừ ma, Túy Hoàng Châu chẳng qua chỉ nặng hai lạng đã vang danh khắp chốn, khối thần ngọc này lại cao ngang đầu người, xưng là trân bảo hiếm thấy tuyệt đối không quá lời.”
“Ta chưa từng nghe nói Túy Hoàng Ngọc còn có thể phát ra thứ sét chết người này, lẽ nào nó không hoan nghênh đám người trần mắt thịt như chúng ta đến ngắm?” Cơ Nị cười, dùng quyển trục trong tay gõ gõ vào khối thần ngọc, vừa rồi khi mở cửa, tia sét sắc bén như đao, hiện tại y hết gõ rồi khua trên đấy, thần ngọc lại sừng sững bất động, tựa như một vật chết.
“Túy Thần Ngọc chỉ phát ra thánh khí mãnh liệt mỗi khi gặp phải tà ma xâm thực, nhưng có thể khiến nó tích tụ thành tia sét sắc bén ghê gớm như vậy, không rõ trong võ phòng này vốn đã tồn tại loại tà khí nào?” Đan Hà xoay sang nhìn Vong Quy hòa thượng, “Đại sư, chúng ta rất mong được biết sự tình.”
Vong Quy hòa thượng mặt không chút thay đổi, chỉ một bức họa trên vách võ phòng.
Bức họa ấy được treo bên phía bày kinh quyển, sạch sẽ không một hạt bụi, đường nét phân minh. Cơ Nhị và Đan Hà xem xét hồi lâu, trong bức họa là một nhân vật nom như một vị tướng quân áo trắng, thân hình cao lớn khôi ngô, tay cầm trường thương, cưỡi trên lưng ngựa, trên mặt vị tường quân này đeo mạng che mặt màu đen, trên mạng che mặt thêu hình đầu lâu dữ tợn, không trông rõ diện mạo.
Dù không rõ diện mạo, nhưng tấm mạng che mặt này vốn vang danh khắp chốn. Truyện thuyết kể rằng, thuở tiên hoàng dựng nước, đệ nhất công thần, kẻ vì ngài chiếm đất giết giặc, thống lĩnh “Hắc Kỳ quân” chinh chiến bốn phương chính là một nhân vật mang mạng che mắt màu đen như vậy, hơn nữa người này văn võ song toàn, sau khi họ Vân dựng nước, được tiên hoàng phong đại tướng quân. Tên tuổi người này không có trong truyện kể hay sủ sách, trong triều ngoài dã đều gọi y là tướng quân che mặt.
Cơ Nhị nhìn chằm chằm bức họa, “Truyền rằng tướng quân che mặt bệnh chết vào năm tiên hoàng đăng cơ, dù lập được công lao kinh thế hãi tục, nưng chưa từng có ai được trông thấy chân diện mục, sau khi chết không lập bia văn, tro xương chôn cách hoàng cung mười dặm về tây… Cách hoàng cung mười dặm về tây, lẽ nào là ngay đây?”
Đan Hà lại chăm chú nìn một vật khác trên kệ sách, đó là một bọc vải đặt có vẻ tùy tiện, dù vẫn sạch sẽ gọn gàng, nhưng có thể nhìn ra là một vật cũ lâu năm, y dấn từng bước về phía ấy, chậm rãi nâng nó lên. Cơ Nị lập tức trông qua, trông thấy Đan Hà mở ra bọc vải cũ kỹ, bên trong mấy mảnh giáp sắt vẫn lấp lánh sáng, đó là một tấm áo.
Hoặc có thể nói là một tấm bố giáp, chỉ khảm mấy mảnh giáp sắt mỏng trước ngực áo, tác dụng trang trí nhiều hơn phòng ngự.
Đan Hà và Cơ Nhị nhất thời câm lặng.
Tấm áo này và trang phục tướng quân che mặt mặc trong bức họa giống hệt nhau.
Y từng là ai, hai vị thí chủ đã rõ hay chưa?” Vong Quy hòa thượng chắp tay trước ngực.
Cơ Nhị thấy vị hòa thường ấy thần thái trang nghiêm, dường nư lòng đang dâng lên một nỗi buồn thương nào đó, “À… thứ cho ta càn rỡ, đại sư năm ấy phải chăng từng là một thành viên của Hắc Kỳ quân?”
Tuy người ấy không trả lời, nhưng Cơ Nhị biết mình đoán đúng, lão hòa thượng này là mooth thành viên của Hắc Kỳ quân, vậy Nhậm Hoài Tô là ai, hẳn nhiên đã rất rõ rang. Đan Hà thoáng chau mày, “Thời Hắc Kỳ quân còn chinh chiến đã cách đây hơn sáu mươi năm, nếu Nhậm Hoài Tô thực sự là y, tại sao lại trẻ đến vậy? Trừ phi…”
“Trừ phi… trừ phi y tuyệt không phải người bình thường.” Cơ Nhị mỉm cười tiếp lời y.
Nhưng Đan Hà lại lắc đầu. “Y trẻ như vậy, đồng thời không có chút ấn tượng nào với chuyện năm xưa, một lòng tin rằng mình lớn lên ở Bích Phi tự, tóc đen cắt đứt rồi hồi sinh, quanh năm uống Long Tuyết Bích Huyết, thậm chí trong võ phòng rieng lại tồn tại một khố túy thần ngọc to như thế… Đại sư, khổ tâm bưng bít nhiều năm,gom góp nhiều vật phẩm trấn tà, chỉ để bảo vệ y không xảy ra biến hóa, có phải hay không?”
Vong Quy hòa thường không trả lời, “A di đà Phật.”
“Đan Hà, để bảo vệ y khỏi sự biến hóa nào?”
“Thi biến… hoặc quỷ biến…” Đan Hà chậm rãi đáp, “Y không phải là người, mà là thi mị.”
Cơ Nhị nắm chặt quyển trục, mi mắt khép hờ, “Năm xưa y đã gặp phải tai kiếp gì,đại tường quân che mặt lừng danh thiên hạ sao lại biến thành thi mị? Tiên hoàng dùng Túy Hoàng Ngọc trấn giủ y trong Bích Phi tự, không chỉ xuất phát từ lòng biết ơn, hẳn là có ý đồ khác?” Thoàng trầm ngâm chốc lát, y liếc nhìn Vong Quy hòa thượng, “Có liên quan gì đến điềm trời hay không?”
Vong Quy hòa thượng vẫn chắp tay, im lặng.
Cơ Nhị chậm chạp thả bước dạo một vòng xung quanh võ phòng, “Bản triều một lòng tin đạo quỷ thần, sáu mươi năm trước dựng nước, nghe đâu cũng có mọt vị đan nhân tinh thông thuật tiên tri, chẳng lẽ người này đã tính được điềm diệt thế vào ngay lúc đó… Điềm trời lần này, đan nhân đều nghĩ Nhậm Hoai Tô là Vạn Thánh Linh, nhưng thực ra y là thi mị, nếu đã là thi mị thì không có khả năng sở hữu thánh thể thuần khiết, vậy Vạn Thánh Linh mà người ta tiên đoán rốt cuộc là ai? Sao lại giống NHậm Hoài Tô đến vậy?” Cơ Nhị lại dạo thêm nử vòng, “Nếu như… điềm trời lần này đã thành hình vào sáu mươi năm trước, vậy ban đầu thánh thể rơi vào người Nhậm Hoài Tô, còn đan nhân thì… biến thành thi mị? Có thân xác không phải là người thì sẽ bất tử, thánh khí khoong thể chuyển thể sẽ chiếm giữ cơ thể Nhậm Hoài Tô lâu dái, và cũng bởi vì y không phải thánh thể thuần khiết, cho nên vĩnh viễn không thể trở thành vạn thánh linh. Hoài Tô không chết, nhân gian bất diệt?” Y ngước đôi mắt hơi xếch, hướng cái nhìn sáng rỡ về phía Vong Quy hòa thượng, “ Có phải như vậy không? Vong Quy đại sư.”
Vong Quy buông xuống một tiếng thở dài, dù không trả lời, nhưng tràn ngập nỗi thê lương.
Cơ Nhị biết mình suy đoán dù không trúng cũng không cách sự thật bao xa, bật cười ha hả, “Cho nên Bích Phi tự được dựng nên để duy trì trạng thái không sống không chết ấy của y, tiên hoàng trấn giữ y ở đây, để giang sơn thiên hạ được thiên thu vạn đại, đời đời bất diệt.”
“Cơ Nhị, trước đây có lẽ như vậy, nhưng hiện nay tình huống đã khác rồi.” Đan Hà đột nhiên xen lời, “Hoài Tô ở Bích Phi tự tu hành nhiều năm, quỷ khí gần như đã tan biến hẳn, chỉ cần y kiên định Phật tâm, y vẫn là vạn thánh linh, đó là nguyên nhân điềm diệt thế xuất hiện lần thứ hai.”
“Gì cơ?” Hàng máy dài tuấn mỹ của Cơ Nhị nhướn cao, “Vậy nghĩa là lần này y rời chùa, chọn việc giết vợ, không phải là sai lầm, mà cũng là việc phải làm? Thế nhưng…”
“Không sai, y phải tìm thấy phương pháp tự hủy thánh khí, ta không biêt tiền bối năm xủa đã dùng phương pháp nào biến y thành thi mị, nhưng hẳn là vô cùng tàn khốc…” Đan Hà thở dài, “Thi mị là thứ cực ác trên trần gian, tuyệt đối không thể để nó thức giấc, chỉ mong y tâm tư kiên định, có thể cưới nữ quỷ Cô Quang, sau đó giết vợ lập tội, diệt trừ thánh thể.”
“Ngộ nhỡ y thức tỉnh giữa chừng thì sao? Thánh thể không phải cũng đồng thời hủy diệt ư? Sao cách đó lại không dùng được?”
“Một khi thi mị thức tỉnh, như Hoài Tô… Một thi mị mạnh mẽ oai phong như tướng quân che mặt năm xưa, sở hữu cơ thể bất lão bất tử, dù nhân gian không diệt vong, cũng làm sao tránh khỏi tai kiếp?” Đan Hà thở dài, “Thi mị bất tử, sát sinh là thiên tính, nó có thể mở quỷ môn, khi ấy nhân gian có khác nào quỷ vực?”
“A di đà Phật.” Tấm áo pha lê của Cơ Nhị lấp lánh khi đứng bên cạnh Túy Hoàng Ngọc, “To chuyện rồi, to chuyện rồi.”
…
Giữa núi hoang, trăng đã nhạt màu.
Nhậm Hoài Tô tỉnh dậy, không mảy may biết chuyện hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt vừa rồi, vừa mở mắt đã gọi, “Cô Quang.”
“Cô Quang Cô Quang Cô Quang,” nàng lạnh lùng đáp lời, “Suốt ngày gọi gọi gọi, có gì hay mà gọi mãi?”
Y mở mắt, đống lửa hôm qua vẫn chưa lụi hẳn, có hai củ khoai đã vùi cín lăn loc trên đất, do Cô Quang ném vào lúc sáng sớm. Trước giờ chỉ có y lùng sục khắp nơi tìm thịt cho nàng, đây là lần đầu nàng chuẩn bị bữa cho y. Y vẫn không có phản ứng giừ đặc biệt như trước, chỉ nói cảm ơn, nhặt một củ khoai bẻ ra bắt đầu ăn.
Hôm đó mây âm u, không thấy mặt trời. Nàng ngắt một nhành cỏ dại, nhìn mũi giày y đăm chiêu, “Ngươi đói ư?”
Tay y khựng lại, nhắm hai mắt, “Không.”
“Vậy sao phải ăn?” Nàng hỏi.
“Con người đều phải ăn.” Y đáp rất nghiêm túc.
Nàng nín lặng, y không biết rằng y không cần “ăn”, dù vĩnh viễn không ăn cũng không bao giờ chết. Y ăn một cách điềm nhiên đơn giản như vậy, nếu vừa rồi nàng nhét Huyết Lưu Hà vào củ khoai, chỉ sợ y sẽ nuốt luôn mà không hề phát giác. Nhìn thần sắc bình thản của y, dường như có thể khiến người ta quên đi cảnh y giết chóc.
Y, chỉ cần không vấy máu, có lẽ sẽ vĩnh viễn như vậy.
Trăm năm ngàn năm về sau, khi những người y quen biết già đi chết đi, có lẽ y mới y thức được sự dị biệt của mình.
Còn nàng thì sao? Rôt cuộc nàng có là “người” hay không? Một trăm năm, một ngàn năm sau, nàng có “chết” không? Nếu nàng không chết, thì nhân gian hòa quỷ vực có gì không tốt? Sao nàng phải cứu thế? Sao nàng phải lo lắng sợ hãi hộ nhiều người không quen biết đến thế? Kẻ đang ở trước mặt nàng đây dù không phải con người, nhưng là kẻ đầu tiên đối tốt với nàng từ khi nàng ra đời.
Nàng liếc nhìn Nhậm Hoài Tô đang gói ghém hành lý, nếu người này dù trở nên tàn nhẫn hiếu sát vẫn đối tốt với nàng, vậy diệt thế cũng chẳng có gì là không tốt.
“Nhậm Hoài Tô,” nàng bỗng nói, “Hôm ấy ngươi nói: Trên thế gian đâu còn ai khác, chỉ có ngươi, chỉ có ta, nghĩa là sao?”
Y ngước lên kinh ngạc, nghiêm túc suy ngẫm rất lâu, “Ta từng nói thế?”
Nàng mỉm cười, quả nhiên là đã quên. Nầng phẩy tay, “Chúng ta đi tìm Vô Ái Hồn thôi.”
“Cô Quang, lấy được Cực Nhật Châu, quả nhiên tâm trạng cô tốt hơn nhiều.” Y vác hành lý trên lưng, hai con ngựa đã không biết đi đâu về đâu, vả lại y cũng không có ý định cưỡi ngựa.
Ô! Một thi mị cũng biết xem tâm trạng người khác có tốt hay không? Y biết tâm trạng là cái gì ư? Nàng liếc xéo y khinh khỉnh, “Ta muốn về phía Nam, ở đó có một nơi gọi là Vô Tâm cốc, trong Vô Tâm cốc có cỏ độc, trái của nó chính là Vô Ái Hồn.”
…
Ra khỏi Hoành Đoạn hỏa sơn, Nhậm Hoài Tô mua hai con ngựa khác, hai người chạy về nam, quãng đường từ Hoành Đoạn hỏa sơn đến Vô Tâm cốc ước chừng vạn dặm, dù có tuấn mã ngày chạy trăm dặm, cũng phải đi ròng rã mười ngày.
Nhưng hai người đi chưa tới hai ngày đã gặp phải phiền phức.
Trên đường từ Hoành Đoạn hỏa sơn đến Phổ Vân huyện có một con sông lớn chắn ngang, sông rất rộng và nước chảy xiết, không có cầu bắc qua, muốn sang sông chỉ có thể ngồi thuyền.
Bấy giờ trên thuyền có một ông lão râ tóc tua tủa đang đứng, hai tay cầm mái chèo, chắn bước hai người.
“Lục cô nương.” Giọng lão vang vọng mạnh mẽ, “Lão hủ tốn một năm ròng mới thăm dò được hành tung của cô, cô có còn nhớ lão hủ không?”
Lão hủ? Lục Cô Quang lạnh lùng nhìn lão già trên thuyền, “Không nhớ.”
Lão không nổi giận, điềm đạm nói, “Lão hủ là Hồng Đường.”
Nàng ngẫm nghĩ, “Hóa ra ông là người nhà Hồng Thế Phương? Cso chuyện gì?” Nàng ghìm cương ngựa, “Hồng gia bỏ cả năm trời tìm ta? Ta nhớ mình đâu có lấy mạng Hồng Thế Phương, không oán không thù, tìm ta làm gì?”
“Lão hủ phụng mệnh Hồng thiếu gia, nhất định phải đưa Lục cô nương trở về.” Hồng Đường vẫn ôn tồn, “Thiếu gia đối với cô nương là thật lòng, từ khi Lục cô nương rời đi, thiếu gia đổ bệnh nặng mấy lần, nhung nhớ khôn nguôi.”
“Nhung nhớ khôn nguôi?” Ý cười lạnh lẽo phủ đầy trên mặt nàng, “Nhung nhớ không nguôi? Câu này mà Hồng Thế Phương cũng nói ra miệng được? Y bệnh thì chết đi, liên quan gì đến ta?”
“Thiếu gia tương tư thành bệnh, không phải cô nương thì không ai cứu được.” Ngữ điệu Hồng Đường cứ đều đều bình thản, nói những câu như thế mà tuyệt không có ý bỡn cỡn.
“Tránh đường!” Lục Cô Quang không muốn tốn hơi thừa lời với lão, nắm chặt quạt quỷ trong tay, chỉ đợi lão tiếp tục cản đường, nàng sẽ lập tức lấy mạng lão.
“A di đà Phật.”
Bỗng nghe phật hiệu vọng tới, giữa dòng sông, một con thuyền khác thong thả ghé sang, có bị hòa thượng áo trắng đứng ở mũi thuyền, “ả ma đầu này sát nghiệt nặng nề, lún sâ trong ngõ quỷ, từ lâu đã không thể sánh với người thường. Hồng thí chủ đang độ thiếu niên, luận võ công, hay nhân phẩm đều là bậc nhất, gia học uyên bác, há lại sa vào nghiệt duyên thấp kém? Ma đầu này đã giết rất nhiều đệ tử nhà Phật, lại là hung thủ sát hại Ân Khánh đại sư, hôm nay Ma Đà nhất định phải hàng yêu trừ ma, tiêu diệt yêu nghiệt.”
Nàng liếc qua, con thuyền mới tới không chỉ chở mỗi Ma Đà, trên khoang còn đứng lố nhố khoảng chục vị nhân sĩ võ lâm lạ mặt, ai nấy thái độ hằng học, hẳn là kẻ thù của nàng. Nàng hành sự bất phân thiện ác, càng không húy kỵ gây thù chuốc oán, cũng lười phân biệt ai với ai, chỉ hừ lạnh một tiếng, “Những kẻ muốn hàng yêu trừ ma ta gặp nhiều rồi, các ngươi cùng xông lên đi.”
“Nếu Lục cô nương không đi cùng lão hủ, chỉ sợ Hồng gia cũng không cản nổi bước đường trừ ma của Ma Đà đại sư.” Lão già trên con thuyền kia lại từ tốn khuyên nhủ.
Y thoáng chần chừ, nàng bỗng nhiên thấy hứng thú. Kẻ này mở miệng đòi cưới đến là thản nhiên, nàng đòi đi cùng y lại không muốn. Toàn thân y tràn trề thánh khí, tất không phải phường gian tà, dẫu không biết vì sao y muốn cưới nàng, nhưng nhìn y khó xử, nàng cảm thấy thú vị.
Chính lúc đó, Nhậm Hoài Tô gật đầu, “Thế thì, chúng ta cùng đi vậy.”
Nàng mỉm cười, “Ta không có tiền, ngươi phải trả tiền phòng cho ta.”
Y vẫn bình thản gật đầu.
Dường như người này không biết cười, không biết ngạc nhiên, nàng xếp lại cánh quạt cất chứa vạn quỷ, đứng dậy, không biết khi nhìn thấy gương mặt này mang thần sắc khiếp sợ hoặc tuyệt vọng sẽ có cảm giác sao nhỉ?
Y biết khóc không?
Nhậm Hoài Tô đã quay lưng đi trước, nàng theo phía sau, kẻ này là cao nhân nhà Phật, dù thoạt trông thánh khiết vô cùng, nhưng vẫn cứ là kẻ địch.
Một nam tử vận áo pha lê đang nằm nghiêng trên võng mây giả ngủ trong sảnh tửu lầu, thấy hai người cùng xuống bèn hồ hởi tươi cười, “Chúc mừng chúc mừng, đôi vợ chồng son mới cưới bữa nay định đi đâu giải sầu đây?”
“Chuẩn bị ngựa,” Nhậm Hoài Tô đi thẳng ra cửa, “Chúng ta muốn đi Hoành Điạ hỏa sơn”.
“Người đâu, chuẩn bị ngựa.” Cơ Nhị chỉ theo hai người đang đi ra cửa, tiểu nhị tửu lầu lật đật dắt cho mỗi người một con tuấn mã thượng đẳng, sắp sẵn nước uống lương khô và một số thuốc men đơn giản, hai người lập tức cầm cương giục ngựa đi.
“Chủ nhân, sao họ lại đi mất rồi… Vị cô nương ấy còn chưa trả tiền!”
“Ôi!” Cơ Nhị nằm trên võng thở dài, “Quen biết Nhậm Hoài Tô nhất định làm ăn sẽ lỗ vốn. Nhớ năm ấy mới quen y, ta trả hộ y ba ngàn lượng bạc tiền cứu tế thiên tai, kể từ đó, y ăn uống mời khách đều ở chỗ ta, trước nay chưa từng trả tiền, áo rách tới tìm ta, thiếu sách tới tìm ta, đến Phật đường dột chỗ này đổ chỗ kia cũng tìm ta. Lại thêm lần này càng quá quắt, còn kéo người khác cùng quỵt nợ. Ta thật là đáng thương…”
“Chủ nhân, không biết vị Nhậm đại sư… À, Nhậm công tử này có lai lịch thế nào?“ Tiểu nhị dè dặt hỏi.
“Y quá sùng Phật, cuộc sống không chút kích thích.” Cơ Nhị nằm trên võng đung đưa nhè nhẹ, “Có điều, càng thản nhiên bằng lặng, đến lúc thay đổi thì sẽ càng thú vị, không phải sao?”
Cô Quang và Nhậm Hoài Tô lên đường cùng nhau.
“Cực Nhật Châu” là loại khoáng thạch kỳ lạ sinh ra trong dung nham đỏ lửa, nghe đồn có thể phát ra ánh sáng cực mạnh trong đêm đen, vì thế mới mang tên này. Cô Quang không thể ra nắng, có được Cực Nhật châu là tâm nguyện nhỏ nhoi của nàng.
“Vô Ái Hồn” là loài có độc, nghe kể người ăn cỏ này vào sẽ mất đi cảm tình, biến thành cái xác không hồn. Nàng muốn có nó tất nhiên là để hại người, nhưng cụ thể hại ai thì còn phải xem tâm trạng. Nàng không ghét bỏ thế nhân sống đời hạnh phúc mỹ mãn, cũng chẳng hận người có thể phơi mình dưới thái dương, hay được bạch đầu giai lão cùng với tình yêu suốt kiếp, nhưng không ghét bỏ không có nghĩa là không định gây sự.
Nàng cô đơn, thảng hoặc muốn xem người ta hạnh phúc, nàng sẽ giúp đỡ họ. Thảng hoặc muốn xem người ta đau khổ, nàng lại tiện tay hại người ta sống không bằng chết.
Nhưng rất nhiều khi, nàng muốn có Vô Ái Hồn để dùng cho chính mình.
Nàng muốn mất sạch tình cảm, triệt để thành quỷ, không cần tiếp tục suy xét chuyện người đời ân ân oán oán, không phải ngẫm ngợi mình rốt cuộc là gì, và vào những đêm im câm, sẽ không khiếp hãi rằng mình sẽ biến thành thứ gì đáng sợ hơn.
Nàng từng tưởng tượng, nếu một khuya nọ, đầu nàng mọc ra sừng thú, toàn thân nàng hóa thành đầu lâu, hay trên người mọc thêm hai bàn tay quỷ, nàng sẽ phải làm gì?
Đó là một suy đoán hoang đường, một nỗi khiếp sợ kỳ dị, nhưng trên thế gian không ai có thể cảm nhận được cơn khiếp sợ giữa khuya của nàng, nàng là một loài không tên, không phải người, chẳng ra quỷ.
Họ xuất phát vào lúc hoàng hôn, đi thẳng về phía tây, nhanh chóng ra khỏi thành Mậu Uyển, tiến vào vùng hoang sơn dã lĩnh. Giữa núi có nhiều mồ hoang, nàng cảm nhận được quỷ khí dật dờ quanh những nấm mồ, liếc nhìn Nhậm Hoài Tô, nàng không vui, suốt dọc đường không hề nói chuyện, còn y cũng vô cùng yên tĩnh.
Trừ tiếng vó ngựa, chừng như không còn gì tồn tại.
Nàng ngước đầu, màu trăng trong vắt chiếu rọi trên thân, giữa ngực nàng có một nơi lập lóe ánh đỏ. Nhậm Hoài Tô không hỏi tới, điều đó làm nàng hài lòng.
Đó là một viên đá màu đỏ, không quá xù xì, được mài trơn nhẵn, nàng dùng dây xỏ đeo vào cổ. Quỷ khí mồ hoang bốn bề tránh né viên đá này, như thể cảm giác được nguy hiểm. Đó chính là Huyết Lưu Hà có thể sai khiến vạn quỷ trong truyền thuyết, viên đá được ngưng tụ bởi yêu khí ngàn năm ở Ưng Xuyên Tuyệt Sơn.
Trăng lên cao, trăng đêm nay to và sáng rỡ, nàng im lìm giục ngựa, kéo mũ áo trùm lên đầu.
Một bóng đen trờ tới, nàng ngước lên, thấy Nhậm Hoài Tô bung một tán ô giấy dầu có sẵn trong tay nải, che đi ánh trăng trên đầu nàng.
“Làm gì thế?” Nàng lạnh lùng hỏi.
“Tộc nhân Nguyệt Thiên Thủ sợ ánh sáng, đặc biệt là ánh nắng mặt trời, đêm nay trăng quá sáng, ta sợ ảnh hưởng đến cô nương.” Nhậm Hoài Tô nghiêm ngắn cầm ô, xích ngựa gần lại để che bóng trăng cho nàng.
Một mùi hương như hoa như cỏ lan ra, nàng ngửi mùi hương ấy, hốt nhiên (đột nhiên hốt hoảng) nhớ tới cỏ cây trong núi, non cao sông dài, đó là hơi thở khoáng đạt và thuần hậu chỉ có được sau khi đã đi qua muôn trùng trời đất. Nàng liếc nhìn Nhậm Hoài Tô, gã nam nhân cổ quái và khó lường không ngờ có thể dung nạp khí độ và tu vi của tự nhiên. Bỗng dưng nảy sinh ác ý, Cô Quang ghìm cương ngựa, “Ta đói rồi.”
Nhậm Hoài Tô ẳng lặng nhìn nàng, đôi mắt trong vắt, “Trong tay nải có lương khô.”
“Ta không ăn lương khô.” Nàng nhìn y bằng cái nhìn cợt giễu, “Ta ăn thịt, ta muốn ăn thịt tươi.” Thấy y cau mày, nàng độc ác bồi thêm một câu, “Thịt dã thú, hoặc thịt người cũng được.”
Lông mày Nhậm Hoài Tô càng cau chặt, rõ rang câu “muốn ăn thịt” của nàng làm khó y cực kỳ, không dưng nàng bỗng vui vẻ, càng ngắm nghía kỹ lưỡng bộ dạng của y.
Suy nghĩ chốc lát, y lấy từ tay nải một miếng lương khô, từ tốn đưa sang.
Nàng nhận miếng bánh nướng, lật qua lật lại nhìn, nhìn ngang dọc gì cũng chỉ là bánh nướng, “Sao?”
“Đây là một miếng thịt.” Y nghiêm túc nói, “Tâm sinh vạn vật, đều là tướng, lòng cô nói nó là thịt, nó liền là thịt, lòng cô nói nó là bánh nướng, thì nó là bánh nướng.”
Nàng há hốc miệng, cầm miếng bành nướng, lần đầu tiên trong đời muốn cười, nhưng lại cười không thành tiếng, “Ngươi muốn ta tưởng tượng nó là một miếng thịt rồi ăn? Nhậm Hoài Tô, ngươi điên đấy ư? Bánh nướng là bánh nướng, dù ngươi tưởng tượng nó thành heo, nó vẫn là bánh nướng.” Thực ra nàng không đói, nàng ăn thịt để sống, nhưng chỉ cần ăn một bữa thịt là có thể nhịn mấy ngày.
Y lại ngẫm ngợi một hồi, nhận lại miếng bánh, nghiêm trang nói, “Cô nói có lý”. Sau đó vén ống tay áo, rút ra một thanh đoản đạo trong tay nải, thẳng tay vót xuống cánh tay mình.
Y chưa kịp nói xong, quỷ khí dày đặc trên chiếc quạt đen tuyền đã kịp ăn mòn thanh đao khiến nó trở nên méo mó, choang một tiếng, đoản đao gỉ thành vài mảnh sắt rớt xuống đất. Nàng nhìn y cổ quái, Nhậm Hoài Tô ngừng lại, “Cô nương có nghi vấn gì ư?”
“Ngươi…” Nàng dịu giọng, “Rốt cuộc là ai?”
“Ta?” Y ngây ngươi thấy rõ, “Tục danh Nhậm Hoài Tô.”
“Ngoài Phật tổ và ba chữ Nhậm Hoài Tô, lẽ nào ngươi không còn điều gì để nói?” Nàng trừng mắt, “Ngươi không có cha mẹ ư? Ngươi ở đâu? Có bạn bè gì không?”
“Cha mẹ ta mất sớm.” Y nghiêm túc trả lời, “Trước ngày hôm qua, ta vốn là trụ trì chùa Bích Phi ngoài thành Mậu Uyển.”
“Ngươi quả nhiên là hòa thượng, là hòa thượng sao không cạo đầu?” Nàng hưởng thụ bóng râm dưới tán ô y cầm, “Ngươi xuất gia từ nhỏ?”
“Từ nhỏ thánh sư đã muốn cạo đầu cho ta, nhưng tóc ta không thể cắt đứt, sau khi cạo sẽ tự dài trở lại, thánh sư nói, ta nhất định phải có điểm dặc biệt, khó xuống tóc, cho nên không cạo đầu.”
Tóc? Lòng nàng trầm xuống, tóc cắt rồi mọc lại là một trong những đặc trưng của lệ quỷ, có những lệ quỷ hung ác cùng cực, không chỉ tóc cắt rồi lại mọc, còn đột nhiên mọc dài, có sức mạnh giết người. Nàng có nửa dòng máu quỷ, nhưng tóc không có tật cắt không đứt, chỉ là sau khi cắt dài nhanh hơn người thường mà thôi. Nhậm Hoài Tô toàn thân thánh khí, sao lại có mái tóc lệ quỷ?
Nàng âm thầm nghi hoặc, Nhậm Hoài Tô không mảy may phát giác. Trăng lên giữa trời, y ghìm cương ngựa, “Khuya rồi, người cô mang quỷ khí, còn đi tiếp sợ sẽ khiến vạn quỷ di động, chẳng bằng nghỉ chân ở đây.” Nói đoạn, y nhẹ nhàng xuống khỏi lưng ngựa, tán ô hơi dịch chuyển nhưng vẫn che trên đầu nàng.
“Nghỉ ngơi?” Nàng đi đêm quen, chưa từng nghỉ ngơi, “Mới đi khỏi tửu lâu chưa được bao lâu. Nghỉ ngơi cái gì?”
“Cô đói rồi, đã không có thịt ăn, vậy thì phải nghỉ ngơi.” Sự nghiêm túc của y không mảy may biến hóa, không hề xuất phát từ cố chấp, mà là sự bao dung và cân nhắc khởi nguồn từ nội tâm chân thành.
“Ta…” Nàng trừng mắt nhìn y, nàng tất nhiên đâu đói bụng. “Ở đây không giường không ghế, thậm chí không có cả một túp lều, phải nghỉ ngơi thế nào?”
“Ta sẽ tìm cách.” Y một tay che ô, một tay vung lên, mấy cành cây khô rải rác ven đường đột ngột bay lại, “phập phập phập phập” bốn tiếng, cắm ngay ngắn trên mặt đất. Y đưa ô cho nàng, cởi áo cà sa căng trên bốn cành khô, che chắn ánh trăng, rồi cởi áo ngoài trải xuống đất, “Cô nương, mời ngồi.”
Nàng cầm ô nhìn đăm đăm nam tử chỉ còn vận trung y đang bận bịu vì nàng. Nhiều năm qua chưa từng có ai làm gi vì nàng, chỉ vì một câu nói ất ơ của nàng thì lại càng không, cảm giác này quả thực rất mới mẻ. Nhậm Hoài Tô trải áo xong, nhóm hai đống lửa hai bên, “Lửa có thể đuổi sâu bọ, ngăn chặn dã thú.”
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Võ phòng phương trượng thong thả mở rộng.
Cơ Nhị chưa kịp trông rõ trong phòng có gì, thình lình một tria sét phóng ra. Không kịp chống đỡ, y nghiêng đầu, tia sáng đánh thẳng về phía Đan Hà, Đan Hà né nhanh như cắt, chỉ nghe thấy một tiếng nổ lớn, bức tường Phật đường đối diện thủng một lỗ to bặng đầu người. Cơ Nhị liếc mắt, lý do Phật đường Bích Phi tự bị hỏng lần trước hẳn nhiên đã rõ rành rành.
Đai môn mở toang, Vong Quy hòa thượng lánh đi thật xa, không liếc mắt vào trong dù chỉ là một cái. Cơ Nhị và Đan Hà chăm chú nhìn, trong căn phòng lớn một khối ngọc thạch to bằng một người đang tỏa sáng lập lòe, không biết là vật gì, ngoài ra, bên tường trái võ phòng là kệ sách, bày kín kinh quyển thư tịch tường phải đổ nát loang lổ đầy vết tích, đều là do kiếm khí làm tổn hại.
Từ khối ngọc ấy trở về trái, nền vách sạch tênh, ngăn nắp chỉnh tề, từ khối ngọc thạc trở về phải, vách thủng lỗ chỗ, nền ngổn ngang gạch nát, cứ như thể đã trải qua một kiếp nạn hủy thiên diệt địa.
Đôi mắt hẹp dài của Đan Hà thoáng khựng lại, trên bức vách bên phải lộ ra màu gạch đen óng, vật liệu dùng xây sửa vách tường là một loại nham thạc cực kỳ rắn chắc, xem ra gian phòng võ này trước khi được xây nên đã biết trước sẽ bị phá hỏng nặng nề. Cơ Nị lượn một vòng xung quanh khối ngọc thạch vĩ đại, “Đây là kỳ ngọc trong truyền thuyết, nguyên thạch của Túy Hoàng Châu, Túy Thần Ngọc ư?”
Đan Hà gật đầu, “Thứ kỳ ngọc này là vật trấn tà trừ ma, Túy Hoàng Châu chẳng qua chỉ nặng hai lạng đã vang danh khắp chốn, khối thần ngọc này lại cao ngang đầu người, xưng là trân bảo hiếm thấy tuyệt đối không quá lời.”
“Ta chưa từng nghe nói Túy Hoàng Ngọc còn có thể phát ra thứ sét chết người này, lẽ nào nó không hoan nghênh đám người trần mắt thịt như chúng ta đến ngắm?” Cơ Nị cười, dùng quyển trục trong tay gõ gõ vào khối thần ngọc, vừa rồi khi mở cửa, tia sét sắc bén như đao, hiện tại y hết gõ rồi khua trên đấy, thần ngọc lại sừng sững bất động, tựa như một vật chết.
“Túy Thần Ngọc chỉ phát ra thánh khí mãnh liệt mỗi khi gặp phải tà ma xâm thực, nhưng có thể khiến nó tích tụ thành tia sét sắc bén ghê gớm như vậy, không rõ trong võ phòng này vốn đã tồn tại loại tà khí nào?” Đan Hà xoay sang nhìn Vong Quy hòa thượng, “Đại sư, chúng ta rất mong được biết sự tình.”
Vong Quy hòa thượng mặt không chút thay đổi, chỉ một bức họa trên vách võ phòng.
Bức họa ấy được treo bên phía bày kinh quyển, sạch sẽ không một hạt bụi, đường nét phân minh. Cơ Nhị và Đan Hà xem xét hồi lâu, trong bức họa là một nhân vật nom như một vị tướng quân áo trắng, thân hình cao lớn khôi ngô, tay cầm trường thương, cưỡi trên lưng ngựa, trên mặt vị tường quân này đeo mạng che mặt màu đen, trên mạng che mặt thêu hình đầu lâu dữ tợn, không trông rõ diện mạo.
Dù không rõ diện mạo, nhưng tấm mạng che mặt này vốn vang danh khắp chốn. Truyện thuyết kể rằng, thuở tiên hoàng dựng nước, đệ nhất công thần, kẻ vì ngài chiếm đất giết giặc, thống lĩnh “Hắc Kỳ quân” chinh chiến bốn phương chính là một nhân vật mang mạng che mắt màu đen như vậy, hơn nữa người này văn võ song toàn, sau khi họ Vân dựng nước, được tiên hoàng phong đại tướng quân. Tên tuổi người này không có trong truyện kể hay sủ sách, trong triều ngoài dã đều gọi y là tướng quân che mặt.
Cơ Nhị nhìn chằm chằm bức họa, “Truyền rằng tướng quân che mặt bệnh chết vào năm tiên hoàng đăng cơ, dù lập được công lao kinh thế hãi tục, nưng chưa từng có ai được trông thấy chân diện mục, sau khi chết không lập bia văn, tro xương chôn cách hoàng cung mười dặm về tây… Cách hoàng cung mười dặm về tây, lẽ nào là ngay đây?”
Đan Hà lại chăm chú nìn một vật khác trên kệ sách, đó là một bọc vải đặt có vẻ tùy tiện, dù vẫn sạch sẽ gọn gàng, nhưng có thể nhìn ra là một vật cũ lâu năm, y dấn từng bước về phía ấy, chậm rãi nâng nó lên. Cơ Nị lập tức trông qua, trông thấy Đan Hà mở ra bọc vải cũ kỹ, bên trong mấy mảnh giáp sắt vẫn lấp lánh sáng, đó là một tấm áo.
Hoặc có thể nói là một tấm bố giáp, chỉ khảm mấy mảnh giáp sắt mỏng trước ngực áo, tác dụng trang trí nhiều hơn phòng ngự.
Đan Hà và Cơ Nhị nhất thời câm lặng.
Tấm áo này và trang phục tướng quân che mặt mặc trong bức họa giống hệt nhau.
Y từng là ai, hai vị thí chủ đã rõ hay chưa?” Vong Quy hòa thượng chắp tay trước ngực.
Cơ Nhị thấy vị hòa thường ấy thần thái trang nghiêm, dường nư lòng đang dâng lên một nỗi buồn thương nào đó, “À… thứ cho ta càn rỡ, đại sư năm ấy phải chăng từng là một thành viên của Hắc Kỳ quân?”
Tuy người ấy không trả lời, nhưng Cơ Nhị biết mình đoán đúng, lão hòa thượng này là mooth thành viên của Hắc Kỳ quân, vậy Nhậm Hoài Tô là ai, hẳn nhiên đã rất rõ rang. Đan Hà thoáng chau mày, “Thời Hắc Kỳ quân còn chinh chiến đã cách đây hơn sáu mươi năm, nếu Nhậm Hoài Tô thực sự là y, tại sao lại trẻ đến vậy? Trừ phi…”
“Trừ phi… trừ phi y tuyệt không phải người bình thường.” Cơ Nhị mỉm cười tiếp lời y.
Nhưng Đan Hà lại lắc đầu. “Y trẻ như vậy, đồng thời không có chút ấn tượng nào với chuyện năm xưa, một lòng tin rằng mình lớn lên ở Bích Phi tự, tóc đen cắt đứt rồi hồi sinh, quanh năm uống Long Tuyết Bích Huyết, thậm chí trong võ phòng rieng lại tồn tại một khố túy thần ngọc to như thế… Đại sư, khổ tâm bưng bít nhiều năm,gom góp nhiều vật phẩm trấn tà, chỉ để bảo vệ y không xảy ra biến hóa, có phải hay không?”
Vong Quy hòa thường không trả lời, “A di đà Phật.”
“Đan Hà, để bảo vệ y khỏi sự biến hóa nào?”
“Thi biến… hoặc quỷ biến…” Đan Hà chậm rãi đáp, “Y không phải là người, mà là thi mị.”
Cơ Nhị nắm chặt quyển trục, mi mắt khép hờ, “Năm xưa y đã gặp phải tai kiếp gì,đại tường quân che mặt lừng danh thiên hạ sao lại biến thành thi mị? Tiên hoàng dùng Túy Hoàng Ngọc trấn giủ y trong Bích Phi tự, không chỉ xuất phát từ lòng biết ơn, hẳn là có ý đồ khác?” Thoàng trầm ngâm chốc lát, y liếc nhìn Vong Quy hòa thượng, “Có liên quan gì đến điềm trời hay không?”
Vong Quy hòa thượng vẫn chắp tay, im lặng.
Cơ Nhị chậm chạp thả bước dạo một vòng xung quanh võ phòng, “Bản triều một lòng tin đạo quỷ thần, sáu mươi năm trước dựng nước, nghe đâu cũng có mọt vị đan nhân tinh thông thuật tiên tri, chẳng lẽ người này đã tính được điềm diệt thế vào ngay lúc đó… Điềm trời lần này, đan nhân đều nghĩ Nhậm Hoai Tô là Vạn Thánh Linh, nhưng thực ra y là thi mị, nếu đã là thi mị thì không có khả năng sở hữu thánh thể thuần khiết, vậy Vạn Thánh Linh mà người ta tiên đoán rốt cuộc là ai? Sao lại giống NHậm Hoài Tô đến vậy?” Cơ Nhị lại dạo thêm nử vòng, “Nếu như… điềm trời lần này đã thành hình vào sáu mươi năm trước, vậy ban đầu thánh thể rơi vào người Nhậm Hoài Tô, còn đan nhân thì… biến thành thi mị? Có thân xác không phải là người thì sẽ bất tử, thánh khí khoong thể chuyển thể sẽ chiếm giữ cơ thể Nhậm Hoài Tô lâu dái, và cũng bởi vì y không phải thánh thể thuần khiết, cho nên vĩnh viễn không thể trở thành vạn thánh linh. Hoài Tô không chết, nhân gian bất diệt?” Y ngước đôi mắt hơi xếch, hướng cái nhìn sáng rỡ về phía Vong Quy hòa thượng, “ Có phải như vậy không? Vong Quy đại sư.”
Vong Quy buông xuống một tiếng thở dài, dù không trả lời, nhưng tràn ngập nỗi thê lương.
Cơ Nhị biết mình suy đoán dù không trúng cũng không cách sự thật bao xa, bật cười ha hả, “Cho nên Bích Phi tự được dựng nên để duy trì trạng thái không sống không chết ấy của y, tiên hoàng trấn giữ y ở đây, để giang sơn thiên hạ được thiên thu vạn đại, đời đời bất diệt.”
“Cơ Nhị, trước đây có lẽ như vậy, nhưng hiện nay tình huống đã khác rồi.” Đan Hà đột nhiên xen lời, “Hoài Tô ở Bích Phi tự tu hành nhiều năm, quỷ khí gần như đã tan biến hẳn, chỉ cần y kiên định Phật tâm, y vẫn là vạn thánh linh, đó là nguyên nhân điềm diệt thế xuất hiện lần thứ hai.”
“Gì cơ?” Hàng máy dài tuấn mỹ của Cơ Nhị nhướn cao, “Vậy nghĩa là lần này y rời chùa, chọn việc giết vợ, không phải là sai lầm, mà cũng là việc phải làm? Thế nhưng…”
“Không sai, y phải tìm thấy phương pháp tự hủy thánh khí, ta không biêt tiền bối năm xủa đã dùng phương pháp nào biến y thành thi mị, nhưng hẳn là vô cùng tàn khốc…” Đan Hà thở dài, “Thi mị là thứ cực ác trên trần gian, tuyệt đối không thể để nó thức giấc, chỉ mong y tâm tư kiên định, có thể cưới nữ quỷ Cô Quang, sau đó giết vợ lập tội, diệt trừ thánh thể.”
“Ngộ nhỡ y thức tỉnh giữa chừng thì sao? Thánh thể không phải cũng đồng thời hủy diệt ư? Sao cách đó lại không dùng được?”
“Một khi thi mị thức tỉnh, như Hoài Tô… Một thi mị mạnh mẽ oai phong như tướng quân che mặt năm xưa, sở hữu cơ thể bất lão bất tử, dù nhân gian không diệt vong, cũng làm sao tránh khỏi tai kiếp?” Đan Hà thở dài, “Thi mị bất tử, sát sinh là thiên tính, nó có thể mở quỷ môn, khi ấy nhân gian có khác nào quỷ vực?”
“A di đà Phật.” Tấm áo pha lê của Cơ Nhị lấp lánh khi đứng bên cạnh Túy Hoàng Ngọc, “To chuyện rồi, to chuyện rồi.”
…
Giữa núi hoang, trăng đã nhạt màu.
Nhậm Hoài Tô tỉnh dậy, không mảy may biết chuyện hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt vừa rồi, vừa mở mắt đã gọi, “Cô Quang.”
“Cô Quang Cô Quang Cô Quang,” nàng lạnh lùng đáp lời, “Suốt ngày gọi gọi gọi, có gì hay mà gọi mãi?”
Y mở mắt, đống lửa hôm qua vẫn chưa lụi hẳn, có hai củ khoai đã vùi cín lăn loc trên đất, do Cô Quang ném vào lúc sáng sớm. Trước giờ chỉ có y lùng sục khắp nơi tìm thịt cho nàng, đây là lần đầu nàng chuẩn bị bữa cho y. Y vẫn không có phản ứng giừ đặc biệt như trước, chỉ nói cảm ơn, nhặt một củ khoai bẻ ra bắt đầu ăn.
Hôm đó mây âm u, không thấy mặt trời. Nàng ngắt một nhành cỏ dại, nhìn mũi giày y đăm chiêu, “Ngươi đói ư?”
Tay y khựng lại, nhắm hai mắt, “Không.”
“Vậy sao phải ăn?” Nàng hỏi.
“Con người đều phải ăn.” Y đáp rất nghiêm túc.
Nàng nín lặng, y không biết rằng y không cần “ăn”, dù vĩnh viễn không ăn cũng không bao giờ chết. Y ăn một cách điềm nhiên đơn giản như vậy, nếu vừa rồi nàng nhét Huyết Lưu Hà vào củ khoai, chỉ sợ y sẽ nuốt luôn mà không hề phát giác. Nhìn thần sắc bình thản của y, dường như có thể khiến người ta quên đi cảnh y giết chóc.
Y, chỉ cần không vấy máu, có lẽ sẽ vĩnh viễn như vậy.
Trăm năm ngàn năm về sau, khi những người y quen biết già đi chết đi, có lẽ y mới y thức được sự dị biệt của mình.
Còn nàng thì sao? Rôt cuộc nàng có là “người” hay không? Một trăm năm, một ngàn năm sau, nàng có “chết” không? Nếu nàng không chết, thì nhân gian hòa quỷ vực có gì không tốt? Sao nàng phải cứu thế? Sao nàng phải lo lắng sợ hãi hộ nhiều người không quen biết đến thế? Kẻ đang ở trước mặt nàng đây dù không phải con người, nhưng là kẻ đầu tiên đối tốt với nàng từ khi nàng ra đời.
Nàng liếc nhìn Nhậm Hoài Tô đang gói ghém hành lý, nếu người này dù trở nên tàn nhẫn hiếu sát vẫn đối tốt với nàng, vậy diệt thế cũng chẳng có gì là không tốt.
“Nhậm Hoài Tô,” nàng bỗng nói, “Hôm ấy ngươi nói: Trên thế gian đâu còn ai khác, chỉ có ngươi, chỉ có ta, nghĩa là sao?”
Y ngước lên kinh ngạc, nghiêm túc suy ngẫm rất lâu, “Ta từng nói thế?”
Nàng mỉm cười, quả nhiên là đã quên. Nầng phẩy tay, “Chúng ta đi tìm Vô Ái Hồn thôi.”
“Cô Quang, lấy được Cực Nhật Châu, quả nhiên tâm trạng cô tốt hơn nhiều.” Y vác hành lý trên lưng, hai con ngựa đã không biết đi đâu về đâu, vả lại y cũng không có ý định cưỡi ngựa.
Ô! Một thi mị cũng biết xem tâm trạng người khác có tốt hay không? Y biết tâm trạng là cái gì ư? Nàng liếc xéo y khinh khỉnh, “Ta muốn về phía Nam, ở đó có một nơi gọi là Vô Tâm cốc, trong Vô Tâm cốc có cỏ độc, trái của nó chính là Vô Ái Hồn.”
…
Ra khỏi Hoành Đoạn hỏa sơn, Nhậm Hoài Tô mua hai con ngựa khác, hai người chạy về nam, quãng đường từ Hoành Đoạn hỏa sơn đến Vô Tâm cốc ước chừng vạn dặm, dù có tuấn mã ngày chạy trăm dặm, cũng phải đi ròng rã mười ngày.
Nhưng hai người đi chưa tới hai ngày đã gặp phải phiền phức.
Trên đường từ Hoành Đoạn hỏa sơn đến Phổ Vân huyện có một con sông lớn chắn ngang, sông rất rộng và nước chảy xiết, không có cầu bắc qua, muốn sang sông chỉ có thể ngồi thuyền.
Bấy giờ trên thuyền có một ông lão râ tóc tua tủa đang đứng, hai tay cầm mái chèo, chắn bước hai người.
“Lục cô nương.” Giọng lão vang vọng mạnh mẽ, “Lão hủ tốn một năm ròng mới thăm dò được hành tung của cô, cô có còn nhớ lão hủ không?”
Lão hủ? Lục Cô Quang lạnh lùng nhìn lão già trên thuyền, “Không nhớ.”
Lão không nổi giận, điềm đạm nói, “Lão hủ là Hồng Đường.”
Nàng ngẫm nghĩ, “Hóa ra ông là người nhà Hồng Thế Phương? Cso chuyện gì?” Nàng ghìm cương ngựa, “Hồng gia bỏ cả năm trời tìm ta? Ta nhớ mình đâu có lấy mạng Hồng Thế Phương, không oán không thù, tìm ta làm gì?”
“Lão hủ phụng mệnh Hồng thiếu gia, nhất định phải đưa Lục cô nương trở về.” Hồng Đường vẫn ôn tồn, “Thiếu gia đối với cô nương là thật lòng, từ khi Lục cô nương rời đi, thiếu gia đổ bệnh nặng mấy lần, nhung nhớ khôn nguôi.”
“Nhung nhớ khôn nguôi?” Ý cười lạnh lẽo phủ đầy trên mặt nàng, “Nhung nhớ không nguôi? Câu này mà Hồng Thế Phương cũng nói ra miệng được? Y bệnh thì chết đi, liên quan gì đến ta?”
“Thiếu gia tương tư thành bệnh, không phải cô nương thì không ai cứu được.” Ngữ điệu Hồng Đường cứ đều đều bình thản, nói những câu như thế mà tuyệt không có ý bỡn cỡn.
“Tránh đường!” Lục Cô Quang không muốn tốn hơi thừa lời với lão, nắm chặt quạt quỷ trong tay, chỉ đợi lão tiếp tục cản đường, nàng sẽ lập tức lấy mạng lão.
“A di đà Phật.”
Bỗng nghe phật hiệu vọng tới, giữa dòng sông, một con thuyền khác thong thả ghé sang, có bị hòa thượng áo trắng đứng ở mũi thuyền, “ả ma đầu này sát nghiệt nặng nề, lún sâ trong ngõ quỷ, từ lâu đã không thể sánh với người thường. Hồng thí chủ đang độ thiếu niên, luận võ công, hay nhân phẩm đều là bậc nhất, gia học uyên bác, há lại sa vào nghiệt duyên thấp kém? Ma đầu này đã giết rất nhiều đệ tử nhà Phật, lại là hung thủ sát hại Ân Khánh đại sư, hôm nay Ma Đà nhất định phải hàng yêu trừ ma, tiêu diệt yêu nghiệt.”
Nàng liếc qua, con thuyền mới tới không chỉ chở mỗi Ma Đà, trên khoang còn đứng lố nhố khoảng chục vị nhân sĩ võ lâm lạ mặt, ai nấy thái độ hằng học, hẳn là kẻ thù của nàng. Nàng hành sự bất phân thiện ác, càng không húy kỵ gây thù chuốc oán, cũng lười phân biệt ai với ai, chỉ hừ lạnh một tiếng, “Những kẻ muốn hàng yêu trừ ma ta gặp nhiều rồi, các ngươi cùng xông lên đi.”
“Nếu Lục cô nương không đi cùng lão hủ, chỉ sợ Hồng gia cũng không cản nổi bước đường trừ ma của Ma Đà đại sư.” Lão già trên con thuyền kia lại từ tốn khuyên nhủ.