Chiếc đồng hồ cũ kỹ trong phòng vừa điểm mười hai giờ trưa cũng là lúc mà James Starr cùng hai cha con nhà Simon rời khỏi căn nhà gỗ.
Ánh sáng rọi qua các lỗ thông hơi và chiếu đến đường hầm. Chiếc đèn của Harry giờ đây chưa dùng đến nhưng nó sẽ được dùng đến ngay sau đó, bởi vì người đốc công già còn phải đưa ông kỹ sư tới đầu bên kia của hố Dochart.
Sau khi vượt qua một khoảng cách chừng hai dặm của đường hầm chính, ba nhà thám hiểm - vâng, ta sẽ thấy sau này rằng đây chính là một cuộc thám hiểm - đi tới miệng một đường hầm hẹp. Nơi này trông giống như đại sảnh của một ngôi nhà thờ với mái vòm tựa trên những cây gỗ chống có phủ rêu. Đường hầm chính này lượn dưới dòng sông Forth ở trên mặt đất, với độ sâu đến 500 mét.
Vì ông James Starr chưa quen lắm với những đường lối quanh co rắc rối trong hầm nên Simon Ford phải đối chiếu nó với những địa hình địa vật trên mặt đất.
James Starr và Simon Ford vừa đi vừa trò chuyện, ở phía trước, Harry rọi đèn để soi lối đi. Thỉnh thoảng anh lại đưa chùm tia sáng chói lòa chiếu vào những ngóc ngách bên đường như muốn phát hiện ra một bóng hình đáng ngờ nào.
- Chúng ta còn đi xa không, ông Simon? - Người kỹ sư hỏi.
- Còn chừng vài trăm mét nữa, thưa ông James! Ngày xưa chúng tôi vượt qua quãng đường này nhờ xe goòng kéo bằng máy hơi nước! Nhưng thời đó xa rồi!
- Như vậy là ta sẽ đi tới đầu kia của vỉa than cuối cùng ư? - James Starr hỏi.
- Vâng! Mà tôi thấy ông vẫn còn quen thuộc đường lối trong mỏ lắm thì phải.
- Nhưng mà, ông Simon này, - Ông kỹ sư tiếp lời - nếu tôi không lầm thì ta không thể nào đi xa hơn?
- Đúng vậy, thưa ông James. Đó chính là nơi những chiếc cuốc chim của chúng ta đã moi tới hòn than cuối cùng của vỉa! Tôi hãy còn nhớ như in cái ngày hôm ấy! Chính tôi là người bổ nhát cuốc cuối cùng đó và nó dội vào ngực tôi còn mạnh hơn là dội vào vách đá!
Sự nghiêm trọng trong giọng nói của người đốc công già làm ông kỹ sư xúc động, ông cũng chia sẻ cảm giác đó với người thợ già. Đây chính là nỗi đau của người thủy thủ khi phải rời bỏ con tàu của mình, đấy chính là nỗi buồn của người nông dân khi nhìn căn nhà của tổ tiên đang bốc cháy! James siết chặt bàn tay của Simon. Và đến lượt mình, ông đốc công già cũng nắm lấy bàn tay của người kỹ sư và nói :
- Ngày ấy, cả tôi lẫn ông, chúng ta đều lầm lẫn - Ông nói - Đúng thế, chúng ta đã lầm! Mỏ than ngày ấy không chết. Nó không phải là cái xác chết mà những người thợ mỏ đã bỏ lại, và tôi cam đoan với ông, ông kỹ sư ạ, rằng trái tim của nó vẫn còn đập thấy!
- Vậy thì ông hãy nói đi, ông Simon! Có phải ông đã tìm ra một vỉa than mới không? - Ông kỹ sư kêu to lên vì hình như ông không còn tự chủ được nữa - Tôi biết ngay mà! Lá thư ông viết không thể nói lên điều gì khác!
- Xin ông hãy nghe tôi, thưa ông James - Simon Ford đáp - Không phải là tôi đã tìm thấy một vỉa than...
- Thế thì là cái gì?
- Đó mới chỉ là những bằng chứng vật chất chứng minh cho sự tồn tại của vỉa than đó.
- Và bằng chứng đó đâu?
- Ông có công nhận với tôi là chỉ có khí than bốc ra khi nào trong lòng đất có than không?
- Đúng thế! - Ông kỹ sư trả lời - Không có than làm sao có khí than được!
- Như là không có lửa, sao có khói!
- Và ông đã tìm ra sự có mặt của khí than?
- Một người thợ mỏ già như tôi không thể nào lầm được - Simon Ford đáp - Tôi nhận ra ngay kẻ thù cũ của mình, đó là khí than!
- Nhưng nếu nó là một thứ khí khác thì sao? - James Starr nói - Khí than không có màu sắc, không mùi vị! Nó chỉ được phát hiện ra khi nào có vụ nổ!..
- Thưa ông, - Simon Ford đáp - ông có muốn nghe tôi kể điều tôi đã làm... và cách thức tôi đã làm... Xin phép ông cho tôi được nói dài dòng một chút.
James Starr hiểu rất rõ người đốc công già và cách tốt nhất là cứ nghe ông ta nói :
- Theo ông James, - Simon Ford tiếp lời - từ mười năm qua, không có ngày nào mà hai cha con tôi không nghĩ tới cách trả lại cho vùng mỏ này cái sự thịnh vượng ngày xưa. Vâng, đúng thế, chúng tôi không bỏ qua một ngày nào! Nếu ở đây còn một vỉa than nào thì nhất định chúng tôi sẽ khám phá ra. Và đây là điều mà Harry đã quan sát thấy vài lần trong những lần nó dạo chơi về phía tây của mỏ. Cháu đã trông thấy những ánh lửa thoắt hiện ra rồi thoắt biến đi tại những tảng đá phiến trên thành mỏ, ở nơi tận cùng của hố mỏ cũ. Vì lý do gì mà lại có những ánh lửa đó chứ? Tôi chưa thể giải thích được ngay. Nhưng nó chỉ có khi nào có khí than cháy, mà nơi nào có khí than, ắt phải có một vỉa than mới.
- Thế những ánh lửa đó có gây ra vụ nổ nào không? - Ông kỹ sư vội hỏi.
- Có chứ, những vụ nổ lẻ tẻ, - Simon Ford đáp - nó giống như những vụ nổ nhỏ mà tôi đã từng gây ra, mỗi khi tôi muốn phát hiện ra khí than. À, mà ông có nhớ ngày xưa, trước khi ông Davy phát minh ra chiếc đèn an toàn, người ta làm thế nào để ngăn ngừa các vụ nổ ở mỏ không?
- Nhớ chứ - James Starr đáp - Ý ông muốn nhắc lại nhân vật mang tên “Kẻ tội đồ” chứ gì? Nhưng chuyện này tôi cũng chỉ nghe nói mà chưa bao giờ được nhìn thấy tận mắt cả.
- Đúng thế, thưa ông James, ông còn quá trẻ lúc ấy, dù bây giờ ông đã năm mươi lăm tuổi, ông không thấy là phải. Còn tôi, vì tôi già hơn ông cả mười tuổi nên chính mắt tôi đã nhìn thấy “Kẻ tội đồ” cuối cùng của vùng mỏ. Người ta đặt ra cái tên đó vì người này luôn mặc chiếc áo thầy tu rộng thùng thình. Thực ra phải gọi người này là người châm lửa mới đúng. Vì vào thời đó, người ta chưa có cách nào khác để trừ bỏ cái thứ khí quái ác đó ngoài cách đốt nó ngay, trước khi nó tích tụ lại thành một khối lớn mà khi nổ sẽ rất nguy hại. Vì thế nên “Kẻ tội đồ” là một người mang mặt nạ, đầu bao kín trong cái mũ chụp, toàn thân mặc áo choàng kín, anh ta bò trên mặt đất để có khí trời trong lành mà hít thở. Tay phải cầm một bó đuốc đưa lên cao khỏi đầu. Bằng cách ấy, nếu trong mỏ có khí than thì nó sẽ bị đốt cháy ngay trước khi tích tụ lại. Nhờ đó mà khí than vẫn cháy nổ nhưng lẻ tẻ và không gây nguy hại. Cũng đôi khi “Kẻ tội đồ” gặp đám khí than khá lớn thì vụ nổ sẽ có thể làm anh ta chết ngay tại chỗ; và nếu điều này xảy đến lập tức sẽ có người khác thế chỗ. Mãi đến khi chiếc đèn Davy được dùng rộng rãi trong các mỏ than thì cách làm trên mới chấm dứt.
Những điều người đốc công già kể về “Kẻ tội đồ” là rất chính xác. Đó là cách người ta đã làm trước đây trong các khu mỏ với mục đích làm cho không khí trong hầm mỏ được trong lành.
Khí than, hay còn gọi là khí của đầm lầy, rất độc cho sự hô hấp. Người thợ mỏ không thể nào sống trong một môi trường dày đặc thứ khí độc hại ấy được - cũng như con người ta không thể nào sống trong nơi có đầy khí đốt. Cũng cần biết thêm là hỗn hợp khí than sẽ phát nổ chừng nào không khí xâm nhập vào nó đạt tới tỷ lệ tám phần trăm, thậm chí năm phần trăm. Sự cháy của hỗn họp đó một khi xảy ra, luôn luôn kèm theo một vụ nổ và kèm theo đó là biết bao tai hại khác.
Chính để ngăn ngừa tai họa này mà chiếc đèn Davy đã ra đời, trong đó ngọn lửa phát sáng được bao bọc bởi một cái ống bằng sợi kim loại. Cái ống lưới ấy sẽ ngăn không cho ngọn lửa lan ra bên ngoài. Chiếc đèn đó đã được cải tiến đến hai chục lần khi đèn bị vỡ, lửa sẽ tự tắt.
Vừa đi đường, Simon Ford vừa nói cho ông kỹ sư biết về những gì mình đã làm để đạt tới mục đích, và vì sao mà ông lại đoan chắc rằng ở trong hành lang cuối của hố mỏ có khí than bốc ra, và bằng cách nào mà ông đã tự mình gây ra mấy vụ nổ nhỏ lẻ tẻ, rằng những vụ nổ nhỏ đó chứng minh chắc chắn sự hiện diện của khí than một cách liên tục.
Sau khi rời căn nhà gỗ được khoảng một giờ, James Starr cùng hai bạn đồng hành vượt qua một đoạn đường dài hơn hai cây số. Về phần ông kỹ sư, vì quá phấn khích bởi một triển vọng tốt đẹp, nên ông không lưu tâm đến đường xa. Ông suy nghĩ về những điều mà người thợ mỏ già vừa nói. Ông nhẩm tính, cân nhắc những luận điểm mà người thợ già vừa nêu, chúng rất phù hợp với những lý thuyết của ông. Cũng như những thợ già, ông kỹ sư tin tưởng rằng hiện tượng các khí than tỏa liên tục cho thấy một cách chắc chắn về sự tồn tại của một vỉa than mới. Tuy nhiên, không biết đây chỉ là một lớp than mỏng có trữ lượng không đáng kể, hay là cả một mỏ than có diện tích rộng lớn? Đấy mới là một câu hỏi lớn.
Harry, nãy giờ vẫn đi trước hai ông già, bỗng nhiên dừng lại đột ngột.
- Chúng ta đến nơi rồi! - Người thợ già kêu lên - Ơn Chúa, cuối cùng thì ông cũng tới được chỗ này. Thưa ông James, và chúng ta sẽ biết được sự thật.
Ở chỗ ba người đứng lúc này, phần cuối của đường hầm loe ra thành một cái hang tối. Không có giếng mỏ nào trước kia đã đào xuống chỗ này; và như vậy hành lang tối này không có đường thông lên mặt đất của quện Stirling. James Starr xúc động hiện rõ trên nét mặt, chăm chú quan sát nơi đang đứng.
Trên vách căn hầm này, còn nhìn thấy rõ dấu vết những nhát cuốc cuối cùng và cả mấy lỗ hổng dùng để nổ mìn trước đây, vào giai đoạn cuối của thời kỳ khai thác. Chính tại nơi này, người ta đã moi đến tảng than cuối cùng của hố mỏ Dochart.
- Chính ở chỗ này đây, thưa ông James, - Simon Ford vừa nói vừa đưa chiếc cuốc chim lên - ta sẽ tấn công vào lòng đất tại điểm này, bởi vì sau bức tường đá kia, đến một độ sâu nào đó, chắc chắn sẽ có một vỉa than mới mà tôi đoan chắc là có thật.
- Và cũng chính trên mặt tường đá này, - James Starr hỏi - mà ông thấy sự hiện diện của khí than?
- Chính nơi đây, thưa ông James, - Simon Ford đáp - và chỉ cần để ngọn đèn lại gần, ta có thể đốt cháy chúng ở chỗ tiếp giáp giữa hai lớp đá. Cháu Harry cũng đã từng làm thế.
- Ở độ cao bao nhiêu? - James Starr hỏi.
- Cách mặt đất chừng ba mét. - Harry đáp.
James Starr ngồi xuống một phiến đá. Có thể nói, sau khi đã hít không khí trong hang, ông nhìn hai cha con người thợ mỏ, tựa như còn nghi ngờ những lời nói của họ, cho dù chúng có vẻ đã được khẳng định.
Điều làm James Starr lo ngại bây giờ, không phải là trong không khí ở đây có quá nhiều khí than, mà ông chỉ sợ nó có quá ít, hoặc thậm chí không có chút nào.
- Họ có lầm không nhỉ - Ông lẩm bẩm - Không thể được! Đấy là những con người hiểu biết rất rõ công việc mà! Nhưng...
Ông chờ đợi, với sự lo lắng đặc biệt, sự xuất hiện hiện tượng mà Simon Ford đã nói. Đúng vào lúc ấy, điều mà ông nghi ngại, tức là sự thiếu vắng cái mùi đặc trung của khí than, cũng đã được Harry phát hiện ra, bởi vì anh ta kêu to lên, giọng lạc đi.
- Cha ơi, hình như hôm nay khí than không còn thoát ra từ những khe đá nữa!
- Thật thế sao!... - Ông thợ già kêu lên.
Nói đoạn, Simon Ford mím chặt môi, hít mạnh nhiều lần làn không khí xung quanh. Đột ngột ông ra lệnh cho con trai :
- Đưa cái đèn của con đây! - Ông nói.
Simon Ford bồn chồn cầm lấy chiếc đèn. Ông tháo cái ống lưới bằng sợi kim loại ra để cho ngọn lửa cháy trong không khí.
Trái với điều mà mọi người đang chờ đợi, không có tiếng nổ nào phát ra, và nghiêm trọng hơn nữa là, ngay cả những tiếng lách tách chứng tỏ có rất ít khí than, cũng đã không nghe thấy.
Simon Ford giằng lấy cây gậy trong tay Harry, cũng mắc ngọn đèn vào đầu gậy, giơ lên cao, tới những chỗ mà khí than, do có tỷ trọng nhẹ, có thể tích tụ lại.
Nhưng ánh sáng của cây đèn cũng không tài nào phát hiện ra dấu vết của đám khí than.
- Ông thử soi lên vách đá xem! - Ông kỹ sư nói.
- Vâng. - Simon Ford đáp và soi ngọn đèn lên vách đá ngay ở những chỗ mà hôm trước hai cha con ông còn phát hiện sự thoát của khí than.
Cánh tay ông già run lên trong lúc cố sức đưa ngọn đèn dọc theo chỗ tiếp giáp giữa các lớp đá phiến.
- Con đỡ tay cho cha một chút. - Ông nói.
Harry cầm lấy cây gậy và lần lượt soi ngọn đèn vào những nơi tiếp giáp giữa các lớp đá phiến, nhưng anh lắc đầu vì tai anh không hề phát hiện ra cái tiếng sè sè nho nhỏ rất đặc biệt của khí than khi nó xì ra.
Như vậy là sự bốc cháy của khí than đã không xảy ra nữa. Và điều đó đã chứng tỏ một điều là chẳng còn lấy một phân tử khí nào xì ra nữa.
- Không còn gì nữa! - Simon Ford kêu thốt lên, cùng lúc nắm tay ông đấm mạnh vào không khí biểu lộ sự giận dữ nhiều hơn là thất vọng.
Harry bỗng thốt ra một tiếng kêu.
- Có chuyện gì thế? - James Starr giật giọng hỏi.
- Có ai đó đã đem xi-măng bịt kín những khe hở trên đá phiến.
- Con nói thật đấy chứ? - Ông già lớn tiếng hỏi.
- Cha hãy xem đây này!
Đúng là Harry không lầm. Những vết trét, kín các khe hở hiện lên rõ ràng dưới ánh đèn. Một vết trét vừa mới được thực hiện xong bằng vôi, để lại một vệt trắng dài, đã được ai đó ngụy trang bằng một lớp bụi than.
- Lại là hắn! - Harry kêu lên - Chỉ có thể là hắn, chứ không ai khác!
- Chính hắn! - James Starr nhắc lại.
- Vâng, đúng thế! - Chàng thanh niên đáp - Đây đúng là nhân vật bí ẩn đã lẩn khuất xung quanh nhà mình. Đúng là nhân vật mà hàng trăm lần đã rình mò không sao bắt gặp được hắn cũng chính là tác giả của bức thư viết nhằm ngăn cản ông kỹ sư, không cho ông tiếp xúc với cha cháu và hắn cũng chính là kẻ đã ném đá trong giếng mỏ Yarow! Không nghi ngờ gì nữa! Tất cả là do bàn tay của người này mà ra cả.
Harry nói những lời trên với vẻ cuồng nhiệt với một lòng tin đã tác động hoàn toàn vào tâm trí ông kỹ sư. Về phần người đốc công già thì cũng chẳng cần thuyết phục ông thêm nữa. Thực tế là họ đang đứng trước một sự việc không thể chối cãi được: các khe hở, từ đó đám khí than có thể thoát ra nay đã bị bịt kín.
- Cầm chiếc cuốc chim lại đây, Harry - Simon Ford ra lệnh - Con hãy leo lên lưng cha! Ta vẫn còn đủ vững vàng để đỡ con!
Harry vâng lời. Cha anh đứng chống tay vào bờ đá. Harry leo lên vai ông, như vậy chiếc cuốc chim trong tay anh có thể với tới vết trét trên thành đá. Đoạn, anh hăm hở bổ vào chỗ bị bít cho nó bung ra.
Ngay tức thì một tiếng xì nhẹ vang lên giống như tiếng phát ra khi mở một chai sâm banh. Tiếng đó, trong các hầm mỏ than thường gọi là tiếng “pốp”.
Harry cầm lấy chiếc đèn và giơ nó vào gần khe hở.
Một tiếng nổ lạch tạch vang lên, và một ngọn lừa đỏ nhỏ, xung quanh viền xanh, lóe ra trên vách đá hệt như ngọn lửa ma trơi vậy.
Harry nhảy vội xuống đất trong khi đó người đốc công già không kìm nổi niềm vui sướng, nắm lấy tay ông kỹ sư mà reo lên :
- Hoan hô! Hoan hô! Ông James ơi! Khí than đã cháy. Vậy nơi này chắc chắn có một vỉa than mới!
Chiếc đồng hồ cũ kỹ trong phòng vừa điểm mười hai giờ trưa cũng là lúc mà James Starr cùng hai cha con nhà Simon rời khỏi căn nhà gỗ.
Ánh sáng rọi qua các lỗ thông hơi và chiếu đến đường hầm. Chiếc đèn của Harry giờ đây chưa dùng đến nhưng nó sẽ được dùng đến ngay sau đó, bởi vì người đốc công già còn phải đưa ông kỹ sư tới đầu bên kia của hố Dochart.
Sau khi vượt qua một khoảng cách chừng hai dặm của đường hầm chính, ba nhà thám hiểm - vâng, ta sẽ thấy sau này rằng đây chính là một cuộc thám hiểm - đi tới miệng một đường hầm hẹp. Nơi này trông giống như đại sảnh của một ngôi nhà thờ với mái vòm tựa trên những cây gỗ chống có phủ rêu. Đường hầm chính này lượn dưới dòng sông Forth ở trên mặt đất, với độ sâu đến mét.
Vì ông James Starr chưa quen lắm với những đường lối quanh co rắc rối trong hầm nên Simon Ford phải đối chiếu nó với những địa hình địa vật trên mặt đất.
James Starr và Simon Ford vừa đi vừa trò chuyện, ở phía trước, Harry rọi đèn để soi lối đi. Thỉnh thoảng anh lại đưa chùm tia sáng chói lòa chiếu vào những ngóc ngách bên đường như muốn phát hiện ra một bóng hình đáng ngờ nào.
- Chúng ta còn đi xa không, ông Simon? - Người kỹ sư hỏi.
- Còn chừng vài trăm mét nữa, thưa ông James! Ngày xưa chúng tôi vượt qua quãng đường này nhờ xe goòng kéo bằng máy hơi nước! Nhưng thời đó xa rồi!
- Như vậy là ta sẽ đi tới đầu kia của vỉa than cuối cùng ư? - James Starr hỏi.
- Vâng! Mà tôi thấy ông vẫn còn quen thuộc đường lối trong mỏ lắm thì phải.
- Nhưng mà, ông Simon này, - Ông kỹ sư tiếp lời - nếu tôi không lầm thì ta không thể nào đi xa hơn?
- Đúng vậy, thưa ông James. Đó chính là nơi những chiếc cuốc chim của chúng ta đã moi tới hòn than cuối cùng của vỉa! Tôi hãy còn nhớ như in cái ngày hôm ấy! Chính tôi là người bổ nhát cuốc cuối cùng đó và nó dội vào ngực tôi còn mạnh hơn là dội vào vách đá!
Sự nghiêm trọng trong giọng nói của người đốc công già làm ông kỹ sư xúc động, ông cũng chia sẻ cảm giác đó với người thợ già. Đây chính là nỗi đau của người thủy thủ khi phải rời bỏ con tàu của mình, đấy chính là nỗi buồn của người nông dân khi nhìn căn nhà của tổ tiên đang bốc cháy! James siết chặt bàn tay của Simon. Và đến lượt mình, ông đốc công già cũng nắm lấy bàn tay của người kỹ sư và nói :
- Ngày ấy, cả tôi lẫn ông, chúng ta đều lầm lẫn - Ông nói - Đúng thế, chúng ta đã lầm! Mỏ than ngày ấy không chết. Nó không phải là cái xác chết mà những người thợ mỏ đã bỏ lại, và tôi cam đoan với ông, ông kỹ sư ạ, rằng trái tim của nó vẫn còn đập thấy!
- Vậy thì ông hãy nói đi, ông Simon! Có phải ông đã tìm ra một vỉa than mới không? - Ông kỹ sư kêu to lên vì hình như ông không còn tự chủ được nữa - Tôi biết ngay mà! Lá thư ông viết không thể nói lên điều gì khác!
- Xin ông hãy nghe tôi, thưa ông James - Simon Ford đáp - Không phải là tôi đã tìm thấy một vỉa than...
- Thế thì là cái gì?
- Đó mới chỉ là những bằng chứng vật chất chứng minh cho sự tồn tại của vỉa than đó.
- Và bằng chứng đó đâu?
- Ông có công nhận với tôi là chỉ có khí than bốc ra khi nào trong lòng đất có than không?
- Đúng thế! - Ông kỹ sư trả lời - Không có than làm sao có khí than được!
- Như là không có lửa, sao có khói!
- Và ông đã tìm ra sự có mặt của khí than?
- Một người thợ mỏ già như tôi không thể nào lầm được - Simon Ford đáp - Tôi nhận ra ngay kẻ thù cũ của mình, đó là khí than!
- Nhưng nếu nó là một thứ khí khác thì sao? - James Starr nói - Khí than không có màu sắc, không mùi vị! Nó chỉ được phát hiện ra khi nào có vụ nổ!..
- Thưa ông, - Simon Ford đáp - ông có muốn nghe tôi kể điều tôi đã làm... và cách thức tôi đã làm... Xin phép ông cho tôi được nói dài dòng một chút.
James Starr hiểu rất rõ người đốc công già và cách tốt nhất là cứ nghe ông ta nói :
- Theo ông James, - Simon Ford tiếp lời - từ mười năm qua, không có ngày nào mà hai cha con tôi không nghĩ tới cách trả lại cho vùng mỏ này cái sự thịnh vượng ngày xưa. Vâng, đúng thế, chúng tôi không bỏ qua một ngày nào! Nếu ở đây còn một vỉa than nào thì nhất định chúng tôi sẽ khám phá ra. Và đây là điều mà Harry đã quan sát thấy vài lần trong những lần nó dạo chơi về phía tây của mỏ. Cháu đã trông thấy những ánh lửa thoắt hiện ra rồi thoắt biến đi tại những tảng đá phiến trên thành mỏ, ở nơi tận cùng của hố mỏ cũ. Vì lý do gì mà lại có những ánh lửa đó chứ? Tôi chưa thể giải thích được ngay. Nhưng nó chỉ có khi nào có khí than cháy, mà nơi nào có khí than, ắt phải có một vỉa than mới.
- Thế những ánh lửa đó có gây ra vụ nổ nào không? - Ông kỹ sư vội hỏi.
- Có chứ, những vụ nổ lẻ tẻ, - Simon Ford đáp - nó giống như những vụ nổ nhỏ mà tôi đã từng gây ra, mỗi khi tôi muốn phát hiện ra khí than. À, mà ông có nhớ ngày xưa, trước khi ông Davy phát minh ra chiếc đèn an toàn, người ta làm thế nào để ngăn ngừa các vụ nổ ở mỏ không?
- Nhớ chứ - James Starr đáp - Ý ông muốn nhắc lại nhân vật mang tên “Kẻ tội đồ” chứ gì? Nhưng chuyện này tôi cũng chỉ nghe nói mà chưa bao giờ được nhìn thấy tận mắt cả.
- Đúng thế, thưa ông James, ông còn quá trẻ lúc ấy, dù bây giờ ông đã năm mươi lăm tuổi, ông không thấy là phải. Còn tôi, vì tôi già hơn ông cả mười tuổi nên chính mắt tôi đã nhìn thấy “Kẻ tội đồ” cuối cùng của vùng mỏ. Người ta đặt ra cái tên đó vì người này luôn mặc chiếc áo thầy tu rộng thùng thình. Thực ra phải gọi người này là người châm lửa mới đúng. Vì vào thời đó, người ta chưa có cách nào khác để trừ bỏ cái thứ khí quái ác đó ngoài cách đốt nó ngay, trước khi nó tích tụ lại thành một khối lớn mà khi nổ sẽ rất nguy hại. Vì thế nên “Kẻ tội đồ” là một người mang mặt nạ, đầu bao kín trong cái mũ chụp, toàn thân mặc áo choàng kín, anh ta bò trên mặt đất để có khí trời trong lành mà hít thở. Tay phải cầm một bó đuốc đưa lên cao khỏi đầu. Bằng cách ấy, nếu trong mỏ có khí than thì nó sẽ bị đốt cháy ngay trước khi tích tụ lại. Nhờ đó mà khí than vẫn cháy nổ nhưng lẻ tẻ và không gây nguy hại. Cũng đôi khi “Kẻ tội đồ” gặp đám khí than khá lớn thì vụ nổ sẽ có thể làm anh ta chết ngay tại chỗ; và nếu điều này xảy đến lập tức sẽ có người khác thế chỗ. Mãi đến khi chiếc đèn Davy được dùng rộng rãi trong các mỏ than thì cách làm trên mới chấm dứt.
Những điều người đốc công già kể về “Kẻ tội đồ” là rất chính xác. Đó là cách người ta đã làm trước đây trong các khu mỏ với mục đích làm cho không khí trong hầm mỏ được trong lành.
Khí than, hay còn gọi là khí của đầm lầy, rất độc cho sự hô hấp. Người thợ mỏ không thể nào sống trong một môi trường dày đặc thứ khí độc hại ấy được - cũng như con người ta không thể nào sống trong nơi có đầy khí đốt. Cũng cần biết thêm là hỗn hợp khí than sẽ phát nổ chừng nào không khí xâm nhập vào nó đạt tới tỷ lệ tám phần trăm, thậm chí năm phần trăm. Sự cháy của hỗn họp đó một khi xảy ra, luôn luôn kèm theo một vụ nổ và kèm theo đó là biết bao tai hại khác.
Chính để ngăn ngừa tai họa này mà chiếc đèn Davy đã ra đời, trong đó ngọn lửa phát sáng được bao bọc bởi một cái ống bằng sợi kim loại. Cái ống lưới ấy sẽ ngăn không cho ngọn lửa lan ra bên ngoài. Chiếc đèn đó đã được cải tiến đến hai chục lần khi đèn bị vỡ, lửa sẽ tự tắt.
Vừa đi đường, Simon Ford vừa nói cho ông kỹ sư biết về những gì mình đã làm để đạt tới mục đích, và vì sao mà ông lại đoan chắc rằng ở trong hành lang cuối của hố mỏ có khí than bốc ra, và bằng cách nào mà ông đã tự mình gây ra mấy vụ nổ nhỏ lẻ tẻ, rằng những vụ nổ nhỏ đó chứng minh chắc chắn sự hiện diện của khí than một cách liên tục.
Sau khi rời căn nhà gỗ được khoảng một giờ, James Starr cùng hai bạn đồng hành vượt qua một đoạn đường dài hơn hai cây số. Về phần ông kỹ sư, vì quá phấn khích bởi một triển vọng tốt đẹp, nên ông không lưu tâm đến đường xa. Ông suy nghĩ về những điều mà người thợ mỏ già vừa nói. Ông nhẩm tính, cân nhắc những luận điểm mà người thợ già vừa nêu, chúng rất phù hợp với những lý thuyết của ông. Cũng như những thợ già, ông kỹ sư tin tưởng rằng hiện tượng các khí than tỏa liên tục cho thấy một cách chắc chắn về sự tồn tại của một vỉa than mới. Tuy nhiên, không biết đây chỉ là một lớp than mỏng có trữ lượng không đáng kể, hay là cả một mỏ than có diện tích rộng lớn? Đấy mới là một câu hỏi lớn.
Harry, nãy giờ vẫn đi trước hai ông già, bỗng nhiên dừng lại đột ngột.
- Chúng ta đến nơi rồi! - Người thợ già kêu lên - Ơn Chúa, cuối cùng thì ông cũng tới được chỗ này. Thưa ông James, và chúng ta sẽ biết được sự thật.
Ở chỗ ba người đứng lúc này, phần cuối của đường hầm loe ra thành một cái hang tối. Không có giếng mỏ nào trước kia đã đào xuống chỗ này; và như vậy hành lang tối này không có đường thông lên mặt đất của quện Stirling. James Starr xúc động hiện rõ trên nét mặt, chăm chú quan sát nơi đang đứng.
Trên vách căn hầm này, còn nhìn thấy rõ dấu vết những nhát cuốc cuối cùng và cả mấy lỗ hổng dùng để nổ mìn trước đây, vào giai đoạn cuối của thời kỳ khai thác. Chính tại nơi này, người ta đã moi đến tảng than cuối cùng của hố mỏ Dochart.
- Chính ở chỗ này đây, thưa ông James, - Simon Ford vừa nói vừa đưa chiếc cuốc chim lên - ta sẽ tấn công vào lòng đất tại điểm này, bởi vì sau bức tường đá kia, đến một độ sâu nào đó, chắc chắn sẽ có một vỉa than mới mà tôi đoan chắc là có thật.
- Và cũng chính trên mặt tường đá này, - James Starr hỏi - mà ông thấy sự hiện diện của khí than?
- Chính nơi đây, thưa ông James, - Simon Ford đáp - và chỉ cần để ngọn đèn lại gần, ta có thể đốt cháy chúng ở chỗ tiếp giáp giữa hai lớp đá. Cháu Harry cũng đã từng làm thế.
- Ở độ cao bao nhiêu? - James Starr hỏi.
- Cách mặt đất chừng ba mét. - Harry đáp.
James Starr ngồi xuống một phiến đá. Có thể nói, sau khi đã hít không khí trong hang, ông nhìn hai cha con người thợ mỏ, tựa như còn nghi ngờ những lời nói của họ, cho dù chúng có vẻ đã được khẳng định.
Điều làm James Starr lo ngại bây giờ, không phải là trong không khí ở đây có quá nhiều khí than, mà ông chỉ sợ nó có quá ít, hoặc thậm chí không có chút nào.
- Họ có lầm không nhỉ - Ông lẩm bẩm - Không thể được! Đấy là những con người hiểu biết rất rõ công việc mà! Nhưng...
Ông chờ đợi, với sự lo lắng đặc biệt, sự xuất hiện hiện tượng mà Simon Ford đã nói. Đúng vào lúc ấy, điều mà ông nghi ngại, tức là sự thiếu vắng cái mùi đặc trung của khí than, cũng đã được Harry phát hiện ra, bởi vì anh ta kêu to lên, giọng lạc đi.
- Cha ơi, hình như hôm nay khí than không còn thoát ra từ những khe đá nữa!
- Thật thế sao!... - Ông thợ già kêu lên.
Nói đoạn, Simon Ford mím chặt môi, hít mạnh nhiều lần làn không khí xung quanh. Đột ngột ông ra lệnh cho con trai :
- Đưa cái đèn của con đây! - Ông nói.
Simon Ford bồn chồn cầm lấy chiếc đèn. Ông tháo cái ống lưới bằng sợi kim loại ra để cho ngọn lửa cháy trong không khí.
Trái với điều mà mọi người đang chờ đợi, không có tiếng nổ nào phát ra, và nghiêm trọng hơn nữa là, ngay cả những tiếng lách tách chứng tỏ có rất ít khí than, cũng đã không nghe thấy.
Simon Ford giằng lấy cây gậy trong tay Harry, cũng mắc ngọn đèn vào đầu gậy, giơ lên cao, tới những chỗ mà khí than, do có tỷ trọng nhẹ, có thể tích tụ lại.
Nhưng ánh sáng của cây đèn cũng không tài nào phát hiện ra dấu vết của đám khí than.
- Ông thử soi lên vách đá xem! - Ông kỹ sư nói.
- Vâng. - Simon Ford đáp và soi ngọn đèn lên vách đá ngay ở những chỗ mà hôm trước hai cha con ông còn phát hiện sự thoát của khí than.
Cánh tay ông già run lên trong lúc cố sức đưa ngọn đèn dọc theo chỗ tiếp giáp giữa các lớp đá phiến.
- Con đỡ tay cho cha một chút. - Ông nói.
Harry cầm lấy cây gậy và lần lượt soi ngọn đèn vào những nơi tiếp giáp giữa các lớp đá phiến, nhưng anh lắc đầu vì tai anh không hề phát hiện ra cái tiếng sè sè nho nhỏ rất đặc biệt của khí than khi nó xì ra.
Như vậy là sự bốc cháy của khí than đã không xảy ra nữa. Và điều đó đã chứng tỏ một điều là chẳng còn lấy một phân tử khí nào xì ra nữa.
- Không còn gì nữa! - Simon Ford kêu thốt lên, cùng lúc nắm tay ông đấm mạnh vào không khí biểu lộ sự giận dữ nhiều hơn là thất vọng.
Harry bỗng thốt ra một tiếng kêu.
- Có chuyện gì thế? - James Starr giật giọng hỏi.
- Có ai đó đã đem xi-măng bịt kín những khe hở trên đá phiến.
- Con nói thật đấy chứ? - Ông già lớn tiếng hỏi.
- Cha hãy xem đây này!
Đúng là Harry không lầm. Những vết trét, kín các khe hở hiện lên rõ ràng dưới ánh đèn. Một vết trét vừa mới được thực hiện xong bằng vôi, để lại một vệt trắng dài, đã được ai đó ngụy trang bằng một lớp bụi than.
- Lại là hắn! - Harry kêu lên - Chỉ có thể là hắn, chứ không ai khác!
- Chính hắn! - James Starr nhắc lại.
- Vâng, đúng thế! - Chàng thanh niên đáp - Đây đúng là nhân vật bí ẩn đã lẩn khuất xung quanh nhà mình. Đúng là nhân vật mà hàng trăm lần đã rình mò không sao bắt gặp được hắn cũng chính là tác giả của bức thư viết nhằm ngăn cản ông kỹ sư, không cho ông tiếp xúc với cha cháu và hắn cũng chính là kẻ đã ném đá trong giếng mỏ Yarow! Không nghi ngờ gì nữa! Tất cả là do bàn tay của người này mà ra cả.
Harry nói những lời trên với vẻ cuồng nhiệt với một lòng tin đã tác động hoàn toàn vào tâm trí ông kỹ sư. Về phần người đốc công già thì cũng chẳng cần thuyết phục ông thêm nữa. Thực tế là họ đang đứng trước một sự việc không thể chối cãi được: các khe hở, từ đó đám khí than có thể thoát ra nay đã bị bịt kín.
- Cầm chiếc cuốc chim lại đây, Harry - Simon Ford ra lệnh - Con hãy leo lên lưng cha! Ta vẫn còn đủ vững vàng để đỡ con!
Harry vâng lời. Cha anh đứng chống tay vào bờ đá. Harry leo lên vai ông, như vậy chiếc cuốc chim trong tay anh có thể với tới vết trét trên thành đá. Đoạn, anh hăm hở bổ vào chỗ bị bít cho nó bung ra.
Ngay tức thì một tiếng xì nhẹ vang lên giống như tiếng phát ra khi mở một chai sâm banh. Tiếng đó, trong các hầm mỏ than thường gọi là tiếng “pốp”.
Harry cầm lấy chiếc đèn và giơ nó vào gần khe hở.
Một tiếng nổ lạch tạch vang lên, và một ngọn lừa đỏ nhỏ, xung quanh viền xanh, lóe ra trên vách đá hệt như ngọn lửa ma trơi vậy.
Harry nhảy vội xuống đất trong khi đó người đốc công già không kìm nổi niềm vui sướng, nắm lấy tay ông kỹ sư mà reo lên :
- Hoan hô! Hoan hô! Ông James ơi! Khí than đã cháy. Vậy nơi này chắc chắn có một vỉa than mới!